1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

tiểu luận Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA COVID19 ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP

54 83 9

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Những Tác Động Của Covid-19 Đến Nền Kinh Tế Việt Nam Và Đề Xuất Các Giải Pháp
Trường học Trường Đại Học Sài Gòn
Chuyên ngành Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Trong Kinh Doanh
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2020-2021
Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 54
Dung lượng 372 KB

Cấu trúc

  • Chương 1: Giới thiệu đại dịch Covid-19 và nền kinh tế thế giới và VN 5 (4)
    • 1.1 Sơ lược đại dịch Covid -19 5 (0)
    • 1.2 Sơ lược ảnh hưởng của Covid-19 đến nền kinh tế toàn cầu 6 (6)
    • 1.3 Sơ lược ảnh hưởng của Covid-19 đến nền kinh tế Việt Nam 8 (8)
  • Chương 2: Tổng quan lý thuyết 9 (9)
    • 2.1 GDP và các công cụ đo lường kinh tế 9 (9)
    • 2.2 Các khái niệm khác 10 (0)
  • Chương 3: Phương pháp nghiên cứu đề tài 13 (12)
    • 3.1 Phương pháp nghiên cứu định tính 12 (0)
    • 3.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng 13 (0)
    • 3.3 Phương pháp nghiên cứu tài liệu 13 (13)
    • 3.4 Thu thập dữ liệu 14 (13)
    • 3.5 Dữ liệu sơ cấp 14 (13)
    • 3.6 Nguồn dữ liệu thứ cấp 14 (14)
    • 3.7 Phân tích số liệu 14 (14)
  • Chương 4: Thảo luận và kết quả 15 (14)

