1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tài sản, sức khỏe, tính mạng trong các vụ tai nạn giao thông từ thực tiễn tại tỉnh hà tĩnh

58 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 58
Dung lượng 683,63 KB

Cấu trúc

  • A. Mở đầu (6)
    • 1. Lý do chọn đề tài (6)
    • 2. Tình hình nghiên cứu (7)
    • 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu (8)
    • 4. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu (8)
    • 5. Kết cấu đề tài (8)
  • B. Nội dung (10)
  • Chương 1: Cơ sở lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng trong các vụ tai nạn giao thông (10)
    • 1.1. Một số khái niệm cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (10)
    • 1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông (13)
    • 1.3. Khái quát các quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông (14)
  • Chương 2: Thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng trong các vụ tai nạn giao thông tại Hà Tĩnh (17)
    • 2.1. Quy định pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn (17)
      • 2.1.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại (17)
      • 2.1.2. Xác định thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng trong các vụ tai nạn giao thông (30)
    • 2.2. Thực tiễn giải quyết các vụ án về bồi thường thiệt hại do tai nạn giao thông tại tỉnh Hà Tĩnh (40)
  • Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hoạt động áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông (49)
    • 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định trong Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng trong các vụ tai nạn giao thông (51)
    • 3.3. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hoạt động áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông tại tỉnh Hà Tĩnh (53)
    • C. Kết luận (56)
    • D. Danh mục tài liệu tham khảo (57)

Nội dung

Nội dung

TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG

1.1 Một số khái niệm cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Trong xã hội hiện đại, con người không ngừng nỗ lực học tập và làm việc để tạo ra giá trị cho bản thân và cộng đồng Tuy nhiên, hành vi của con người cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro bất ngờ, có thể dẫn đến thiệt hại về tài sản, sức khỏe và tính mạng Thuật ngữ “tai nạn” được sử dụng để chỉ những hiện tượng này.

Trong mọi lĩnh vực nghề nghiệp, tai nạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào và thường được gọi theo tên của ngành đó Ví dụ, tai nạn lao động xảy ra trong lĩnh vực lao động, trong khi tai nạn giao thông (TNGT) xảy ra trong quá trình tham gia giao thông.

Trong nghiên cứu khoa học hay các văn bản pháp lý chuyên ngành thì khái niệm “TNGT” được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, tai nạn giao thông (TNGT) là sự kiện không mong muốn xảy ra ngoài ý muốn của người điều khiển phương tiện khi di chuyển trên đường Tai nạn này thường xảy ra do vi phạm các quy tắc an toàn giao thông hoặc do gặp phải những tình huống, sự cố bất ngờ mà không thể phòng tránh, dẫn đến thiệt hại về người và tài sản.

Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam tạo bởi Nguyễn Kim Vỹ thì

TNGT là sự cố bất ngờ xảy ra trên các tuyến đường giao thông công cộng, liên quan đến các đối tượng tham gia giao thông Nguyên nhân có thể do vi phạm quy định an toàn giao thông hoặc do tình huống không lường trước, dẫn đến thiệt hại về người và tài sản cho xã hội.

Cơ sở lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng trong các vụ tai nạn giao thông

Một số khái niệm cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Trong xã hội hiện đại, con người không ngừng nỗ lực học tập và làm việc để tạo ra giá trị cho bản thân và cộng đồng Tuy nhiên, những hành động này cũng tiềm ẩn rủi ro bất ngờ, có thể dẫn đến thiệt hại về tài sản, sức khỏe và tính mạng Thuật ngữ “tai nạn” được sử dụng để mô tả những hiện tượng này.

Trong mọi lĩnh vực nghề nghiệp, tai nạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào Tên gọi của tai nạn thường phản ánh lĩnh vực liên quan, ví dụ như tai nạn lao động trong ngành lao động hay tai nạn giao thông (TNGT) khi xảy ra trong quá trình tham gia giao thông.

Trong nghiên cứu khoa học hay các văn bản pháp lý chuyên ngành thì khái niệm “TNGT” được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, tai nạn giao thông (TNGT) là sự cố bất ngờ xảy ra ngoài ý muốn của người điều khiển phương tiện khi di chuyển trên đường TNGT thường do vi phạm các quy tắc an toàn giao thông hoặc gặp phải những tình huống, sự cố đột xuất mà không thể phòng tránh, dẫn đến thiệt hại về người và tài sản.

Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam tạo bởi Nguyễn Kim Vỹ thì

TNGT là sự cố bất ngờ xảy ra trên các tuyến đường giao thông công cộng, có thể do vi phạm quy định về an toàn giao thông hoặc do tình huống đột xuất không thể phòng tránh, dẫn đến thiệt hại về người và tài sản cho xã hội.

Nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông (TNGT) thường xuất phát từ việc vi phạm các quy định an toàn, hành vi cản trở giao thông, sự cố đột xuất không được xử lý kịp thời, hoặc các trường hợp bất khả kháng Những nguyên nhân này dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng, bao gồm thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản và tổn thất tinh thần.

Từ những ý kiến, lập luận như trên thì khái niệm TNGT được hiểu như sau:

TNGT là sự kiện xảy ra do hành vi vi phạm quy định an toàn giao thông, sự cố bất ngờ hoặc trường hợp bất khả kháng khi tham gia giao thông, dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản và tinh thần.

Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến tài sản, sức khỏe và tính mạng, đặc biệt trong các vụ tai nạn giao thông, yêu cầu người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Nhà nước Việt Nam áp dụng nhiều phương thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khi bị xâm phạm Một trong những quy định quan trọng trong lĩnh vực này là chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại Chương XXI, Phần thứ ba, với các điều luật liên quan.

Theo Điều 604 đến Điều 630 của Bộ Luật Dân Sự 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (TNBTTH) là loại trách nhiệm dân sự áp dụng cho những hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại phát sinh khi một cá nhân xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín hoặc tài sản của người khác Khi có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại, các quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại sẽ được thiết lập.

Người gây thiệt hại do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân hoặc pháp nhân, sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường.

2 Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó”

Vậy TNBTTH ngoài hợp đồng là gì? Qua những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về TNBTTH ngoài hợp đồng như sau:

TNBTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm pháp lý mà Nhà nước áp dụng, yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường do hành vi của mình, bất kể đó là do lỗi cố ý hay vô ý Hành vi này có thể xâm phạm đến tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân thân của cá nhân, cũng như tài sản và uy tín của pháp nhân hoặc các chủ thể khác.

TNBTTH ngoài hợp đồng do TNGT bao gồm hai trường hợp chính: hành vi trái pháp luật của con người và nguồn nguy hiểm cao độ Nguồn nguy hiểm cao độ được hiểu là những vật do pháp luật quy định, luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của con người, mà con người không thể kiểm soát hoàn toàn khi trông giữ, vận hành hoặc cho chúng hoạt động.

Phần lớn các vụ tai nạn giao thông (TNGT) liên quan đến các phương tiện giao thông cơ giới, chịu ảnh hưởng từ hành vi của con người, có thể là vô ý hoặc cố ý Nguồn nguy hiểm cao độ này chỉ gây thiệt hại khi có sự can thiệp của con người trong việc sử dụng, vận hành và bảo quản Do đó, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ TNGT, liệu do nguồn nguy hiểm cao độ hay hành vi trái pháp luật của con người gây ra, là rất quan trọng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản, sức khỏe và tính mạng.

Khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGT được hiểu là trách nhiệm dân sự, chủ yếu là TNBTTH ngoài hợp đồng, bao gồm TNBTTH về vật chất và tinh thần Trách nhiệm này phát sinh khi có hành vi vi phạm quy định an toàn giao thông, xâm phạm đến tài sản, sức khỏe và tính mạng của người khác.

11 khác, xâm phạm đến tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân khác mà gây thiệt hại.

Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (TNBTTH) do xâm phạm tài sản, sức khỏe và tính mạng trong các vụ tai nạn giao thông (TNGT) là một hình thức trách nhiệm dân sự, được áp dụng bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với những người vi phạm pháp luật TNBTTH này luôn dẫn đến hậu quả bất lợi cho người bị thiệt hại và được thực hiện thông qua biện pháp cưỡng chế của Nhà nước Ngoài ra, TNBTTH trong các vụ TNGT còn được coi là một dạng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, mang theo những đặc điểm chung đặc trưng của loại hình trách nhiệm này.

