1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005

163 34 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bồi Thường Thiệt Hại Đối Với Khoản Lợi Trực Tiếp Đáng Lẽ Được Hưởng Theo Luật Thương Mại 2005
Tác giả Phạm Hồng Nhung
Người hướng dẫn PGS. TS Phan Huy Hồng
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2022
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 163
Dung lượng 1,17 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (8)
  • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (9)
  • 3. Mục đích nghiên cứu đề tài (12)
  • 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu (12)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (13)
  • 6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và những đóng góp mới của luận văn (13)
  • 7. Bố cục của luận văn (14)
  • CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƯỢC HƯỞNG THEO LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 (15)
    • 1.1 Khái niệm, nguyên tắc bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng (15)
      • 1.1.1 Khái niệm về bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng (15)
      • 1.1.2 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại (18)
    • 1.2 Phân loại thiệt hại được bồi thường (20)
      • 1.2.1 Giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp (22)
      • 1.2.2 Khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng (22)
    • 1.3 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005 (25)
      • 1.3.1 Hành vi vi phạm hợp đồng (27)
      • 1.3.2 Thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng (28)
      • 1.3.3 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng (31)
    • 1.4 Nghĩa vụ chứng minh và hạn chế tổn thất của bên yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng (33)
      • 1.4.1 Nghĩa vụ chứng minh (33)
      • 1.4.2 Nghĩa vụ hạn chế tổn thất (34)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƯỢC HƯỞNG THEO LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT (41)
    • 2.1 Quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005 (41)
      • 2.1.1 Xác định thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng (41)
      • 2.1.2 Quy định về nghĩa vụ chứng minh (43)
      • 2.1.3 Quy định về nghĩa vụ hạn chế tổn thất (45)
    • 2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005 (47)
      • 2.2.1 Xác định khoản lợi trực tiếp đáng lẽ bên bị vi phạm được hưởng nếu không có hành vi vi phạm (47)
      • 2.2.3 Hạn chế tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng (70)
    • 2.3 Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng (76)
      • 2.3.1 Khái niệm về khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng và xác định khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng (77)
      • 2.3.2 Về chứng minh và cách tính thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng (78)
      • 2.3.3 Về nghĩa vụ hạn chế tổn thất (79)
      • 2.3.4 Xem xét bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng là thiệt hại về uy tín doanh nghiệp (80)
      • 2.3.5 Thống nhất quy định giữa BLDS và LTM, tăng cường chức năng hướng dẫn xét xử của Tòa án nhân dân tối cao (81)

Nội dung

Tình hình nghiên cứu đề tài

Nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện về vấn đề bồi thường thiệt hại trong các hoạt động thương mại theo pháp luật Việt Nam Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến như sau:

Luận văn Thạc sỹ luật học của Nguyễn Phú Cường, đề tài “Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thương mại” năm 2009, nghiên cứu sâu về các quy định pháp lý liên quan đến việc bồi thường thiệt hại trong các giao dịch thương mại Tác giả phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định mức bồi thường và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng Nghiên cứu này góp phần nâng cao nhận thức về trách nhiệm pháp lý trong kinh doanh và thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường.

Tác giả đã phân tích bản chất và các vấn đề cơ bản liên quan đến chế tài bồi thường thiệt hại trong kinh doanh, thương mại, bao gồm căn cứ phát sinh trách nhiệm, nghĩa vụ chứng minh, và mối quan hệ với các chế tài khác Bài viết cũng đề cập đến các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu vào việc áp dụng các quy định pháp luật này trong thực tiễn và những bất cập hiện có, từ đó chưa đưa ra được kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thương mại Việt Nam.

Sách chuyên khảo "Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án" của PGS.TS Đỗ Văn Đại, xuất bản năm 2010 và tái bản năm 2014, nghiên cứu sâu sắc các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng và chế tài vi phạm hợp đồng thông qua việc bình luận các bản án Tác giả phân tích các quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại về giá trị bồi thường thiệt hại, bao gồm thiệt hại vật chất và tổn hại tinh thần, đồng thời kiến nghị sửa đổi quy định về thiệt hại thực tế trong Luật Thương mại 2005 để bao gồm cả tổn thất tinh thần Công trình nghiên cứu này là tài liệu quý giá, tạo nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo về các vấn đề còn bỏ ngỏ trong Luật Thương mại 2005.

Bài viết của Nguyễn Thị Hồng Trinh trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22/2009 phân tích chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế theo Luật thương mại Việt Nam, Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit Tác giả đã so sánh các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại giữa pháp luật thương mại Việt Nam và quốc tế, nhấn mạnh những điểm tương đồng và khác biệt Đặc biệt, bài viết tập trung vào việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại theo Luật thương mại 2005 và Công ước Viên, cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề này trong bối cảnh thương mại quốc tế.

Bài viết năm 1980 về Bộ nguyên tắc Unidroit đã mở rộng kiến thức của độc giả về bồi thường thiệt hại theo pháp luật trong nước và quốc tế, giúp điều chỉnh luật thương mại (LTM) theo hướng phù hợp hơn với các quy định quốc tế.

Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Đức Trọng (2016) với đề tài

Giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam bao gồm thiệt hại thực tế và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng Tác giả đã nghiên cứu và đưa ra lý luận về giá trị bồi thường thiệt hại, đồng thời áp dụng phương pháp phân tích và bình luận án để khảo sát thực trạng pháp luật liên quan.

Bài viết của Nguyễn Thị Hằng Nga năm 2006 trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 5 nghiên cứu về việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại trong giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại Tác giả đã phân tích các quy định pháp luật liên quan và thực tiễn xét xử, so sánh hai chế tài này nhằm làm rõ cách thức áp dụng chúng trong các tranh chấp kinh doanh thương mại.

Luận văn Thạc sỹ luật học năm 2014 của tác giả Trần Trung Hiếu với đề tài

Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo luật thương mại Việt Nam là một vấn đề quan trọng, với các quy định liên quan đến căn cứ phát sinh trách nhiệm, yếu tố lỗi, nghĩa vụ chứng minh và hạn chế tổn thất Tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa chế tài bồi thường thiệt hại và các hình thức chế tài khác, đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng để làm nổi bật chế tài này Luận văn cung cấp cái nhìn tổng quan về chế tài bồi thường thiệt hại, so sánh những điểm chưa đồng nhất giữa Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.

Ngoài những công trình đã đề cập, còn nhiều nghiên cứu khác tập trung vào chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại Các tác giả đã phân tích các khía cạnh khác nhau của vấn đề này; một số nghiên cứu tổng thể, trong khi những người khác chỉ xem xét các khía cạnh cụ thể và bất cập trong thực tiễn xét xử Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào việc bồi thường thiệt hại đối với lợi ích trực tiếp mà lẽ ra người bị thiệt hại phải được hưởng Mặc dù pháp luật đã quy định vấn đề này, nhưng chỉ ở mức khái quát, dẫn đến khó khăn cho các cơ quan tài phán trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến loại thiệt hại này.

Dựa trên các nghiên cứu trước đây về chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại, cùng với việc phân tích các bản án của Tòa án và phán quyết của Trọng tài, tác giả đã thu thập được những tài liệu tham khảo quý giá Những nguồn tài liệu này sẽ hỗ trợ tác giả trong việc học hỏi, tiếp thu và chọn lọc thông tin cần thiết cho đề tài “Bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005”.

Mục đích nghiên cứu đề tài

Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án và Trọng tài liên quan đến bồi thường thiệt hại cho khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng Tác giả tìm hiểu cụ thể hóa khái niệm này, cách tính toán, nghĩa vụ chứng minh, và hạn chế tổn thất của bên bị vi phạm Qua đó, việc chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu bồi thường sẽ dựa trên quan điểm của Tòa án và Trọng tài thông qua các bản án, phán quyết Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng các quy định trong Luật thương mại Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, chưa cụ thể hóa được các tình huống liên quan đến khoản lợi trực tiếp, dẫn đến sự bất cập và thiếu thống nhất trong thực tiễn giải quyết tranh chấp.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào lý luận về bồi thường thiệt hại cho khoản lợi trực tiếp mà bên bị thiệt hại lẽ ra được hưởng Nghiên cứu này dựa trên cơ sở lý luận của chế tài bồi thường thiệt hại và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án và Trọng tài liên quan đến bồi thường thiệt hại theo quy định của luật thương mại 2005.

Tác giả phân tích bản án của Tòa án và phán quyết của Trọng tài để rút ra những quan điểm từ thực tiễn giải quyết tranh chấp Dựa trên đó, tác giả đề xuất các kiến nghị nhằm cụ thể hóa quyền lợi trực tiếp mà các bên đáng lẽ được hưởng, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chứng minh và xác định thiệt hại trong quy định pháp luật Những kiến nghị này nhằm tạo cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo sự thống nhất và hợp lý trong quá trình giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể.

Trong luận văn thạc sỹ luật học, nghiên cứu về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp theo luật thương mại 2005, tác giả tập trung phân tích các quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề này Luận văn cũng so sánh với các quy định quốc tế như Công ước Viên 1980, đồng thời đi sâu vào phân tích và bình luận các tranh chấp kinh doanh thương mại thực tiễn.

Luận văn này tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại cho khoản lợi trực tiếp theo Luật thương mại năm 2005, đồng thời bình luận về thực tiễn xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện bằng cách kết hợp nhiều phương pháp như phân tích, hệ thống hóa quy định pháp luật, so sánh, tổng hợp, bình luận và đánh giá.

Trong chương 1, tác giả đã thực hiện việc thống kê, phân tích và đánh giá các vấn đề lý luận liên quan đến bồi thường thiệt hại cho khoản lợi trực tiếp mà đáng lẽ phải được hưởng Nền tảng lý luận này dựa trên chế tài bồi thường thiệt hại, với sự nghiên cứu sâu sắc về các quy định pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại theo Luật thương mại.

Năm 2005, tác giả đã tiến hành so sánh và phân tích các quy định của Luật Thương mại với Công ước Viên 1980 Để làm rõ về vấn đề bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp mà lẽ ra các bên được hưởng, tác giả đã đưa ra các ví dụ cụ thể và trích dẫn một số bản án liên quan đến chế tài này.