Nội dung

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 4 Chương 1: Giới thiệu đại dịch Covid19 và nền kinh tế thế giới và VN 5 1.1 Sơ lược đại dịch Covid 19 5 1.2 Sơ lược ảnh hưởng của Covid19 đến nền kinh tế toàn cầu 6 1.3 Sơ lược ảnh hưởng của Covid19 đến nền kinh tế Việt Nam 8 Chương 2: Tổng quan lý thuyết 9 2.1 GDP và các công cụ đo lường kinh tế 9 2.2 Các khái niệm khác 10 Chương 3: Phương pháp nghiên cứu đề tài 13 3.1 Phương pháp nghiên cứu định tính 12 3.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng 13 3.3 Phương pháp nghiên cứu tài liệu 13 3.4 Thu thập dữ liệu 14 3.5 Dữ liệu sơ cấp 14 3.6 Nguồn dữ liệu thứ cấp 14 3.7 Phân tích số liệu 14 Chương 4: Thảo luận và kết quả 15 4.1 Tình hình kinh tế 15 4.1.1 Trên thế giới 15 4.1.2 Ở Việt Nam 30 4.2 Dự báo nền kinh tế Việt Nam 40 4.3 Các biện pháp ứng phó và các chính sách kinh tế 46 4.3.1 Tăng cường tiêm vắc xin 46 4.3.2 Thực hiện các biện pháp y tế 47 4.3.3 Chính sách tiền tệ 50 4.3.4 Chính sách tài khóa 55 Chương 5: Kết luận 54 Nguồn tham khảo 55 LỜI MỞ ĐẦU COVID19 không chỉ là đại dịch toàn cầu và khủng hoảng sức khỏe cộng đồng; nó cũng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu và thị trường tài chính. Thu nhập giảm đáng kể, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và gián đoạn các ngành vận tải, dịch vụ và sản xuất là một trong những hậu quả của các biện pháp giảm thiểu dịch bệnh đã được thực hiện ở nhiều quốc gia. Rõ ràng là hầu hết các chính phủ trên thế giới đều đánh giá thấp nguy cơ lây lan nhanh chóng của COVID19 và hầu hết đã phản ứng trong ứng phó khủng hoảng của họ. Do các đợt bùng phát dịch bệnh không có khả năng biến mất trong tương lai gần, nên các hành động quốc tế chủ động được yêu cầu không chỉ để cứu sống người dân mà còn bảo vệ sự thịnh vượng kinh tế. Lý do chọn đề tài: Để hiểu rõ những hậu quả mà đại dịch covid19 gây ra cho nên kinh tế chúng em xin chọn đề tài: “Những tác động của đại dịch Covid19 đến nền kinh tế Việt Nam và đề xuất kiến nghị khắc phục” Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá những tác động của covid19 từ đó nêu ra giải pháp khắc phục. Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu tác động của Covid19 ở Việt Nam từ 2020 đến tháng 32021 Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp định tính và định lượng. Việc thu thập dữ liệu từ tổng cục thống kê và các kênh thông tin chính thống. Nội dung bài luận: Chương 1: Giới thiệu vấn đề: Đại dịch covid19 và nền kinh tế thế giới và Việt Nam Chương 2: Tổng quan lý thuyết nghiên cứu Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Thảo luận và kết quả Chương 5: Kết luận CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐẠI DỊCH COVID19 VÀ NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 1.1 Sơ lược về Covid19 và nền kinh tế Đại dịch COVID19 là một đại dịch bệnh truyền nhiễm với tác nhân là virus SARSCoV2, đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Khởi nguồn vào cuối tháng 12 năm 2019 với tâm dịch đầu tiên được ghi nhận tại thành phố Vũ Hán thuộc miền Trung Trung Quốc, bắt nguồn từ một nhóm người mắc viêm phổi không rõ nguyên nhân. Giới chức y tế địa phương xác nhận rằng trước đó họ đã từng tiếp xúc, chủ yếu với những thương nhân buôn bán và làm việc tại chợ bán buôn hải sản Hoa Nam. Các nhà khoa học Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu và phân lập được một chủng coronavirus mới, được Tổ chức Y tế Thế giới lúc đó tạm thời gọi là 2019nCoV, có trình tự gen giống với SARSCoV trước đây với mức tương đồng lên tới 79,5%. Các ca nghi nhiễm đầu tiên ở Vũ Hán được báo cáo vào ngày 31 tháng 12 năm 2019. Trường hợp tử vong do SARSCoV2 đầu tiên xảy ra ở Vũ Hán vào ngày 9 tháng 1 năm 2020 Các ca nhiễm virus đầu tiên được xác nhận bên ngoài Trung Quốc bao gồm hai người phụ nữ ở Thái Lan và một người đàn ông ở Nhật Bản. Sự lây nhiễm virus từ người sang người đã được xác nhận cùng với tỷ lệ bùng phát dịch tăng nhanh vào giữa tháng 1 năm 2020. Ngày 23 tháng 1 năm 2020, chính phủ Trung Quốc quyết định phong tỏa Vũ Hán, toàn bộ hệ thống giao thông công cộng và hoạt động xuất nhập khẩu đều bị tạm ngưng. Ngày 11 tháng 3 năm 2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ra tuyên bố gọi COVID19 là Đại dịch toàn cầu”. Chính phủ các quốc gia trên thế giới đã tiến hành phản ứng đáp trả nhằm bảo vệ sức khỏe người dân cũng như các nhóm cộng đồng trên toàn cầu, bao gồm: hạn chế đi lại, phong tỏa kiểm dịch, ban bố tình trạng khẩn cấp, sử dụng lệnh giới nghiêm, tiến hành cách ly xã hội, hủy bỏ các sự kiện đông người, đóng cửa trường học và những cơ sở dịch vụ, kinh doanh ít quan trọng, khuyến khích người dân tự nâng cao ý thức phòng bệnh, đeo khẩu trang, hạn chế ra ngoài khi không cần thiết, đồng thời chuyển đổi mô hình hoạt động kinh doanh, học tập, làm việc từ truyền thống sang trực tuyến. Một số ví dụ tiêu biểu có thể kể đến như: phong tỏa để kiểm dịch toàn bộ tại Ý và tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc; các biện pháp giới nghiêm khác nhau ở Trung Quốc và Hàn Quốc; phương pháp sàng lọc tại các sân bay và nhà ga; hạn chế hoặc hủy bỏ các hoạt động du lịch tới những khu vực, vùng, quốc gia có nguy cơ nhiễm dịch bệnh ở mức cao. Ngoài ra, các trường học cũng đã phải đóng cửa trên toàn quốc hoặc ở một số vùng tại hơn 160 quốc gia, ảnh hưởng đến 87% học sinh, sinh viên trên toàn thế giới, tính đến ngày 28 tháng 3 năm 2020. Những ảnh hưởng trên toàn thế giới của đại dịch COVID19 hiện nay bao gồm: thiệt hại sinh mạng con người, sự bất ổn về kinh tế và xã hội, tình trạng bài ngoại và phân biệt chủng tộc đối với người gốc Trung Quốc và Đông Á, việc truyền bá thông tin sai lệch trực tuyến và thuyết âm mưu về virus. 1.2 Sơ lược ảnh hưởng của Covid19 đến nền kinh tế toàn cầu Mặc dù không có cách nào để nói chính xác thiệt hại kinh tế từ đại dịch coronavirus COVID19 toàn cầu sẽ như thế nào, nhưng có sự đồng tình rộng rãi giữa các nhà kinh tế rằng nó sẽ có những tác động tiêu cực nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu. Các ước tính ban đầu dự đoán rằng, nếu vi rút trở thành đại dịch toàn cầu, hầu hết các nền kinh tế lớn sẽ mất ít nhất 2,9% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của họ vào năm 2020. Dự báo này đã được điều chỉnh lại thành tổn thất GDP là 4,5%. Để đưa con số này vào viễn cảnh, GDP toàn cầu được ước tính vào khoảng 87,55 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2019 có nghĩa là mức tăng trưởng kinh tế giảm 4,5% dẫn đến sản lượng kinh tế bị mất gần 3,94 nghìn tỷ đô la Mỹ. Thị trường chứng khoán toàn cầu cũng đã bị sụt giảm nghiêm trọng do sự bùng phát của coronavirus, mặc dù chúng đã có thể phục hồi sau những tổn thất khá nhanh chóng. Chỉ số Dow Jones đã báo cáo mức giảm trong một ngày lớn nhất từ trước đến nay là gần 3.000 điểm vào ngày 16 tháng 3 năm 2020 đánh bại kỷ lục trước đó là 2.300 điểm được thiết lập chỉ bốn ngày trước đó. Thiệt hại kinh tế do đại dịch COVID19 gây ra phần lớn là do nhu cầu giảm, có nghĩa là có ít người tiêu dùng sẵn sàng mua hàng hóa và dịch vụ có sẵn trong nền kinh tế toàn cầu. Có thể thấy rõ sự năng động này trong các ngành bị ảnh hưởng nặng nề như du lịch và lữ hành. Để làm chậm sự lây lan của virus, các quốc gia đã đặt ra các hạn chế về việc đi lại và nhiều người không thể mua các chuyến bay cho các kỳ nghỉ hoặc các chuyến công tác. Sự sụt giảm nhu cầu của người tiêu dùng là nguyên nhân khiến các hãng hàng không mất doanh thu theo kế hoạch và do đó họ phải cắt giảm chi phí bằng cách giảm số lượng chuyến bay mà họ khai thác. Nếu không có sự hỗ trợ của chính phủ, các hãng hàng không cuối cùng cũng sẽ cần phải cắt giảm nhiều thứ để cắt giảm chi phí hơn. Động lực tương tự cũng áp dụng cho các ngành công nghiệp khác, chẳng hạn với nhu cầu giảm đối với dầu và ô tô mới do việc đi lại hàng ngày, các sự kiện xã hội và ngày lễ không còn khả thi. Khi các công ty bắt đầu giảm việc làm để bù đắp cho doanh thu bị mất, điều đáng lo ngại là điều này sẽ tạo ra một vòng xoáy kinh tế đi xuống khi những công nhân mới thất nghiệp này không còn đủ khả năng mua nhiều hàng hóa và dịch vụ như trước. Động lực này khiến các nhà kinh tế suy nghĩ xem liệu đại dịch COVID19 có thể dẫn đến suy thoái toàn cầu trên quy mô của cuộc Đại suy thoái hay không. Mặc dù nền kinh tế toàn cầu đang gặp nguy hiểm rõ ràng, nhưng cũng có những lý do để hy vọng rằng có thể tránh được trường hợp xấu nhất này. Các chính phủ đã học được từ các cuộc khủng hoảng trước đó rằng tác động của suy thoái do nhu cầu thúc đẩy có thể được đối