Theo quy định pháp luật, bồi thường thiệt hại (BTTH) là một loại trách nhiệm dân sự và được điều chỉnh bởi luật dân sự Khi một cá nhân gây ra thiệt hại cho người khác, họ có nghĩa vụ phải thực hiện bồi thường Quan hệ bồi thường thiệt hại thuộc lĩnh vực tài sản, được quy định trong Bộ luật Dân sự tại Điều 307 và Chương XXI, cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành.

Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, TNBTTH yêu cầu thỏa mãn các điều kiện sau: xảy ra thiệt hại, có hành vi trái pháp luật, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại, cùng với lỗi của người gây thiệt hại (mặc dù trong một số trường hợp, lỗi không phải là yếu tố bắt buộc) Đây là những điều kiện cơ bản để xác định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại Tuy nhiên, cũng có những trường hợp đặc biệt cần xem xét.

TNBTTH có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Hậu quả của TNBTTH thường dẫn đến thiệt hại tài sản cho người gây tổn thất Khi một cá nhân gây ra tổn thất cho người khác, họ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại đó.

Các thiệt hại cần được tính toán bằng tiền hoặc theo quy định của pháp luật để có thể thực hiện việc bồi thường Mặc dù thiệt hại về tinh thần khó có thể định lượng, nhưng vẫn được xác định bằng một khoản tiền theo quy định pháp luật nhằm bù đắp tổn thất cho người bị thiệt hại hoặc người thân của họ Do đó, việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ giúp khôi phục các lợi ích bị xâm hại và hạn chế thiệt hại xảy ra.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp tai nạn giao thông không chỉ áp dụng cho người trực tiếp gây thiệt hại mà còn mở rộng đến cha mẹ của người chưa thành niên và người giám hộ Bên cạnh những đặc điểm chung của trách nhiệm dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông có những điểm khác biệt liên quan đến việc xâm phạm sức khỏe, tính mạng và tài sản.

Hành vi trái pháp luật trong lĩnh vực an toàn giao thông là những vi phạm liên quan đến luật pháp, có yếu tố “lỗi” trong quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và tài sản trong các vụ tai nạn giao thông Tuy nhiên, có nhiều trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại không yêu cầu phải có lỗi, đặc biệt là những vụ việc do nguồn nguy hiểm cao độ, chẳng hạn như các phương tiện giao thông vận tải.

Chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông bao gồm chủ sở hữu phương tiện, người được giao quyền chiếm hữu và sử dụng phương tiện, cùng với cơ quan bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường hoặc liên đới bồi thường cho các thiệt hại phát sinh.

Khái quát các quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông

BTTH trong các vụ TNGT đã được ghi nhận từ sớm trong lịch sử pháp luật Việt Nam, cụ thể là trong Bộ luật Hồng Đức Luật này quy định rằng người vô cớ phóng ngựa trong phố phường, đường ngõ hay đám đông, nếu làm bị thương hoặc chết súc vật, thì phải bồi thường theo giá trị thiệt hại, ví dụ nếu con vật có giá 10 phần mà nay chỉ còn 2 phần thì phải bồi thường theo mức giá đó.

13 đền giá 8 phần; làm bị thương mất giá một phần thì phải đền giá một phần” 1

Thiệt hại trong quy định vừa nêu có thể được coi là thiệt hại do tai nạn giao thông và phương tiện giao thông ở đây là ngựa

Sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, chúng ta chưa thể ban hành các văn bản quy phạm pháp luật ngay lập tức Trong giai đoạn này, việc giải quyết các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chủ yếu dựa vào kinh nghiệm tổng kết của ngành Tòa án.

Xuất phát từ tình hình trên, căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn xét xử của các TAND, ngày

Vào ngày 23 tháng 3 năm 1972, Tòa án Nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 173-UBTP, hướng dẫn xét xử về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên tại Việt Nam quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đặc biệt là trong các vụ tai nạn giao thông Thông tư này đã được Tòa án Nhân dân áp dụng trong thực tiễn xét xử cho đến khi Bộ luật Dân sự năm 1995 có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm 1996.