Trong chương 2, tác giả phân tích và bình luận về những bất cập trong việc bồi thường thiệt hại đối với lợi ích trực tiếp theo thực tiễn xét xử, đồng thời đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thương mại Việt Nam.

Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và những đóng góp mới của luận văn

Luận văn này đóng góp vào kho tàng khoa học pháp lý bằng cách cụ thể hóa khoản lợi trực tiếp mà đáng lẽ được hưởng và quy định bồi thường thiệt hại theo Luật thương mại 2005 Nó giúp làm rõ hơn các quy định liên quan đến bồi thường trong Luật thương mại Việt Nam, đồng thời trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho các học giả nghiên cứu về chế định bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp.

Luận văn này phân tích và bình luận các bản án của Tòa án cùng với phán quyết của Trọng tài, chỉ ra những bất cập trong luật thương mại liên quan đến bồi thường cho khoản lợi chưa được quy định rõ Thực tiễn cho thấy việc giải quyết bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp trong các hoạt động kinh doanh thương mại gặp nhiều khó khăn Bài viết giúp các thương nhân hiểu rõ hơn về quyền bồi thường này, từ đó tạo điều kiện cho việc ký kết hợp đồng minh bạch và rõ ràng Khi xảy ra tranh chấp, cơ quan tài phán sẽ có căn cứ và quy định cụ thể để giải quyết nhanh chóng và hiệu quả.

Luận văn đã đóng góp quan trọng trong việc hoàn thiện quy định pháp luật thương mại về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng Đây là nguồn tài liệu quý giá cho các nhà làm luật trong việc xem xét và bổ sung những vấn đề còn bỏ ngỏ trong Luật thương mại 2005 Nhờ đó, các cơ quan tài phán có thể giải quyết các tranh chấp kinh doanh và thương mại liên quan đến bồi thường thiệt hại một cách rõ ràng và thống nhất.

Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 02 chương:

Chương 1: Lý luận chung về bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005

Chương 2 phân tích thực trạng pháp luật liên quan đến việc bồi thường thiệt hại cho khoản lợi trực tiếp theo quy định của Luật Thương mại 2005 Bài viết nêu rõ những bất cập trong quy định hiện hành và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật này Các kiến nghị sẽ góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên trong giao dịch thương mại.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƯỢC HƯỞNG THEO LUẬT THƯƠNG MẠI 2005

Khái niệm, nguyên tắc bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng

1.1.1 Khái niệm về bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng

Pháp luật ngày càng hoàn thiện để phù hợp với sự thay đổi của xã hội, yêu cầu các chủ thể trong quan hệ xã hội phải tôn trọng quy tắc và không xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người khác Khi một quan hệ được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật, nếu chủ thể vi phạm nghĩa vụ pháp lý gây tổn hại cho bên khác, họ sẽ phải chịu hậu quả bất lợi Hậu quả này bao gồm việc bù đắp tổn thất cho bên bị vi phạm, được coi là bồi thường thiệt hại.

Để bảo vệ quyền sống, sức khỏe, danh dự, uy tín và tài sản của công dân, Nhà nước yêu cầu mọi người tôn trọng quyền của nhau và không được xâm phạm Nếu vi phạm gây thiệt hại, người vi phạm phải bồi thường Bồi thường thiệt hại được hiểu là quan hệ dân sự phát sinh từ lỗi cố ý hoặc vô ý, liên quan đến việc xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức Người gây thiệt hại có trách nhiệm bồi thường cả thiệt hại vật chất lẫn thiệt hại tinh thần cho người bị thiệt hại.

Hội đồng phối hợp, phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính Phủ đã công bố Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong Đặc san tuyên truyền pháp luật năm 2010, tại Hà Nội.

Trong quan hệ hợp đồng, khi một bên vi phạm gây thiệt hại cho bên kia, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường cho những tổn thất đó Mỗi bên trong hợp đồng đều được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp như nhau, và hành vi vi phạm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên còn lại Do đó, việc bồi thường thiệt hại giúp làm giảm tác động tiêu cực của vi phạm hợp đồng, đảm bảo bên bị vi phạm có thể khôi phục tình trạng ban đầu và nhận lại quyền lợi chính đáng của mình.

Bồi thường thiệt hại trong khoa học pháp lý là chế tài tiền tệ nhằm bù đắp thiệt hại thực tế cho bên bị thiệt hại Trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế, bồi thường thiệt hại là trách nhiệm được áp dụng rộng rãi trong các hệ thống pháp luật toàn cầu Ngay cả khi bên có quyền đã áp dụng các hình thức trách nhiệm khác, họ vẫn không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại Do đó, bồi thường thiệt hại có thể được xem như giải pháp linh hoạt cho mọi trường hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.

Nhiều quốc gia quy định chế tài bồi thường thiệt hại để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bên bị vi phạm Cụ thể, Bộ luật dân sự Nhật Bản tại điều 415 cho phép người có quyền yêu cầu bồi thường nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ Tương tự, Bộ luật dân sự Pháp cũng quy định rằng người có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại do không thực hiện hoặc thực hiện chậm nghĩa vụ Luật thương mại Việt Nam quy định tại khoản 1 Điều 302 Luật thương mại 2005 rằng bên vi phạm phải bồi thường tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.