phó với chi tiêu của chính phủ. Do đó, nhiều chính phủ đang tăng cường cung cấp phúc lợi tiền tệ cho người dân và đảm bảo các doanh nghiệp có quyền truy cập vào các quỹ cần thiết để duy trì việc làm cho nhân viên của họ trong suốt đại dịch. Ngoài ra, bản chất cụ thể của cuộc khủng hoảng này có nghĩa là một số ngành có thể được hưởng lợi từ nó. Thương mại điện tử, bán lẻ thực phẩm và ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe mang lại ít nhất một số tăng trưởng kinh tế để bù đắp thiệt hại. Ngoài ra, có thể quan sát thấy sự dịch chuyển gây ra khủng hoảng đối với các hoạt động trực tuyến (làm việc tại nhà, mua hàng trực tuyến, liên hệ với gia đình, v.v.). Nó tạo cơ hội cho các nhà cung cấp giải pháp CNTT tăng thị phần của họ. Cuối cùng, có một thực tế là cuộc khủng hoảng có thể có một ngày kết thúc rõ ràng khi tất cả các hạn chế có thể được dỡ bỏ điều này dường như có thể thực hiện được khi phần lớn dân số toàn cầu được tiêm vắc xin COVID19. Sau đó, nó có thể cho phép nền kinh tế toàn cầu phục hồi mạnh sau khi đại dịch kết thúc. Vẫn còn nhiều biến số có thể ảnh hưởng đến sự phục hồi kinh tế như vậy ví dụ, nguồn cung hàng hóa và dịch vụ giảm để đáp ứng nhu cầu thấp hơn có thể tạo ra sự thiếu hụt trung hạn và tăng giá nhưng có một số lý do để nghĩ rằng, với sự kết hợp phù hợp phản ứng thích hợp của chính phủ và may mắn, một số dự đoán về ngày tận thế hơn có thể không xảy ra. 1.3 Sơ lược ảnh hưởng của Covid19 đến nền kinh tế Việt Nam Khác với 2 cú sốc trước là về tài chính tiền tệ, cú sốc COVID19 lần này chưa từng có tiền lệ, tác động mạnh mẽ lên nhiều nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Mặc dù đại dịch COVID19 tác động lên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nước ta, nhưng thể hiện tập trung ở hai yếu tố chính là cung và cầu. Đối với yếu tố cầu, dịch bệnh COVID19 cùng với việc thực hiện biện pháp giãn cách xã hội làm tiêu dùng trong nước sụt giảm mạnh. Trong khi đó, các nền kinh tế lớn (Mỹ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc) cũng chịu ảnh hưởng lớn bởi dịch bệnh và thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội dẫn đến tăng trưởng kinh tế suy giảm, kéo theo sự sụt giảm về cầu nhập khẩu, trong đó có hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam. COVID19 tác động lên mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, hoạt động thương mại, lao động, việc làm và thu nhập của người lao động. Tuy nhiên, đứng trước cú sốc này, Nhà nước nhanh chóng thực hiện các giải pháp mạnh, trước hết là để hạn chế sự lây lan của dịch bệnh, sau đó là để phát triển kinh tế. Các giải pháp đã chứng tỏ thành công bước đầu khi khống chế được dịch bệnh, không để lây lan trong cộng đồng trong thời gian dài (trên 3 tháng) và các hoạt động phát triển kinh tế xã hội, nhất là hoạt động du lịch cũng đang bắt đầu trên con đường khởi sắc trở lại trước khi dịch bệnh bùng phát lần nữa vào cuối tháng 72020. CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT 2.1 GDP và các công cụ đo lường kinh tế: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là thước đo tiêu chuẩn của giá trị gia tăng được tạo ra thông qua sản xuất hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Như vậy, nó cũng đo lường thu nhập kiếm được từ hoạt động sản xuất đó, hoặc tổng số tiền chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ cuối cùng (nhập khẩu ít hơn). Trong khi GDP là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá hoạt động kinh tế, nó không cung cấp một thước đo phù hợp về phúc lợi vật chất của người dân mà các chỉ số thay thế có thể phù hợp hơn. Chỉ số này dựa trên GDP danh nghĩa (còn được gọi là GDP theo giá hiện hành hoặc GDP theo giá trị) và có sẵn trong các thước đo khác nhau: đô la Mỹ và đô la Mỹ trên đầu người (PPP hiện tại). Tất cả các nước OECD tổng hợp dữ liệu của họ theo Hệ thống Tài khoản Quốc gia (SNA) năm 2008. Chỉ số này ít phù hợp hơn để so sánh theo thời gian, vì sự phát triển không chỉ do tăng trưởng thực tế gây ra mà còn do những thay đổi về giá cả và PPP. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là ước tính tổng giá trị của tất cả các sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong một thời kỳ nhất định theo tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của cư dân của một quốc gia. GNP thường được tính bằng cách lấy tổng chi tiêu tiêu dùng cá nhân, đầu tư tư nhân trong nước, chi tiêu chính phủ, xuất khẩu ròng và bất kỳ thu nhập nào mà người cư trú kiếm được từ các khoản đầu tư ở nước ngoài, trừ đi thu nhập kiếm được trong nền kinh tế trong nước của người cư trú nước ngoài. Xuất khẩu ròng thể hiện sự chênh lệch giữa những gì một quốc gia xuất khẩu trừ đi bất kỳ nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ nào. GNP liên quan đến một thước đo kinh tế quan trọng khác được gọi là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tính đến tất cả sản lượng được sản xuất trong biên giới của một quốc gia bất kể ai sở hữu tư liệu sản xuất. GNP bắt đầu bằng GDP, cộng thu nhập đầu tư của cư dân từ các khoản đầu tư ra nước ngoài và trừ thu nhập đầu tư của cư dân nước ngoài kiếm được trong một quốc gia. 2.2 Một số khái niệm: Thất nghiệp xảy ra khi một người đang tích cực tìm kiếm việc làm không thể tìm được việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp thường được sử dụng như một thước đo sức khỏe của nền kinh tế. Thước đo thất nghiệp phổ biến nhất là tỷ lệ thất nghiệp, là số người thất nghiệp chia cho số người trong lực lượng lao động. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn. Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %. Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức: y = dYY × 100(%), Trong đó Y là quy mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa. Xuất khẩu ròng là thước đo tổng thương mại của một quốc gia. Công thức cho xuất khẩu ròng là một công thức đơn giản: Giá trị của tổng hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu của một quốc gia trừ đi giá trị của tất cả hàng hóa và dịch vụ mà quốc gia đó nhập khẩu bằng với xuất khẩu ròng của quốc gia đó. Một quốc gia có xuất khẩu ròng dương được hưởng thặng dư thương mại, trong khi xuất khẩu ròng âm có nghĩa là quốc gia đó có thâm hụt thương mại. Do đó, xuất khẩu ròng của một quốc gia là một thành phần của cán cân thương mại tổng thể của quốc gia đó. Nhà nhập khẩu ròng là một quốc gia mua từ các quốc gia khác về mặt thương mại toàn cầu nhiều hơn là bán cho họ trong một khoảng thời gian nhất định. Các quốc gia sản xuất hàng hóa dựa trên các nguồn tài nguyên sẵn có trong khu vực của họ. Bất cứ khi nào một quốc gia không thể sản xuất một hàng hóa cụ thể nhưng vẫn muốn có nó, quốc gia đó có thể mua nó như một hàng nhập khẩu từ các nước khác sản xuất và bán hàng hóa đó. Một nhà nhập khẩu ròng có thể được đối chiếu với một nhà xuất khẩu ròng, là một quốc gia bán ra nước ngoài nhiều hơn lượng họ mua. Cán cân thương mại (BOT) là sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa xuất khẩu của một quốc gia và giá trị hàng hóa nhập khẩu của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Cán cân thương mại là thành phần lớn nhất của cán cân thanh toán (BOP) của một quốc gia. Đôi khi cán cân thương mại giữa hàng hóa của một quốc gia và cán cân thương mại giữa các dịch vụ của quốc gia đó được phân biệt như hai con số riêng biệt. Cán cân thương mại còn được gọi là cán cân thương mại, cán cân thương mại quốc tế, cán cân thương mại hoặc xuất khẩu ròng. Lạm phát là sự suy giảm sức mua của một loại tiền nhất định theo thời gian. Một ước tính định lượng về tốc độ suy giảm sức mua có thể được phản ánh trong sự gia tăng của mức giá trung bình của một rổ hàng hóa và dịch vụ được lựa chọn trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian nào đó. Sự gia tăng của mức giá chung, thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm, có nghĩa là một đơn vị tiền tệ có hiệu quả mua ít hơn so với thời kỳ trước. Lạm phát có thể đối lập với giảm phát, xảy ra khi sức mua của tiền tệ tăng lên và giá cả giảm xuống. Chính sách tiền tệ, mặt cầu của chính sách kinh tế, đề cập đến các hành động do ngân hàng trung ương của một quốc gia thực hiện nhằm kiểm soát cung tiền và đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Chính sách tài khóa đề cập đến việc sử dụng chính sách chi tiêu và thuế của chính phủ để tác động đến các điều kiện kinh tế, đặc biệt là các điều kiện kinh tế vĩ mô, bao gồm tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ, việc làm, lạm phát và tăng trưởng kinh tế.

