1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Bồi thường thiệt hại trong tình trạng sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm, một số vấn đề về lý luận và thực tiễn

49 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bồi thường thiệt hại trong tình trạng sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm, một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Tác giả Trương Thị Sim
Người hướng dẫn THS. Nguyễn Thị Trúc Phương
Trường học Đại học Đà Nẵng
Thể loại chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Năm xuất bản 2013
Thành phố Kon Tum
Định dạng
Số trang 49
Dung lượng 1,29 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của ngành Tòa án nhân dân Huyện Đăkglei - Tỉnh Kon Tum (8)
    • 1.1.1. Chức năng hoạt động của tòa án nhân dân huyện Đăkglei (8)
    • 1.1.2. Cơ cấu tổ chức của tòa án nhân dân huyện Đăkglei (0)
  • 1.2. Vấn đề nghiên cứu của đề tài (9)
    • 1.2.1. Vấn đề nghiên cứu tại đơn vị thực tập (10)
    • 1.2.2. Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu (10)
    • 1.2.3. Mục đích của việc nghiên cứu vấn đề (10)
  • CHƯƠNG II: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM (7)
    • 2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (11)
    • 2.2. Ý nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (12)
    • 2.3. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm (13)
      • 2.3.1. Phải có thiệt hại xảy ra (13)
      • 2.3.2. Phải có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật (16)
        • 2.3.2.1. Hành vi vi phạm pháp luật (16)
        • 2.3.2.2. Hành vi trái pháp luật (16)
      • 2.3.3. Có lỗi của người gây ra thiệt hại (16)
      • 2.3.4. Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật (17)
      • 2.4.1. Pháp nhân - chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại (19)
      • 2.4.2. Cá nhân - chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại (19)
    • 2.5. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại (20)
      • 2.5.1. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời (21)
      • 2.5.2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình (22)
      • 2.5.3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người gây thiệt hại, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường (23)
    • 2.6. Xác định thiệt hại trong trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm (24)
      • 2.6.1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm (24)
      • 2.6.2. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm (28)
    • 2.7. Hình thức bồi thường và mức bồi thường (31)
      • 2.7.1. Hình thức bồi thường thiệt hại (31)
      • 2.7.2. Mức bồi thường thiệt hại (31)
    • 2.8. Thực tiễn vấn đề bồi thường thiệt hại do sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm tại Tòa án nhân dân huyện Đăkglei – Kon Tum (31)
      • 2.8.1. Đánh giá tổng quan tình hình (32)
      • 2.8.2. Vấn đề bồi thường thiệt hại do sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm qua một số vụ án điển hình tại Tòa án nhân dân huyện Đăkglei – Kon Tum (32)
        • 2.8.2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại (32)
        • 2.8.2.2. Năng lực chủ thể trong bồi thường thiệt hại (32)
        • 2.8.2.3. Xác định thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định của pháp luật hiện hành (33)
        • 2.8.2.4. Hình thức bồi thường và mức bồi thường (33)
  • CHƯƠNG III: THỰC TIỄN VIỆC GIẢI QUYẾT BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÈ SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂKGLEI – KON TUM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ (7)
    • 3.1.1 Thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân đối với những yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất (35)
    • 3.1.2. Thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân đối với những yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần (38)
    • 3.2. Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng (42)
      • 3.2.1. Kiến nghị………………………………………………………………………..41 3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như những giải pháp khác để nâng cao chất lượng xét xử về bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm.42 (42)

Nội dung

Khái quát quá trình hình thành và phát triển của ngành Tòa án nhân dân Huyện Đăkglei - Tỉnh Kon Tum

Chức năng hoạt động của tòa án nhân dân huyện Đăkglei

Tòa án, với vai trò là cơ quan xét xử trong hệ thống nhà nước, có trách nhiệm xét xử các loại án và giải quyết các vụ việc theo quy định pháp luật Tòa án bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, cũng như bảo vệ tài sản của Nhà nước và tập thể Đồng thời, tòa án còn bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân Qua hoạt động của mình, tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ Quốc, chấp hành pháp luật, tôn trọng nguyên tắc sống xã hội và nâng cao ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.