2 Nguyễn Thị Dung (2001), Áp dụng trách nhiệm hợp đồng trong kinh doanh, NXB chính trị quốc gia Hà

Trường Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất bản Giáo trình Luật hợp đồng và thương mại quốc tế vào năm 2009 Tài liệu này được phát hành bởi Nxb Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh và có nội dung quan trọng, cung cấp kiến thức sâu sắc về luật hợp đồng và thương mại quốc tế, đặc biệt là trang 87 của giáo trình.

4 Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, tr.433

Bồi thường thiệt hại là trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng, gây thiệt hại cho bên bị ảnh hưởng Tại Việt Nam, trách nhiệm được hiểu theo hai nghĩa khác nhau theo từ điển tiếng Việt.

Phần việc được giao cần được thực hiện một cách nghiêm túc và có trách nhiệm Nếu kết quả không đạt yêu cầu, người thực hiện sẽ phải chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh.

Thứ hai là “ sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả”

Trách nhiệm có nhiều điểm tương đồng với nghĩa vụ, nhưng khác biệt quan trọng nằm ở yếu tố hậu quả Trong trường hợp trách nhiệm pháp lý, được điều chỉnh và bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật, hậu quả sẽ là những bất lợi áp đặt lên những cá nhân hoặc tổ chức vi phạm pháp luật.

Trong quan hệ thương mại, khi hợp đồng được ký kết, quyền lợi của bên này trở thành nghĩa vụ của bên kia Nếu một bên vi phạm, dù cố ý hay vô ý, gây thiệt hại cho bên kia, bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại, ngay cả khi điều khoản này không được ghi trong hợp đồng Quy định này bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên bị thiệt hại, vì hành vi vi phạm làm ảnh hưởng đến mục đích hợp đồng và lợi ích của các bên Pháp luật quy định chế tài bồi thường thiệt hại nhằm giúp bên vi phạm khắc phục lỗi và bù đắp tổn thất cho bên bị vi phạm Bồi thường thiệt hại được xem là hình thức chế tài vật chất, trừ những trường hợp miễn trách nhiệm, với mục tiêu bù đắp toàn bộ thiệt hại thực tế cho bên bị vi phạm, thay vì chỉ trừng phạt bên vi phạm hợp đồng.

5 Lê Văn Tranh (2018), Luận giải về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo luật thương mại Việt Nam,

Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh - thương mại là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực pháp luật, được nghiên cứu sâu sắc bởi Nguyễn Phú Cường trong luận văn thạc sĩ Luật học tại Trường Đại học Luật TP.HCM năm 2009 Nghiên cứu này tập trung vào các khía cạnh pháp lý liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên trong giao dịch thương mại.

Chế tài bồi thường thiệt hại là một biện pháp tài sản nhằm bù đắp tổn thất thực tế do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra Mục tiêu của bồi thường thiệt hại là làm cho hành vi vi phạm trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị vi phạm Điều này có nghĩa là bên vi phạm phải bồi thường cho bên bị vi phạm những lợi ích vật chất hoặc phi vật chất mà họ lẽ ra được hưởng nếu hợp đồng được thực hiện đúng theo thỏa thuận.

Bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng là một biện pháp pháp lý quan trọng khi một chủ thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gây thiệt hại Mục đích của biện pháp này là bù đắp và khôi phục lợi ích vật chất cho bên bị vi phạm, đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan và cân bằng lợi ích trong quan hệ hợp đồng Thiệt hại này được coi là một loại thiệt hại đặc biệt, do đó, khi quy định về bồi thường, pháp luật cần phải xem xét cẩn thận.

1.1.2 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

Bồi thường thiệt hại được áp dụng theo nguyên tắc “toàn bộ” và “kịp thời” Nguyên tắc bồi thường toàn bộ yêu cầu thiệt hại phải được đền bù đầy đủ để khôi phục lại lợi ích bị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng Bên vi phạm có trách nhiệm nhanh chóng khắc phục tổn thất mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu Theo Điều 13 BLDS 2015, cá nhân và pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm có quyền được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định của luật pháp Điều này khẳng định trách nhiệm của bên vi phạm trong việc bồi thường khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.

7 Lê Văn Tranh (2018), Tlđd 5, tr.147

Phân loại thiệt hại được bồi thường

Bồi thường chỉ xảy ra khi có thiệt hại, tức là quyền yêu cầu bồi thường phát sinh từ tổn thất Thiệt hại trong kinh doanh thương mại bao gồm tổn thất về tài sản và mất mát lợi ích vật chất, tinh thần Theo Luật thương mại 2005, tại Khoản 2 Điều 302, thiệt hại bồi thường được phân loại thành giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do hành vi vi phạm, cùng với khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm lẽ ra được hưởng nếu không có vi phạm.

LTM 2005 xác định rõ giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế và trực tiếp, cùng với khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm lẽ ra sẽ nhận được nếu không xảy ra hành vi vi phạm.