Giới thiệu đại dịch Covid-19 và nền kinh tế thế giới và VN 5

Sơ lược ảnh hưởng của Covid-19 đến nền kinh tế toàn cầu 6

Mặc dù không thể xác định chính xác thiệt hại kinh tế từ đại dịch COVID-19, các nhà kinh tế đều đồng ý rằng nó sẽ gây ra tác động tiêu cực nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu Các ước tính ban đầu cho thấy, nếu virus trở thành đại dịch toàn cầu, hầu hết các nền kinh tế lớn sẽ mất ít nhất 2,9% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2020.

Dự báo tổn thất GDP đã được điều chỉnh xuống còn 4,5% Để đặt con số này vào bối cảnh, GDP toàn cầu ước tính đạt khoảng 87,55 nghìn tỷ đô la Mỹ.

2019 - có nghĩa là mức tăng trưởng kinh tế giảm 4,5% dẫn đến sản lượng kinh tế bị mất gần 3,94 nghìn tỷ đô la Mỹ.

Thị trường chứng khoán toàn cầu đã trải qua sự sụt giảm nghiêm trọng do đại dịch coronavirus, nhưng nhanh chóng hồi phục sau những tổn thất Vào ngày 16 tháng 3 năm 2020, chỉ số Dow Jones ghi nhận mức giảm trong một ngày lớn nhất từ trước đến nay, gần 3.000 điểm, vượt qua kỷ lục 2.300 điểm chỉ bốn ngày trước đó.