Cơ cấu tổ chức của tòa án nhân dân huyện Đăkglei

Tòa án nhân dân huyện Đăkglei gồm 5 phòng làm việc và 1 hội trường, với 8 cán bộ công nhân viên chức, bao gồm 01 chánh án và 01 thẩm phán Tòa án hoạt động theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân, thực hiện chức năng xét xử của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại địa phương Tòa án có thẩm quyền sơ thẩm các vụ án theo quy định pháp luật tố tụng, đồng thời có nhiệm vụ tổ chức công tác xét xử và các công tác khác theo quy định pháp luật, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp.

Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Đăkglei.

Vấn đề nghiên cứu của đề tài

Vấn đề nghiên cứu tại đơn vị thực tập

Nghiên cứu này tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật xâm phạm sức khỏe và tính mạng Mục tiêu là đưa ra giải pháp nhằm giải quyết những khó khăn trong việc bồi thường thiệt hại liên quan đến sức khỏe và tính mạng, đồng thời áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự một cách hiệu quả.

Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu

Dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, bài viết áp dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Bằng cách thu thập, phân tích, tổng hợp và thống kê thông tin, nghiên cứu sẽ làm rõ các vấn đề liên quan.

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM

Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long chưa phân biệt rõ về trách nhiệm bồi thường dân sự, trong khi sự phân chia giữa trách nhiệm hình sự và dân sự chỉ được xác định từ ba bộ luật đầu tiên vào thế kỷ 19 và 20 Các nguyên lý về trách nhiệm bồi thường dân sự được ghi nhận cụ thể trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Trung Kỳ, cũng như trong bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972 Sau cách mạng tháng 8/1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ ra đời, và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký các sắc lệnh thừa nhận luật lệ cũ, tạo nền tảng cho sự hình thành luật dân sự Những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ đã được pháp điển hóa, như quyền dân sự được bảo vệ khi phù hợp với lợi ích nhân dân và việc sử dụng tài sản cá nhân phải hợp pháp, không gây thiệt hại đến quyền lợi của cộng đồng.

Việc giải quyết các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dựa trên kinh nghiệm của ngành tòa án được thể hiện qua Thông tư số 173/UBTP ngày 23/3/1972 của Tòa án nhân dân tối cao Thông tư này hướng dẫn công tác xét xử, nêu rõ điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nguyên tắc và cách xác định thiệt hại.

Thông tư số 03 ngày 5/4/1983, mặc dù đề cập đến bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông, nhưng chỉ mang tính định hướng và chưa cụ thể do được ban hành trong bối cảnh kinh tế tập trung bao cấp Sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi một bộ luật dân sự để điều chỉnh các quan hệ xã hội rộng lớn Sự ra đời của Bộ luật Dân sự đã tạo ra một văn bản pháp luật thống nhất, khắc phục tình trạng tản mạn, trùng lặp và mâu thuẫn trong pháp luật dân sự trước đó.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự áp dụng cho những hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác Chế định này được quy định trong chương XXI, từ Điều 604 đến Điều 630 của Bộ luật dân sự 2005, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc giải quyết các vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Mục tiêu là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đồng thời đảm bảo quá trình giải quyết diễn ra khách quan, nhanh chóng và công bằng theo quy định của pháp luật.

Theo Điều 281, khoản 5 của Bộ luật Dân sự 2005, một trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự là việc "gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật".

Theo Điều 604 Bộ luật dân sự 2005, "gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật" là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được đồng nghĩa với nghĩa vụ bồi thường do hành vi trái pháp luật Pháp luật Việt Nam sử dụng nhiều phương thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khi bị xâm phạm bởi hành vi trái pháp luật Khi một cá nhân có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác, quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại sẽ phát sinh Bồi thường thiệt hại liên quan đến việc bù đắp tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại, bao gồm các xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và quyền lợi hợp pháp khác Để phát sinh trách nhiệm bồi thường, cần có thiệt hại, hành vi trái pháp luật, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại, cùng với lỗi của người gây thiệt hại.

Qua những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau:

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một hình thức trách nhiệm pháp lý, được Nhà nước áp dụng nhằm yêu cầu người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho những tổn thất do hành vi của họ gây ra Hành vi này có thể là cố ý hoặc vô ý, và có thể xâm hại đến tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, cũng như các quyền nhân thân khác của cá nhân hoặc pháp nhân.