Hiện nay, vấn đề bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông (TNGT) đang được chú trọng trong thực tiễn cuộc sống cũng như trong quá trình giải quyết tại Tòa án Nhân dân Nguyên tắc bồi thường thiệt hại và căn cứ xác định mức bồi thường đều dựa vào các hướng dẫn cụ thể.

Thông tư này không thể bao quát toàn bộ các vấn đề phát sinh trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông, do những khó khăn và đặc thù riêng biệt liên quan đến việc bồi thường thiệt hại trong các vụ TNGT.

Với lý do đó, ngày 5-04-1983 TAND tối cao đã ban hành thông tư số 03:

Hướng dẫn giải quyết các vấn đề liên quan đến bảo hiểm trách nhiệm dân sự trong tai nạn ô tô được quy định trong Thông tư 173/UBTP Thông tư này cụ thể hóa các hướng dẫn và giải quyết những vấn đề thường gặp trong thực tiễn của Tòa án Nhân dân.

Ngày 28/10/1995, kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa IX đã thông qua BLDS

1995, BLDS 1995 có hiệu lực từ ngày 1-7-1996 quy định về BTTH ngoài hợp đồng nói chung và BTTH trong các vụ TNGT nói riêng Trong phần thứ ba của

BLDS “ Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự” tại chương V quy định về

1 Điều 553 Bộ luật Hồng Đức

"TNBTTH ngoài hợp đồng" bao gồm ba mục với 25 điều, trong đó các quy định được pháp điển hóa từ hướng dẫn trong thông tư số.

Ngày 23-3-1972, TAND tối cao đã ban hành Quyết định 173/UBTP, quy định chi tiết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (TNBTTH) Các quy định này đề cập đến các căn cứ phát sinh TNBTTH, nguyên tắc bồi thường, cũng như việc xác định thiệt hại liên quan đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và uy tín của cá nhân Bên cạnh đó, bài viết cũng nêu rõ cách xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm và vấn đề bồi thường trong các trường hợp cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ, một loại trách nhiệm dân sự phổ biến trong các vụ tai nạn giao thông.

Sau gần 10 năm, cơ sở pháp lý này đã đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến bồi thường thiệt hại, đặc biệt là trong các vụ tai nạn giao thông Ngày 14-6, những quy định này tiếp tục được củng cố và cập nhật để đảm bảo tính hiệu quả trong việc xử lý các trường hợp bồi thường.

Năm 2005, Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ luật dân sự (BLDS) 2005, thay thế cho BLDS năm 1995, với 36 chương và 777 điều Chương XXI từ điều 604 đến điều 630 quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó điều 623 quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra Các quy định của BLDS 2005 là căn cứ pháp lý cao nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đặc biệt trong các vụ tai nạn giao thông Ngày 08 tháng 07 năm 2006, Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Cả BLDS 2005 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP hiện vẫn có hiệu lực và là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đặc biệt liên quan đến xâm phạm tài sản, sức khỏe và tính mạng trong các vụ tai nạn giao thông ở Việt Nam.

Thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng trong các vụ tai nạn giao thông tại Hà Tĩnh

Quy định pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn

2.1 Quy định pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông

2.1.1 Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

TNBTTH trong các vụ TNGT là loại TNBTTH ngoài hợp đồng, vì vậy các quy định pháp luật về điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng cũng áp dụng cho TNBTTH trong vụ TNGT Việc xác định căn cứ phát sinh TNBTTH rất quan trọng, làm cơ sở cho trách nhiệm bồi thường và mức bồi thường Căn cứ phát sinh TNBTTH được quy định tại Điều 307 và Điều 604 của BLDS 2005, trong đó xác định 4 điều kiện cần thiết, cũng chính là các điều kiện căn cứ cho TNBTTH trong các vụ TNGT.

 Có thiệt hại xảy ra

 Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật

 Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xảy ra

Người gây thiệt hại cần phải có lỗi, và điều kiện tiên quyết quan trọng nhất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đặc biệt trong các vụ tai nạn giao thông, là phải có thiệt hại xảy ra Nếu không có thiệt hại, trách nhiệm bồi thường sẽ không phát sinh.