Đại dịch COVID-19 đã gây ra thiệt hại kinh tế lớn do nhu cầu tiêu dùng giảm, đặc biệt trong các ngành như du lịch và lữ hành Các hạn chế đi lại đã khiến nhiều người không thể đặt chuyến bay, dẫn đến sự sụt giảm doanh thu của các hãng hàng không buộc họ phải cắt giảm số lượng chuyến bay Nếu không có sự hỗ trợ từ chính phủ, các hãng hàng không sẽ phải thực hiện nhiều biện pháp cắt giảm chi phí hơn nữa Tình trạng này cũng ảnh hưởng đến các ngành khác như dầu mỏ và ô tô, khi nhu cầu giảm do hạn chế đi lại và sự ngừng hoạt động của các sự kiện xã hội Khi các công ty bắt đầu sa thải nhân viên để đối phó với doanh thu giảm, điều này có thể tạo ra một vòng xoáy kinh tế tiêu cực, khi những người lao động thất nghiệp không còn khả năng chi tiêu như trước Tình hình này khiến các nhà kinh tế lo ngại về khả năng xảy ra suy thoái toàn cầu tương tự như cuộc Đại suy thoái.

Mặc dù nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với nhiều thách thức, vẫn có lý do để hy vọng vào sự phục hồi Các chính phủ đã rút ra bài học từ các cuộc khủng hoảng trước và đang tăng cường chi tiêu phúc lợi để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp duy trì việc làm trong đại dịch Một số ngành như thương mại điện tử, bán lẻ thực phẩm và chăm sóc sức khỏe đang ghi nhận tăng trưởng, giúp bù đắp thiệt hại kinh tế Đồng thời, sự chuyển dịch sang các hoạt động trực tuyến như làm việc tại nhà và mua sắm trực tuyến mở ra cơ hội cho các nhà cung cấp giải pháp CNTT gia tăng thị phần.

Cuộc khủng hoảng COVID-19 có thể kết thúc khi phần lớn dân số toàn cầu được tiêm vắc xin, tạo điều kiện cho nền kinh tế phục hồi Mặc dù còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phục hồi kinh tế như nguồn cung hàng hóa và dịch vụ, nhưng với phản ứng chính phủ phù hợp và một chút may mắn, những dự đoán bi quan có thể không trở thành hiện thực.

Sơ lược ảnh hưởng của Covid-19 đến nền kinh tế Việt Nam 8

Cú sốc COVID-19 đã tạo ra ảnh hưởng sâu rộng chưa từng có trên toàn cầu, đặc biệt là tại Việt Nam, khác với hai cú sốc tài chính - tiền tệ trước đây.

Đại dịch COVID-19 đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam, chủ yếu qua hai yếu tố chính: cung và cầu Yếu tố cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng do dịch bệnh và các biện pháp giãn cách xã hội, dẫn đến sự sụt giảm tiêu dùng trong nước Đồng thời, các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng chịu ảnh hưởng nặng nề, khiến tăng trưởng kinh tế giảm và kéo theo sự sụt giảm nhu cầu nhập khẩu, bao gồm hàng hóa từ Việt Nam.

COVID-19 đã ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế - xã hội, gây ra tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, thương mại, lao động và thu nhập của người dân Để ứng phó với tình hình này, Nhà nước đã nhanh chóng triển khai các giải pháp mạnh mẽ nhằm hạn chế sự lây lan của dịch bệnh và thúc đẩy phát triển kinh tế Những biện pháp này đã đạt được những thành công ban đầu, kiểm soát dịch bệnh và ngăn chặn lây lan trong cộng đồng trong hơn 3 tháng Các hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là du lịch, đang dần hồi phục trước khi đối mặt với đợt bùng phát dịch mới vào cuối tháng 7-2020.

Tổng quan lý thuyết 9

GDP và các công cụ đo lường kinh tế 9

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là chỉ số tiêu chuẩn đo lường giá trị gia tăng từ sản xuất hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định GDP không chỉ phản ánh thu nhập từ hoạt động sản xuất mà còn tổng hợp chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ cuối cùng, sau khi trừ đi nhập khẩu Mặc dù GDP là chỉ số quan trọng để đánh giá hoạt động kinh tế, nó không hoàn toàn phản ánh phúc lợi vật chất của người dân, do đó cần xem xét các chỉ số thay thế khác Chỉ số GDP thường được tính theo giá hiện hành và có thể được biểu thị bằng đô la Mỹ hoặc đô la Mỹ trên đầu người (PPP hiện tại) Tất cả các quốc gia thuộc OECD đều tổng hợp dữ liệu theo Hệ thống Tài khoản Quốc gia (SNA).

Chỉ số này từ năm 2008 không hoàn toàn thích hợp để so sánh theo thời gian, vì sự phát triển không chỉ xuất phát từ tăng trưởng thực tế mà còn bị ảnh hưởng bởi những biến động về giá cả và sức mua tương đương (PPP).

Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là chỉ số đo lường tổng giá trị của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định, dựa trên tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của cư dân trong quốc gia GNP được tính bằng tổng chi tiêu tiêu dùng cá nhân, đầu tư tư nhân, chi tiêu chính phủ, xuất khẩu ròng và thu nhập từ đầu tư nước ngoài, trừ đi thu nhập của người nước ngoài trong nền kinh tế nội địa Xuất khẩu ròng phản ánh sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia.

GNP là một thước đo kinh tế quan trọng, liên quan chặt chẽ đến tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tính toán tất cả sản lượng sản xuất trong biên giới quốc gia mà không phân biệt quyền sở hữu tư liệu sản xuất Để tính GNP, bắt đầu với GDP, sau đó cộng thu nhập đầu tư của cư dân từ nước ngoài và trừ đi thu nhập đầu tư của cư dân nước ngoài trong quốc gia đó.

Thất nghiệp là tình trạng xảy ra khi một cá nhân đang tích cực tìm kiếm việc làm nhưng không thể tìm được công việc phù hợp Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ số quan trọng để đánh giá sức khỏe của nền kinh tế, được tính bằng cách chia số người thất nghiệp cho tổng số người trong lực lượng lao động.

Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia bình quân đầu người (PCI) trong một khoảng thời gian nhất định Để đánh giá tăng trưởng kinh tế, có thể sử dụng các chỉ số như mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn cụ thể.

Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế được xác định bằng cách tính chênh lệch giữa quy mô kinh tế hiện tại và quy mô kinh tế của kỳ trước, sau đó chia cho quy mô kinh tế kỳ trước Kết quả của phép tính này được biểu thị dưới dạng phần trăm (%).

Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức: y = dY/Y × 100(%),

Quy mô của nền kinh tế được biểu thị bằng Y, trong khi y đại diện cho tốc độ tăng trưởng Khi quy mô kinh tế được đo bằng GDP hoặc GNP danh nghĩa, tốc độ tăng trưởng sẽ tương ứng là GDP (hoặc GNP) danh nghĩa Ngược lại, nếu quy mô kinh tế được tính bằng GDP hoặc GNP thực tế, tốc độ tăng trưởng sẽ là GDP (hoặc GNP) thực tế Thông thường, tăng trưởng kinh tế được đánh giá chủ yếu dựa trên các chỉ tiêu thực tế thay vì các chỉ tiêu danh nghĩa.

Xuất khẩu ròng là chỉ số quan trọng phản ánh tổng thương mại của một quốc gia Nó được tính bằng cách lấy giá trị tổng hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu trừ đi giá trị tất cả hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu Công thức này giúp xác định tình hình thương mại của quốc gia.

Một quốc gia có xuất khẩu ròng dương sẽ có thặng dư thương mại, trong khi xuất khẩu ròng âm dẫn đến thâm hụt thương mại Vì vậy, xuất khẩu ròng là yếu tố quan trọng trong cán cân thương mại tổng thể của quốc gia.

Nhà nhập khẩu ròng là quốc gia mua nhiều hơn bán trong thương mại toàn cầu trong một khoảng thời gian nhất định Các quốc gia sản xuất hàng hóa dựa trên nguồn tài nguyên sẵn có tại khu vực của họ Khi một quốc gia không thể sản xuất một hàng hóa cụ thể nhưng vẫn muốn sở hữu, họ có thể nhập khẩu từ các quốc gia khác sản xuất và bán hàng hóa đó.

Một nhà nhập khẩu ròng có thể được đối chiếu với một nhà xuất khẩu ròng, là một quốc gia bán ra nước ngoài nhiều hơn lượng họ mua.

Cán cân thương mại (BOT) là sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định Đây là thành phần quan trọng nhất của cán cân thanh toán (BOP) của quốc gia Thỉnh thoảng, cán cân thương mại hàng hóa và cán cân thương mại dịch vụ được phân biệt thành hai chỉ số riêng biệt.

Cán cân thương mại còn được gọi là cán cân thương mại, cán cân thương mại quốc tế, cán cân thương mại hoặc xuất khẩu ròng.

Lạm phát là hiện tượng giảm giá trị sức mua của tiền theo thời gian Tốc độ suy giảm này có thể được đo lường thông qua các chỉ số kinh tế, phản ánh sự gia tăng giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế.

Các khái niệm khác 10

Lạm phát có thể đối lập với giảm phát, xảy ra khi sức mua của tiền tệ tăng lên và giá cả giảm xuống.

Chính sách tiền tệ là một phần quan trọng trong chính sách kinh tế, bao gồm các biện pháp do ngân hàng trung ương thực hiện để kiểm soát lượng tiền cung ứng Mục tiêu của chính sách này là đạt được các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Chính sách tài khóa là công cụ của chính phủ nhằm điều chỉnh chi tiêu và thuế, ảnh hưởng đến các yếu tố kinh tế vĩ mô như tổng cầu hàng hóa và dịch vụ, việc làm, lạm phát và tăng trưởng kinh tế.

Phương pháp nghiên cứu đề tài 13

Phương pháp nghiên cứu tài liệu 13

Phương pháp nghiên cứu tài liệu nhằm thu thập thông tin về cơ sở lý thuyết, kết quả nghiên cứu đã công bố, chính sách liên quan và số liệu thống kê Quá trình này thường trải qua ba bước chính: thu thập tài liệu, phân tích tài liệu và trình bày tóm tắt nội dung các nghiên cứu trước đó.

Thu thập dữ liệu 14

Công cụ nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập dữ liệu cho nghiên cứu Có nhiều loại công cụ như bảng câu hỏi, bài kiểm tra và phỏng vấn, mỗi loại đều có ưu và nhược điểm riêng Điều quan trọng nhất để đảm bảo thành công của nghiên cứu là cách thức sử dụng các công cụ này để thu thập thông tin nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu, thay vì chỉ tập trung vào số lượng công cụ được sử dụng.

Dữ liệu sơ cấp 14

Dữ liệu sơ cấp sẽ được thu thập nhằm phục vụ cho các nghiên cứu cụ thể, đảm bảo tính phù hợp với vấn đề nghiên cứu Tác giả sẽ xây dựng kế hoạch thu thập thông tin từ các ngành kinh tế.

Nguồn dữ liệu thứ cấp 14

Tác giả tiến hành nghiên cứu các công trình, bài báo và tạp chí liên quan trước đó, đồng thời tham khảo số liệu từ Tổng cục Thống kê để thu thập thông tin cần thiết phục vụ cho công tác nghiên cứu của mình.

Phân tích số liệu 14

Sau khi xác định lượng mẫu, nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng phần mềm SPSS 22.0 để phân tích và tổng hợp dữ liệu thu thập được, nhằm đưa ra những nhận định khách quan về tác động của dịch Covid-19 đến nền kinh tế SPSS là một trong những phần mềm phân tích dữ liệu phổ biến hiện nay, cho phép xử lý các dữ liệu phức tạp với hướng dẫn đơn giản Phần mềm này có khả năng lấy dữ liệu từ nhiều loại tệp, lập bảng, biểu đồ, biểu thị xu hướng, thực hiện thống kê mô tả và phân tích các thống kê phức tạp, bao gồm các phương trình hồi quy đơn và đa biến.