Dương Anh Sơn (2010) trong tài liệu hội thảo khoa học về "Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng" đã phân tích vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật Việt Nam Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ hợp đồng và các biện pháp bồi thường thiệt hại khi có vi phạm, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Theo Pháp luật Hoa Kỳ cũng phân loại các thiệt hại để định ra mức bồi thường, thiệt hại được phân thành 04 loại gồm:

Thiệt hại kỳ vọng là loại thiệt hại mà tòa án đánh giá dựa trên lợi ích kinh tế mà bên bị vi phạm có thể đạt được nếu hợp đồng được thực hiện, còn được gọi là expectation measure.

Thiệt hại do tín nhiệm xảy ra khi bên vi phạm phải bồi thường các chi phí và tổn thất phát sinh từ việc tin tưởng vào việc thực hiện hợp đồng Loại bồi thường này chỉ được áp dụng trong trường hợp không thể chứng minh thiệt hại kỳ vọng, và số tiền bồi thường không được vượt quá mức lợi nhuận dự kiến.

Ba là, thiệt hại ấn định là khoản tiền bồi thường cố định mà các bên trong hợp đồng thống nhất trước khi ký kết, dựa trên mức thiệt hại dự kiến hoặc thực tế Hình thức bồi thường này chỉ có hiệu lực khi nhằm mục đích bù đắp thiệt hại khó chứng minh Tuy nhiên, nếu khoản tiền được quy định quá lớn và không hợp lý so với thiệt hại thực tế, nó sẽ bị coi là biện pháp trừng phạt và trở nên vô hiệu.

Thiệt hại do tòa án xác định nhằm khôi phục tình trạng kinh tế của bên bị vi phạm tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực, với mục đích ngăn chặn bên vi phạm trục lợi bất chính.

Pháp luật Hoa Kỳ phân loại rõ ràng các loại thiệt hại và quy định cách áp dụng bồi thường cho từng loại Sự phân loại này giúp các cơ quan tài phán dễ dàng xác định loại thiệt hại trong các tranh chấp bồi thường, từ đó đưa ra quyết định hợp lý về mức bồi thường cho bên bị thiệt hại.

Công ước Viên 1980 quy định rõ ràng về các loại thiệt hại được bồi thường trong trường hợp vi phạm hợp đồng Cụ thể, theo Điều 74 CISG, mức bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất và khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do hành vi vi phạm của bên kia Điều này nhấn mạnh trách nhiệm của bên vi phạm trong việc bù đắp thiệt hại cho bên bị thiệt hại.

11 Lê Văn Tranh (2018), Tlđd 5, tr.197-198 của Công ước Viên 1980 thiệt hại được bồi thường bao gồm hai loại là tổn thất và khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ

LTM 2005 kế thừa các quy định từ Công ước Viên 1980, do đó việc phân loại thiệt hại và xác định mức bồi thường cho từng loại thiệt hại có nhiều điểm tương đồng.

1.2.1 Giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp

Trong hợp đồng thương mại, các bên luôn hướng đến lợi ích cá nhân khi ký kết Tuy nhiên, hành vi vi phạm từ một bên có thể cản trở bên kia đạt được mục tiêu hợp đồng và gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm Những thiệt hại này được xem là tổn thất thực tế, và theo quy định tại khoản 2 Điều 302 LTM 2005, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường cho những thiệt hại mà mình phải gánh chịu.

Thiệt hại thực tế là những tổn thất có thể được định giá bằng tiền mà bên vi phạm hợp đồng phải chịu, bao gồm hàng hóa bị mất mát hoặc hư hỏng, cùng với chi phí cần thiết để ngăn chặn và giảm thiểu thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra.

1.2.2 Khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng

Khái niệm "khoản lợi" trong thương mại rất rộng và là mục đích chính của hoạt động thương mại (khoản 1 Điều 3 LTM 2005) Tuy nhiên, pháp luật thương mại Việt Nam chưa quy định rõ giá trị khoản lợi mà bên bị vi phạm được bồi thường Theo Điều 361 BLDS 2015, thiệt hại được bồi thường bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn thiệt hại và thu nhập thực tế bị mất Pháp luật dân sự không quy định rõ về khoản lợi như Luật thương mại, mà khoản lợi trực tiếp thường liên quan đến thu nhập và lợi nhuận từ hợp đồng Ví dụ, nếu Công ty A không thể xuất khẩu cà phê do Công ty B giao hàng chậm, khoản lợi mà A lẽ ra có được từ việc xuất khẩu sẽ là khoản lợi trực tiếp Do đó, B phải bồi thường cho A về khoản lợi này, chưa kể đến tổn thất phi vật chất như uy tín của A.

Khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm lẽ ra được hưởng nếu không có hành vi vi phạm là một trong hai loại thiệt hại theo quy định của LTM 2005 Mặc dù có quy định về bồi thường cho thiệt hại này, nhưng LTM 2005 chưa chỉ rõ các thiệt hại cụ thể, cách xác định và mức bồi thường cho khoản lợi trực tiếp này.