Thiệt hại được hiểu là sự suy giảm về giá trị vật chất và tinh thần được pháp luật bảo vệ, thể hiện qua việc hư hỏng hoặc hủy hoại tài sản, ảnh hưởng đến tính mạng và sức khỏe, cũng như gây tổn thương tinh thần cho người khác Để xác định trách nhiệm bồi thường, thiệt hại cần được đánh giá một cách khách quan, chính xác và có cơ sở.

Có 16 thiệt hại đã xảy ra thực tế và những thiệt hại chắc chắn có thể xác định được Các thiệt hại chỉ dựa trên suy đoán sẽ không được coi là thiệt hại hợp lệ.

Thiệt hại thực tế có thể được phân loại thành thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần Thiệt hại vật chất là những mất mát hoặc giảm sút lợi ích có thể định lượng bằng tiền, bao gồm hư hỏng tài sản, chi phí ngăn chặn và sửa chữa thiệt hại, cùng với thu nhập bị mất hoặc giảm.

Khi một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại về sức khỏe và tính mạng của người khác, việc xác định thiệt hại là rất quan trọng Sức khỏe và tính mạng con người là vô giá, không thể quy đổi thành tiền hoặc tài sản Do đó, thiệt hại được hiểu là các chi phí cần thiết cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc và phục hồi chức năng cho bên bị thiệt hại, nhằm khắc phục và giảm bớt hậu quả xảy ra.

Vấn đề thiệt hại đã được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật, cụ thể là thông tư 173/UBTP-TAND của TAND tối cao ngày 23/3/1972 Theo hướng dẫn này, thiệt hại được xác định là thiệt hại về vật chất, bao gồm thiệt hại về tài sản, các chi phí phát sinh và thu nhập bị mất do thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe Điều quan trọng là thiệt hại này phải thực sự xảy ra và có thể tính toán được.

Thiệt hại thực tế bao gồm mất mát và hư hỏng tài sản, đau đớn về thể xác, thậm chí là cái chết của con người Ngoài ra, thiệt hại còn thể hiện qua sự giảm sút hoặc mất các khoản thu nhập và chi phí khắc phục tình trạng ban đầu do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.

2 Khoản 1, Mục II Thông tư 173/UBTP- TAND của TAND tối cao ngày 23/3/1972 hướng dẫn xét xử về BTTH ngoài hợp đồng

BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 quy định rằng người gây thiệt hại phải bồi thường một khoản tiền nhằm bù đắp tổn thất về tinh thần cho nạn nhân và gia đình của họ.

Pháp luật dân sự quy định về bồi thường thiệt hại tinh thần, khác với thiệt hại vật chất, là những tổn thất phi vật chất mà không có công thức chung để quy ra tiền Việc bồi thường tiền cho tổn thất tinh thần chỉ mang tính chất an ủi và động viên nạn nhân, nhưng đây là vấn đề phức tạp Hiện tại, các cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc áp dụng trong thực tiễn còn gây nhiều tranh cãi và thiếu thống nhất.

Thiệt hại do tổn thất về tinh thần liên quan đến giá trị tinh thần, tình cảm và sự suy sụp tâm lý của cá nhân bị thiệt hại, cũng như những người thân thiết gần gũi với nạn nhân Những người này phải chịu đựng đau thương, buồn phiền và mất mát tình cảm, do đó cần được bồi thường để bù đắp tổn thất Trong pháp luật dân sự, "thiệt hại tinh thần" được hiểu là trạng thái buồn phiền, lo âu của người bị thiệt hại về sức khỏe hoặc người thân gần gũi nhất Để xác định những người thân thiết, cần căn cứ vào yếu tố sinh học và sự gắn bó trong cuộc sống, bao gồm bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, vợ hoặc chồng của nạn nhân.

Việc xác định thiệt hại tinh thần luôn phức tạp do tính chất vô hình của nó, không phụ thuộc vào không gian và thời gian Từ góc độ tâm lý, tinh thần của mỗi cá nhân thay đổi theo nhận thức và hoàn cảnh sống cụ thể, đồng thời tần suất của tinh thần cũng biến động trong các tình huống khác nhau Do đó, khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại tinh thần, không thể xem nhẹ yếu tố biến đổi này.