Thảo luận và kết quả 15

Năm 2020, đại dịch COVID-19 đã gây ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu nghiêm trọng Tuy nhiên, đầu năm 2021, với việc triển khai vắc xin hiệu quả, triển vọng kinh tế đã cải thiện đáng kể Ngân hàng Thế giới dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ đạt 4% trong năm 2021, sau khi giảm 4,3% vào năm 2020 Quỹ Tiền tệ Quốc tế cũng nhận định tăng trưởng toàn cầu sẽ tăng 5,5% vào năm 2021 Các tổ chức tài chính như Conference Board và Fitch Ratings dự báo tăng trưởng lần lượt là 5,0% và 6,1% Khu vực phát triển như Hoa Kỳ dự kiến tăng trưởng 6,5%, trong khi khu vực đồng Euro đạt 3,9% Nhật Bản và Trung Quốc dự báo tăng trưởng 2,7% và 7,8% trong năm 2021 Tại Đông Nam Á, Việt Nam và Malaysia được xem là động lực tăng trưởng với mức 7,0%, trong khi Philippines, Thái Lan và Indonesia dự báo tăng trưởng 5,9%, 4,5% và 4,9% Trong ngắn hạn, Fitch Ratings dự báo GDP toàn cầu quý I/2021 tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, với sự tăng trưởng mạnh mẽ của Trung Quốc đạt 19,3%.

Xu hướng kinh tế vĩ mô toàn cầu:

• Kinh tế toàn cầu tiếp tục đà phục hồi

Theo Ngân hàng Thế giới, sau suy thoái năm 2020 do COVID-19, tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến đạt 4% trong năm 2021, nhưng chỉ 3,8% vào năm 2022 do tác động lâu dài của đại dịch Kinh tế toàn cầu sẽ phục hồi mạnh khi niềm tin tiêu dùng và thương mại cải thiện nhờ nỗ lực tiêm chủng Các nền kinh tế phát triển dự báo tăng trưởng 3,3% và 3,5% vào năm 2021 và 2022, trong khi các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi sẽ đạt 5% vào năm 2021, giảm xuống 4,2% vào năm 2022, nhờ vào sự phục hồi của kinh tế Trung Quốc.

Theo WB, chỉ số PMI toàn cầu đã tăng lên 53,2 điểm trong tháng 2/2021 từ 52,3 điểm của tháng 1/2021, nhờ những diễn biến tích cực trong việc ứng phó với đại dịch, cải thiện tâm lý nhà đầu tư Đồng thời, chỉ số niềm tin kinh tế toàn cầu (Sentix) cũng ghi nhận mức tăng 11 tháng liên tiếp, đạt 20,5 điểm trong tháng 3/2021, là mức cao nhất kể từ tháng 3/2018.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định rằng việc áp dụng các chính sách hỗ trợ và triển khai vắc xin sẽ kích thích hoạt động kinh tế toàn cầu Sau khi ghi nhận mức tăng trưởng -3,5% vào năm 2020, nền kinh tế toàn cầu dự báo sẽ phục hồi với mức tăng 5,5% vào năm 2021 và 4,2% vào năm tiếp theo.

Dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2021 đã được điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với ước tính vào tháng 10/2020, nhờ vào kỳ vọng cải thiện hoạt động kinh tế từ nỗ lực tiêm vắc-xin và các biện pháp hỗ trợ chính sách bổ sung tại một số nền kinh tế lớn.

Sự phục hồi kinh tế sau đại dịch sẽ có sự khác biệt rõ rệt giữa các quốc gia, với Hoa Kỳ và Nhật Bản được dự báo sẽ đạt mức tăng trưởng tương đương với trước đại dịch trong số các nền kinh tế phát triển.

Vào nửa cuối năm 2021, khu vực đồng Euro và Vương quốc Anh dự kiến sẽ phục hồi tăng trưởng trước đại dịch vào năm 2022, trong khi các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi có mức phục hồi khác nhau Trung Quốc được dự báo sẽ có quá trình phục hồi kinh tế nhanh chóng nhờ vào các biện pháp ngăn chặn dịch hiệu quả, đầu tư công mạnh mẽ và hỗ trợ thanh khoản cao từ ngân hàng trung ương Tuy nhiên, các nền kinh tế phụ thuộc vào du lịch sẽ gặp nhiều khó khăn do tác động nặng nề của đại dịch đối với du lịch xuyên biên giới.

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã cải thiện triển vọng kinh tế toàn cầu nhờ vào việc triển khai vắc xin hiệu quả và hỗ trợ tài chính bổ sung Dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu đạt 5,6% trong năm 2021 và 4% trong năm 2022, với sản xuất toàn cầu phục hồi vượt mức trước đại dịch giữa năm 2021 Tuy nhiên, sự phân hóa trong tăng trưởng giữa các quốc gia và lĩnh vực vẫn rõ rệt, khi các biện pháp ngăn chặn dịch COVID-19 nghiêm ngặt có thể kìm hãm tăng trưởng ở một số nơi, trong khi những quốc gia áp dụng chính sách y tế công cộng hiệu quả và tiêm chủng nhanh chóng sẽ được hưởng lợi.

Theo Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 3/2021 của Conference Board, sau khi giảm 3,7% trong năm 2020, GDP toàn cầu dự kiến tăng 5,0% trong năm 2021, cao hơn mức 4,4% dự báo trước đó Sự điều chỉnh này xuất phát từ dữ liệu GDP Quý IV/2020 tích cực hơn mong đợi của một số quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ, cùng với việc tăng trưởng của Hoa Kỳ được điều chỉnh nhờ gói tài khóa 1,9 nghìn tỷ USD Việc triển khai vắc-xin sẽ hỗ trợ phục hồi kinh tế toàn cầu từ Quý II hoặc Quý III/2021, nhưng các ngành dịch vụ bị ảnh hưởng nặng nề bởi COVID-19 sẽ chỉ phục hồi vào giữa năm 2022 tại các nền kinh tế phát triển Đối với nhiều quốc gia đang phát triển và thị trường mới nổi, quá trình phục hồi có thể kéo dài hơn, làm cho triển vọng tăng trưởng trong những năm tới trở nên không khả quan, đặc biệt tại châu Phi cận Sahara và châu Mỹ La-tinh.