Mặc dù chưa có quy định cụ thể về bồi thường cho thiệt hại này, nhưng có thể hiểu rằng khoản lợi trực tiếp mà bên bị thiệt hại lẽ ra được hưởng là khoản lợi mà bên vi phạm sẽ nhận được trong điều kiện bình thường nếu họ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005

Pháp luật là công cụ quản lý xã hội hiệu quả, giúp công dân thực hiện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp Trong các quan hệ pháp luật, đặc biệt là trong kinh doanh và thương mại, pháp luật tôn trọng quyền tự do thỏa thuận giữa các bên Tuy nhiên, các thỏa thuận này phải tuân thủ các quy định của pháp luật và không được trái với đạo đức xã hội, theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự 2015.

Cá nhân và pháp nhân có quyền tự do xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình thông qua các cam kết và thỏa thuận tự nguyện Tất cả các cam kết và thỏa thuận này phải tuân thủ quy định của pháp luật, không vi phạm điều cấm và không trái với đạo đức xã hội, đồng thời có hiệu lực đối với các bên liên quan và được tôn trọng bởi các chủ thể khác.

Tinh thần pháp luật cho phép các bên tự do thỏa thuận, tôn trọng thiện chí và trung thực, miễn là không vi phạm quy định cấm của luật và đạo đức xã hội Tuy nhiên, trong việc giải quyết tranh chấp, pháp luật cũng quy định cụ thể để đảm bảo rằng các tranh chấp kinh doanh, thương mại được xử lý sát thực tiễn, phản ánh đúng bản chất và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên.

Khi giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại liên quan đến bồi thường thiệt hại, Luật Thương mại 2005 (LTM 2005) luôn được áp dụng, đặc biệt là Điều 302 của LTM.

Theo Luật Thương mại 2005, bồi thường thiệt hại được áp dụng khi có tổn thất xảy ra Điều 303 của luật này quy định rằng trách nhiệm bồi thường chỉ phát sinh khi có đủ các yếu tố cần thiết, trừ những trường hợp miễn trách nhiệm được nêu tại Điều 294.

13 Nguyễn Thế Đức Tâm, Phạm Ánh Dương, Bồi thường khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ theo công ước Viên 1980, Nhà nước và pháp luật số 4, 2018, tr.28

Có hành vi vi phạm hợp đồng

Có thiệt hại thực tế

Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”

Khi xem xét quy định của LTM 1997 tại Điều 230 nêu: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:

Có hành vi vi phạm hợp đồng

Có thiệt hại vật chất

Có mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại vật chất

Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng”

So sánh giữa LTM 1997 và LTM 2005 cho thấy, LTM 1997 yêu cầu yếu tố lỗi là điều kiện cần thiết, trong khi LTM 2005 đã loại bỏ yếu tố này trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại Điều này gợi nhớ đến Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, vốn cũng không đề cập đến yếu tố lỗi Sự thay đổi này phản ánh sự chuyển biến trong quan niệm về chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại.

Mặc dù lỗi không còn là yếu tố bắt buộc để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo Điều 303 LTM 2005, nhưng vẫn có những trường hợp cụ thể tại Điều 266 và Điều 273 LTM 2005 mà lỗi lại trở thành yêu cầu cần thiết Điều này cho thấy các nhà làm luật đã cố tình phân tách yếu tố lỗi khỏi căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường, chỉ quy định lỗi là yếu tố bắt buộc trong những tình huống nhất định Do đó, yếu tố lỗi không phải là điều kiện tiên quyết trong mọi trường hợp, giúp các cơ quan tài phán có cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc giải quyết tranh chấp, từ đó giảm thiểu sự phản ứng và xung đột giữa các bên.

14 Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, Nxb Hồng Đức, tr.430

Do đó khi xem xét căn cứ bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng cũng có 3 yếu tố chính:

Hành vi vi phạm hợp đồng

Thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng

Hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại

1.3.1 Hành vi vi phạm hợp đồng

Hành vi là những phản ứng và cách ứng xử của con người trong các hoàn cảnh cụ thể, được hình thành từ nhận thức và kiểm soát của chủ thể Điều này có nghĩa là hành vi chỉ xảy ra khi chủ thể ý thức và chủ động thực hiện, do đó, các hoạt động vô thức không được coi là hành vi Hành vi cần được biểu đạt ra bên ngoài qua các phương thức khác nhau, bao gồm cả hành động và không hành động, và phải thể hiện trong thế giới khách quan để các chủ thể khác có thể nhận biết.

Theo Điều 3, khoản 12 của Luật Thương mại 2005, vi phạm hợp đồng được định nghĩa là hành vi không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật Điều này có nghĩa là mọi hành vi vi phạm hợp đồng đều liên quan đến sự không tuân thủ các nghĩa vụ đã được thống nhất, gây ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch thương mại.

Hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng hóa có thể bao gồm việc từ chối thực hiện nghĩa vụ như không giao hàng hoặc không thanh toán, hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ như giao hàng muộn so với thỏa thuận Ví dụ, nếu hai bên đã thống nhất giao hàng vào ngày 13/09/2020 nhưng bên bán chỉ giao hàng vào ngày 22/09/2020, thì hành vi này có thể gây thiệt hại cho bên bị vi phạm Trong trường hợp này, bên vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bên bị thiệt hại.