Trong bối cảnh thiệt hại tinh thần, cần xem xét tâm lý của người bị thiệt hại và người thân của họ trong mối quan hệ xã hội cụ thể Việc xác định hoàn cảnh cá nhân của người bị hại là rất quan trọng, bởi thiệt hại tinh thần không thể định giá bằng tiền Tòa án có thể căn cứ vào từng trường hợp để xác định mức bồi thường phù hợp nhằm bảo vệ quyền lợi của họ Chẳng hạn, khi người con trai duy nhất trong gia đình qua đời do tai nạn giao thông, người mẹ không chỉ chịu đựng nỗi đau mất mát mà còn có thể mắc bệnh và mất việc làm do căng thẳng tinh thần Trong tình huống này, người gây tai nạn có trách nhiệm bồi thường cho người mẹ những thiệt hại thực tế phát sinh từ tổn thương tinh thần.

Thiệt hại về vật chất và tinh thần phát sinh trách nhiệm bồi thường phải là những thiệt hại thực tế, rõ ràng, không suy diễn và có thể tính toán được.

Thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông (TNGT) liên quan đến xâm phạm tài sản, tính mạng và sức khỏe được chia thành thiệt hại vật chất và tinh thần Thiệt hại tinh thần thường xuất phát từ những tổn thất về tính mạng và sức khỏe, dẫn đến những ảnh hưởng tâm lý cho nạn nhân và gia đình họ Trong khi đó, thiệt hại vật chất bao gồm thiệt hại trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của người bị TNGT, cũng như sự mất mát hoặc hư hỏng tài sản, đi kèm với những tổn thất tinh thần cho nạn nhân và người thân Những hành vi gây thiệt hại này thường là trái pháp luật và vi phạm quy định về trật tự, an toàn giao thông.

Thực tiễn giải quyết các vụ án về bồi thường thiệt hại do tai nạn giao thông tại tỉnh Hà Tĩnh

Các vụ án về tai nạn giao thông (TNGT) thường được xét xử sơ thẩm tại TAND cấp huyện, trong khi TAND tỉnh xử lý các bản án phức tạp hoặc những bản án có kháng cáo Thông tin từ TAND tỉnh Hà Tĩnh cho thấy, các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe và tài sản mà ngành Tòa án tiếp nhận và giải quyết trong các năm qua diễn ra với nhiều biến động Các bản án sơ thẩm thường liên quan đến kháng cáo của người gây thiệt hại về phần dân sự liên quan đến bồi thường thiệt hại.

- Bốn tháng đầu năm 2014: 225 vụ

Trong đó, các vụ án xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng trong các vụ TNGT tương ứng với các năm trên là 44 vụ, 52 vụ, 56 vụ và 09 vụ

(Nguồn: Báo cáo tổng kết của ngành TAND tỉnh Hà Tĩnh)

Qua số liệu trên cho thấy:

Các vụ án xâm phạm sức khỏe, tính mạng và tài sản hàng năm có số lượng tương đối cao, trong đó số vụ tai nạn giao thông (TNGT) đang có xu hướng gia tăng.

Việc giải quyết các vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Tòa án đã áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự, giúp khắc phục tổn thất cho người bị hại và ổn định cuộc sống của họ Tuy nhiên, do Bộ luật chỉ quy định những vấn đề chung, mỗi Thẩm phán có thể hiểu và áp dụng khác nhau, dẫn đến sự thiếu nhất quán trong cách giải quyết Điều này tạo ra sự khác biệt trong mức bồi thường cho những yêu cầu tương tự, gây khó khăn cho người dân trong việc dự đoán kết quả vụ án.

Việc giải quyết các vụ án tai nạn giao thông (TNGT) tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh còn gặp nhiều hạn chế, dẫn đến quyền và lợi ích của các bên liên quan không được đảm bảo Nhiều trường hợp, người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại nhưng mức bồi thường không thỏa đáng theo phán quyết của Tòa án Nghiên cứu các bản án đã xét xử cho thấy cần cải thiện quy trình giải quyết bồi thường thiệt hại trong các vụ án TNGT.