Theo Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 3/2021 của Fitch Ratings, triển vọng tăng trưởng toàn cầu đang cải thiện nhờ vào sự hỗ trợ tài chính mạnh mẽ, khả năng thích ứng tốt hơn với các điều kiện giãn cách xã hội và động lực từ việc triển khai tiêm chủng GDP toàn cầu dự kiến sẽ tăng 6,1% trong năm 2021 sau khi giảm 3,4% trong năm 2020, với sự tăng trưởng mạnh mẽ trong Quý IV/2020 tại châu Âu và các thị trường mới nổi Trong ngắn hạn, Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu trong Quý I/2021 sẽ tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước và 0,2% so với quý trước.

Tổng quan biến động thị trường thế giới:

• Thương mại hàng hóa phục hồi mạnh mẽ nhưng triển vọng tăng trưởng thương mại dịch vụ còn khá mong manh

Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thương mại toàn cầu đã phục hồi mạnh mẽ trong Quý III và IV/2020, nhưng động lực này có thể không kéo dài trong nửa đầu năm 2021 Chỉ số thương mại hàng hóa tháng 2/2021 đạt 103,9, cho thấy sự cải thiện so với 100,7 trong tháng 11/2020, tuy nhiên, một số chỉ số quan trọng như đơn hàng xuất khẩu (103,4) và sản phẩm ô tô (99,8) đã bắt đầu mất đà tăng Trong khi đó, các chỉ số vận chuyển container (107,3) và hàng không (99,4) vẫn tiếp tục tăng Mặc dù các chỉ số về linh kiện điện tử (105,1) và nguyên liệu thô (106,9) cao hơn mức trung bình, nhưng có thể phản ánh tình trạng tồn kho tạm thời cao Những xu hướng này cho thấy đà đi lên của thương mại có thể sắp đạt đỉnh.

Thương mại dịch vụ toàn cầu vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi rõ rệt, giảm 24% trong Quý II/2020 so với cùng kỳ năm trước, theo số liệu của WTO Đến tháng 11/2020, thương mại dịch vụ vẫn thấp hơn 16% so với năm 2019, và triển vọng phục hồi tiếp tục kém do đợt lây nhiễm COVID-19 thứ hai dẫn đến các biện pháp ngăn chặn chặt chẽ hơn tại nhiều quốc gia, ảnh hưởng lớn đến du lịch Lĩnh vực du lịch đã giảm 68% toàn cầu so với năm 2019, với chi tiêu của khách quốc tế giảm mạnh: 88% ở châu Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, 80% ở châu Á và châu Phi, 78% ở Bắc Mỹ và 55% ở châu Âu.

• Giá cả trên thị trường hàng hóa có xu hướng phục hồi

Theo nhận định của WB, giá hàng hóa đang có xu hướng phục hồi, với mức tăng 10% đối với giá năng lượng và 4% cho các mặt hàng phi năng lượng trong tháng 01/2021 Mặc dù Cơ quan Năng lượng Quốc tế đã hạ thấp triển vọng nhu cầu dầu trong nửa đầu năm 2021 do các đợt ngừng hoạt động mới, giá dầu vẫn tiếp tục tăng trong tháng 02/2021, với giá dầu thô Brent đạt mức cao mới.

65 USD/thùng lần đầu tiên trong năm, được hỗ trợ bởi quyết định hạn chế sản xuất của

Giá kim loại đang tăng mạnh chủ yếu do nhu cầu cao từ Trung Quốc, trong khi giá nông sản cũng ghi nhận mức tăng 5% trong tháng 01/2021, đạt đỉnh cao nhất kể từ năm 2014 Sự gia tăng này đặc biệt rõ nét ở giá ngũ cốc và hạt có dầu, chịu ảnh hưởng từ nhu cầu gia tăng và sự thiếu hụt sản lượng ở một số khu vực, như sụt giảm sản lượng đậu tương ở Nam Mỹ và dầu cọ ở Nam Á do điều kiện thời tiết khô hạn.

• Điều kiện tài chính toàn cầu giúp tăng niềm tin của nhà đầu tư

Theo WB, chi phí đi vay hiện vẫn ở mức thấp, góp phần vào sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán toàn cầu trong tháng 02/2021, khi giá tài sản tiếp tục tăng nhờ kỳ vọng vào các biện pháp kích thích kinh tế mới tại Hoa Kỳ và triển vọng cải thiện trong việc đối phó với đại dịch Các điều kiện tài chính thuận lợi, với các ngân hàng trung ương cam kết tiếp tục mua tài sản, đã thúc đẩy doanh nghiệp huy động vốn Đến tháng 02/2021, các tập đoàn đã huy động gần 150 tỷ USD vốn chủ sở hữu, gấp hơn hai lần so với cùng kỳ năm trước, nhờ vào định giá vốn cổ phần cao và lãi suất thấp.

Ngày đăng: 21/09/2021, 18:38

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Đối với tình hình dịch bệnh hiện nay, rõ ràng việc tiêm vắc xin cho nhân dân để đạt miễn dịch cộng đồng là biện pháp cấp bách, rút ngắn thời gian phục hồi kinh tế, tái  hoạt động sản xuất, kinh doanh, đảm báo sức khỏe, y tế cộng đồng - tiểu luận Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA COVID19 ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP
i với tình hình dịch bệnh hiện nay, rõ ràng việc tiêm vắc xin cho nhân dân để đạt miễn dịch cộng đồng là biện pháp cấp bách, rút ngắn thời gian phục hồi kinh tế, tái hoạt động sản xuất, kinh doanh, đảm báo sức khỏe, y tế cộng đồng (Trang 45)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w