15 Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, tr.492, tr.493

Hành vi vi phạm hợp đồng phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm Khi ký kết hợp đồng thương mại, các bên thường thỏa thuận các điều khoản để bảo vệ quyền lợi của mình, trong đó quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia Nếu một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ sau thời hạn thỏa thuận, thì đó là hành vi vi phạm hợp đồng Hành vi vi phạm này sẽ gây thiệt hại cho bên bị vi phạm, và bên vi phạm phải chịu trách nhiệm về hậu quả do hành vi của mình gây ra Thiệt hại phải là khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm lẽ ra được hưởng, và hành vi vi phạm phải là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại đó Đồng thời, yêu cầu bồi thường chỉ được chấp nhận nếu hành vi vi phạm không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định tại Điều 294 LTM 2005.

1.3.2 Thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng

Khi ký kết hợp đồng, các bên thường thiết lập các điều khoản nhằm bảo vệ lợi ích của mình Nếu một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, gây thiệt hại cho bên kia, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại Bồi thường thiệt hại được hiểu là việc bù đắp tổn thất cho bên bị thiệt hại Tuy nhiên, không phải tất cả các loại thiệt hại đều được bồi thường; đặc biệt, thiệt hại liên quan đến lợi ích trực tiếp mà bên bị thiệt hại đáng lẽ được hưởng thường khó xác định và yêu cầu có căn cứ cụ thể để áp dụng chế tài bồi thường.

Trong thương mại, thiệt hại được bồi thường phải là thiệt hại thực tế, tức là những thiệt hại có thể tính thành tiền mà bên vi phạm hợp đồng phải chịu Các thiệt hại này bao gồm hàng hóa bị mất mát, hư hỏng và chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại Thiệt hại thực tế được phân thành hai loại: thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.

Thiệt hại trực tiếp là những tổn thất thực tế có thể được đo lường một cách chính xác, bao gồm mất mát tài sản, hư hỏng và chi phí liên quan đến việc ngăn chặn, hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng.

Thiệt hại gián tiếp là những tổn thất cần phải dựa vào suy đoán khoa học và chứng cứ để xác định Cụ thể, thiệt hại gián tiếp thể hiện qua việc mất mát hoặc giảm sút thu nhập thực tế, cũng như khoản lợi mà bên có quyền lợi bị vi phạm lẽ ra phải được hưởng.

Nghĩa vụ chứng minh và hạn chế tổn thất của bên yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng

Để được bồi thường thiệt hại cho khoản lợi trực tiếp bị mất do vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm cần chứng minh rằng hành vi vi phạm đã ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích này, theo quy định tại Điều 304 LTM 2005 Ngoài ra, để yêu cầu bồi thường được chấp nhận, bên bị vi phạm cũng phải có nghĩa vụ hạn chế tổn thất khi nhận biết hành vi vi phạm xảy ra, như được quy định tại Điều 305 LTM 2005.

Theo LTM 2005, bên yêu cầu bồi thường thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh và hạn chế tổn thất Tuy nhiên, một số quan điểm cho rằng bên vi phạm cũng phải chứng minh rằng bên bị vi phạm có khả năng hạn chế tổn thất và làm rõ mức tổn thất cụ thể đã có thể được hạn chế.

Theo Điều 304 LTM 2005, bên yêu cầu bồi thường thiệt hại có trách nhiệm chứng minh tổn thất, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm lẽ ra được hưởng nếu không có hành vi vi phạm Do đó, việc chứng minh thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp này cũng thuộc nghĩa vụ của bên bị vi phạm.

Khi có tổn thất, chủ thể bị vi phạm không thể được bồi thường nếu không chứng minh được sự mất mát lợi ích trực tiếp Việc không chứng minh này có thể xuất phát từ nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan Nguyên lý “việc dân sự cốt ở đôi bên” và “ai khẳng định, người đó phải chứng minh” là những giá trị tham chiếu quan trọng trong các quan hệ dân sự Do đó, khi yêu cầu bồi thường, chủ thể cần chuẩn bị tư liệu đầy đủ để hỗ trợ yêu cầu của mình, nhằm tránh tình trạng đòi hỏi không có cơ sở.

Đỗ Văn Đại (2013) trong tác phẩm của mình đã nhấn mạnh rằng việc xử lý các vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam cần phải xem xét các yếu tố cộng hưởng và căn nguyên của vấn đề để đảm bảo tính khách quan và trung thực trong việc bồi thường thiệt hại.

Vào ngày 24/8/2020, Nguyên đơn và Bị đơn đã ký hợp đồng mua bán không hủy ngang về 5.500.000 chiếc găng tay Nitrile không bột màu xanh, với tổng giá trị 7.645.000.000 VNĐ Hợp đồng quy định thời gian thực hiện từ 24/8/2020 đến 12/9/2020, và thời gian giao hàng là 18 ngày sau khi ký hợp đồng và nhận đủ tiền cọc Tuy nhiên, Bị đơn đã không giao hàng đúng hạn, dẫn đến việc Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn bồi thường thiệt hại 7.645.000.000 VNĐ theo Điều 4.2 của hợp đồng.