Trong một số vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tính toán chi phí thiệt hại một cách không hợp lý và mang tính ước lượng, không đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho bên gây thiệt hại, dẫn đến việc kháng cáo Tuy nhiên, những thiếu sót này đã được Tòa án cấp phúc thẩm khắc phục, sửa đổi bản án sơ thẩm và thay đổi đối tượng được hưởng bồi thường.

Bản án hình sự số 14/HSST ngày 22/03/2012 của TAND huyện Cẩm

Xuyên xét xử bị cáo Trần Xuân Bình về tội “ Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” có nội dung như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 29/10/2011, Trần Xuân Bình điều khiển 1 chiếc xe máy loại 100cm 3 đang lưu thông trên tuyến Quốc lộ 1A tại khu vực xã Cẩm Minh, huyện Cẩm Xuyên thì phát hiện chị Nguyễn Thị Hoa đang bế con nhỏ qua đường Do không làm chủ tốc độ, xe của Bình đâm vào mẹ con chị Hoa, kéo mẹ con chị Hoa theo xe một đoạn Chị Hoa và con chị là cháu Tuấn được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa huyện Cẩm Xuyên Nhưng chị Hoa đã chết lúc 20 giờ 30 phút ngày hôm đó

Theo bản án hình sự số 14/HSST ngày 22/03/2012 của TAND huyện Cẩm Xuyên, bị cáo phải bồi thường cho gia đình nạn nhân các khoản chi phí mai táng 13.850.000 đồng, vé máy bay cho 5 người thân từ miền Nam ra Cẩm Xuyên dự đám tang với tổng số tiền 12.500.000 đồng, trợ cấp nuôi cháu Tuấn sinh năm 2011 cho đến khi đủ 18 tuổi với mức 350.000 đồng mỗi tháng, và khoản tiền tổn thất tinh thần cho bố mẹ và chồng của chị Hoa là 30.000.000 đồng.

Bị cáo Trần Xuân Bình đã nộp đơn kháng cáo nhằm giảm mức bồi thường Tòa án cấp phúc thẩm đã tiếp nhận và chấp thuận một phần đơn kháng cáo, dẫn đến việc giảm mức bồi thường cho bị cáo.

Nhìn nhận khách quan vào bản án đã được tuyên của Tòa án cấp sơ thẩm về các khoản được bồi thường cho người bị hại thì:

Mức bồi thường chi phí mai táng 13.850.000 đồng được xác định là hợp lý dựa trên tình hình kinh tế địa phương và thủ tục mai táng Tòa án cũng xem xét các khoản bồi thường tổn thất tinh thần và tiền cấp dưỡng, đồng thời đánh giá hoàn cảnh và điều kiện kinh tế của mỗi bên, từ đó đưa ra quyết định phù hợp với thực tế và các quy định pháp luật.

Trong vụ án này, cần xem xét tính hợp lý của cách tính bồi thường chi phí đi lại mà Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa ra, cụ thể là 5 người với tổng chi phí là 12.500.000 đồng Bộ luật Dân sự chỉ quy định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lý cho việc mai táng, nhưng không nêu rõ các chi phí đi lại nào được bồi thường Việc đi lại của những người này chủ yếu để tham dự đám tang, trong khi Bộ luật Dân sự không quy định rõ ràng về việc bồi thường chi phí đi dự đám tang Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao chỉ đề cập đến các khoản chi phí như mua quan tài, vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm và các chi phí khác liên quan đến việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân.

Tòa án cấp phúc thẩm đã ra phán quyết chấp nhận bồi thường chi phí dự lễ tang, nhưng chỉ dành cho bố mẹ đẻ và anh ruột, không chấp nhận bồi thường chi phí đi lại cho chị dâu và người cậu họ của chị Hoa.

Tòa án nhân dân tỉnh đã chấp nhận chi phí đi lại bằng máy bay để tham dự đám tang, nhưng chỉ áp dụng cho những người có quan hệ thân thiết như bố mẹ và anh ruột, trong tổng số ba người được xem xét.

Năm người đã cùng nhau bay về để dự đám tang của chị Hoa Nếu không xảy ra tai nạn dẫn đến cái chết của chị, có lẽ gia đình chị, bao gồm bố mẹ và anh trai, đã không cần phải di chuyển từ miền Nam ra Sự ra đi đột ngột của chị Hoa đã để lại nỗi đau lớn cho những người thân yêu.

Trong tang lễ, bố mẹ và anh chị em là những người có quan hệ máu mủ, đóng vai trò quan trọng theo đạo lý Việt Nam Vì vậy, việc họ trở về kịp thời để tham dự tang lễ là cần thiết, và chi phí đi máy bay cho việc này được chấp nhận.

Bản án phúc thẩm cũng xác định diện những người được bồi thường là người có quan hệ thân thích gần gũi với nạn nhân

Chị dâu và cậu họ của chị Hoa không được bồi thường theo quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm vì không thuộc diện có quan hệ thân thích gần gũi với chị Theo Bộ luật tố tụng dân sự, khái niệm "thân thích" được định nghĩa để xác định những đối tượng có mối quan hệ thân thiết.

“ Người thân thích của đương sự là người có quan hệ sau đây với đương sự: a)

Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hoạt động áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông

Ngày đăng: 16/09/2021, 10:27

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
7. Nghị quyết 01/2005/NQ- HĐTP của HĐTPTANDTC ngày 31/3/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết 01/2005/NQ- HĐTP của HĐTPTANDTC ngày 31/3/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung
9. Lê Mai Anh (1997), Những vấn đề cơ bản về TNBTTH ngoài hợp đồng, Luận văn thạc sỹ luật học, trường Đại học luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề cơ bản về TNBTTH ngoài hợp đồng
Tác giả: Lê Mai Anh
Năm: 1997
10. Đỗ Văn Đại (2010), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng- Bản án và bình luận bản án, Nxb Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng- Bản án và bình luận bản án
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2010
11. Đỗ Văn Đại (2011), Luật hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, NXb Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Năm: 2011
12. Trần Thị Thu Hiền (1996), Những nguyên tắc BTTH trong Luật dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ luật học, trường Đại học luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những nguyên tắc BTTH trong Luật dân sự Việt Nam
Tác giả: Trần Thị Thu Hiền
Năm: 1996
13. Dương Quỳnh Hoa (2006), Xác định thiệt hại trong bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, Nhà nước và pháp luật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xác định thiệt hại trong bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
Tác giả: Dương Quỳnh Hoa
Năm: 2006
14. Nguyễn Thanh Hồng (2000), TNBTTH trong các vụ TNGT đường bộ, Luận án tiến sỹ luật học, trường Đại học luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: TNBTTH trong các vụ TNGT đường bộ
Tác giả: Nguyễn Thanh Hồng
Năm: 2000
15. Hoàng Việt luật lệ (1995), Nxb Văn hóa thông tin,Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàng Việt luật lệ
Tác giả: Hoàng Việt luật lệ
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 1995
16. Quốc triều hình luật (1991), Nxb pháp lý, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quốc triều hình luật
Tác giả: Quốc triều hình luật
Nhà XB: Nxb pháp lý
Năm: 1991
17. Phùng Trung Tập (2005), Cần bổ sung một số quy định trong dự thảo BLDS (sửa đổi) về BTTH ngoài hợp đồng, Dân chủ và pháp luật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cần bổ sung một số quy định trong dự thảo BLDS (sửa đổi) về BTTH ngoài hợp đồng
Tác giả: Phùng Trung Tập
Năm: 2005
18. Phùng Trung Tập (2009), BTTH ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng, Nxb Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng
Tác giả: Phùng Trung Tập
Nhà XB: Nxb Hà Nội
Năm: 2009
19. Nguyễn Minh Tuấn “TNBTTH ngoài hợp đồng do người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây ra”(Tạp chí luật học, số 5/1998) Sách, tạp chí
Tiêu đề: “TNBTTH ngoài hợp đồng do người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây ra”
21. Trường Đại học luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật dân sự, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật dân sự
Tác giả: Trường Đại học luật Hà Nội
Năm: 2009
22. Từ điển luật học (2006), NXb Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển luật học
Tác giả: Từ điển luật học
Năm: 2006
3. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 Khác
6. Nghị định 36/2001/NĐ- CP của Chính phủ về việc đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị Khác
8. Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTPTANDTC của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về BTTH ngoài hợp đồng Khác
20. Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án nhân tỉnh Hà Tĩnh các năm 2011, 2012, 2013 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w