Tranh chấp phát sinh khi trọng tài xác định bị đơn vi phạm nghĩa vụ giao hàng, dẫn đến thiệt hại cho khoản lợi mà nguyên đơn lẽ ra được hưởng.

Nguyên đơn có quyền yêu cầu bồi thường và cần chứng minh thiệt hại Trong trường hợp này, nguyên đơn đã chứng minh thiệt hại về khoản lợi trực tiếp bằng hợp đồng với đối tác thứ ba, cho thấy nếu bị đơn thực hiện đúng nghĩa vụ, nguyên đơn sẽ nhận được khoản lợi đó Hành vi vi phạm nghĩa vụ giao hàng của bị đơn đã khiến nguyên đơn không có hàng để giao, dẫn đến mất mát khoản lợi trực tiếp Do đó, Trọng tài chấp nhận yêu cầu bồi thường cho khoản lợi mà nguyên đơn đáng lẽ được hưởng, nhưng chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khi tính toán mức độ thiệt hại mà nguyên đơn phải gánh chịu.

1.4.2 Nghĩa vụ hạn chế tổn thất

Trong quan hệ kinh doanh thương mại, mỗi bên đều hướng đến mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận Chính vì vậy, pháp luật đã thiết lập những hành lang pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia.

19 Lê Văn Tranh (2018), Tlđd 5, tr.204

Phụ lục 6 quy định về quyền và nghĩa vụ song song hợp lý giữa các bên, nhằm đảm bảo sự công bằng Nếu một bên vi phạm và gây thiệt hại cho bên kia, bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường Tuy nhiên, để nhận được bồi thường theo thiệt hại thực tế, bên bị vi phạm cũng phải có nghĩa vụ hạn chế tổn thất, theo quy định tại Điều 305 LTM 2005.

Trong nhiều hệ thống pháp luật, thuật ngữ "nghĩa vụ" không được hiểu theo nghĩa "nghĩa vụ dân sự", vì nghĩa vụ dân sự yêu cầu có hai bên: bên có quyền và bên có nghĩa vụ Bên có quyền có khả năng yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình Tuy nhiên, trong mối quan hệ đang được nghiên cứu, bản chất này không được thể hiện rõ Nếu đây là một quan hệ nghĩa vụ dân sự thông thường, chúng ta có thể cưỡng chế bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, nhưng trong trường hợp này, khả năng cưỡng chế không tồn tại, vì chúng ta không thể ép bên có quyền thực hiện trách nhiệm hạn chế tổn thất.

Nghĩa vụ hạn chế tổn thất nhấn mạnh việc bên có quyền không nên chờ đợi bồi thường cho những thiệt hại có thể tránh được Dù bên có quyền không có lỗi trong việc xảy ra thiệt hại, họ vẫn không được bồi thường cho những tổn thất mà họ có thể ngăn chặn hoặc giảm thiểu bằng các biện pháp thích hợp.

Nghĩa vụ hạn chế tổn thất, hay còn gọi là nghĩa vụ hạn chế thiệt hại, được xây dựng trên nền tảng kinh tế, pháp lý và đạo đức vững chắc Về mặt kinh tế, nghĩa vụ này không chỉ tăng tính hiệu quả và giảm lãng phí, mà còn phù hợp với lợi ích của bên bị vi phạm Hơn nữa, nó ngăn chặn việc bên bị vi phạm lợi dụng hoàn cảnh để trục lợi Từ góc độ pháp lý, nghĩa vụ hạn chế thiệt hại thể hiện nguyên tắc thiện chí và trung thực, đồng thời liên quan chặt chẽ đến tính nhân quả trong bồi thường thiệt hại, với thiệt hại có thể hạn chế thường không được xem là có mối quan hệ nhân quả với hành vi vi phạm.

21 Đỗ Văn Đại, Tlđd 18, tr 225

Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong hợp đồng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ với bản chất của thiệt hại và yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường Thiệt hại có thể hạn chế thường là thiệt hại gián tiếp, do đó bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm Thiệt hại thực tế thường được coi là do lỗi hỗn hợp, trong đó bên bị vi phạm có phần lỗi trong việc không ngăn chặn được thiệt hại nếu áp dụng biện pháp hợp lý Từ góc độ đạo đức, nghĩa vụ này thể hiện tinh thần thiện chí và hợp tác giữa các bên trong việc cùng nhau ngăn chặn và khắc phục hậu quả thiệt hại.

Nghĩa vụ hạn chế tổn thất trong thương mại không phải là nghĩa vụ bắt buộc, do đó, bên bị thiệt hại không bị xử lý vi phạm nếu không thực hiện nghĩa vụ này Khi thiệt hại xảy ra, nếu bên bị thiệt hại có biện pháp hợp lý để hạn chế nhưng không thực hiện, cơ quan tài phán sẽ xem xét giảm giá trị bồi thường tương ứng với mức tổn thất mà họ có thể đã hạn chế Điều này có nghĩa là bên bị thiệt hại sẽ không nhận được mức bồi thường đầy đủ mà họ yêu cầu, mà sẽ bị giảm giá trị bồi thường do không thực hiện nghĩa vụ hạn chế tổn thất.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƯỢC HƯỞNG THEO LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Ngày đăng: 06/07/2022, 21:07

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w