Ý nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhằm khắc phục hậu quả về tài sản và phục hồi tình trạng của người bị thiệt hại, đảm bảo lợi ích của họ trong phạm vi có thể Việc bồi thường được thực hiện qua biện pháp trách nhiệm dân sự, theo quy định của bản án hoặc quyết định dân sự, với nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời theo "Điều 605 BLDS 2005" Điều này đặc biệt quan trọng khi thiệt hại liên quan đến sức khỏe và tính mạng cá nhân Quyết định bồi thường kịp thời không chỉ giúp nạn nhân trong việc cứu chữa mà còn giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền lợi hợp pháp của người khác Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mang ý nghĩa pháp lý và xã hội sâu sắc, thể hiện qua nhiều phương diện khác nhau.

Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể

Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp phần đảm bảo công bằng xã hội

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không chỉ là một quy định pháp lý mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc răn đe và giáo dục cộng đồng, nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cá nhân và tổ chức.

Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự và chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ nhằm buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm mà còn mang ý nghĩa nhân đạo và xã hội sâu sắc Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật, giúp người dân nhận thức rõ rằng hành vi gây thiệt hại sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Đồng thời, chế định này cũng góp phần nâng cao ý thức pháp luật của cộng đồng thông qua các biện pháp chế tài nghiêm khắc.

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có đủ các căn cứ theo quy định của pháp luật Việc xác định các căn cứ này rất quan trọng, vì nó là cơ sở để xác định trách nhiệm và mức bồi thường Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 307 và Điều 604 của Bộ luật dân sự năm 2005 Theo đó, có bốn điều kiện cần thiết để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

- Phải có thiệt hại xảy ra

- Phải có hành vi gây thiệt hại

- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xảy ra

- Người gây thiệt hại phải có lỗi

2.3.1 Phải có thiệt hại xảy ra Đây là điều kiện tiên quyết, điều kiện quan trọng nhất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bởi nếu không có thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại không bao giờ phát sinh Mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là khôi phục, bù đắp những tổn thất cho người bị thiệt hại, do đó phải có thiệt hại thì mục đích đó mới đạt được

Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm dễ dàng xác định, nhưng khi sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm, việc xác định thiệt hại trở nên phức tạp hơn do không thể "lượng hóa" được Thiệt hại có thể được hiểu theo hai khía cạnh: xã hội và pháp lý.

Theo ý nghĩa xã hội, mỗi hành vi trái pháp luật đều gây thiệt hại, bởi nó làm ảnh hưởng đến những quan hệ xã hội nhất định

Theo luật dân sự Việt Nam, thiệt hại được hiểu là những tổn thất thực tế tính thành tiền do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín và tài sản của cá nhân hoặc các chủ thể khác Tổn thất này bao gồm sự giảm sút hoặc mất mát về lợi ích vật chất, tinh thần, và các chi phí cần thiết để ngăn chặn, hạn chế hoặc khắc phục thiệt hại Thiệt hại thực tế có thể chia thành thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần Thiệt hại vật chất được thể hiện qua việc mất mát tài sản, các chi phí sửa chữa hoặc thay thế tài sản hư hỏng, và khoản thu nhập thực tế bị mất.

Khi hành vi trái pháp luật gây thiệt hại về tính mạng và sức khỏe của người khác, việc xác định thiệt hại thường liên quan đến các chi phí vật chất Tính mạng và sức khỏe con người là vô giá, nên bồi thường không thể tính bằng tiền mà chỉ bao gồm các khoản chi phí cho việc cứu chữa, chăm sóc, phục hồi chức năng và những chi phí cần thiết khác cho bên bị thiệt hại.

Theo thông tư 173/UBTP-TANDTC ngày 23/3/1972 của Tòa án nhân dân tối cao, thiệt hại được xác định là thiệt hại vật chất, bao gồm thiệt hại về tài sản, chi phí phát sinh và thu nhập bị mất do tổn thất về tính mạng hoặc sức khỏe Thiệt hại này phải là thực tế và có thể tính toán được.

Bộ luật dân sự năm 1995 và 2005 quy định rằng người gây thiệt hại phải "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần" cho người bị thiệt hại và gia đình họ.

Pháp luật dân sự, đặc biệt là chế định bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm, là vấn đề nhạy cảm và phức tạp Thiệt hại về tinh thần là loại thiệt hại phi vật chất, không thể áp dụng công thức chung để quy ra tiền Việc bồi thường chỉ nhằm an ủi và động viên nạn nhân, nhưng hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan có thẩm quyền, dẫn đến tranh cãi trong thực tiễn Trên thế giới, một số quốc gia như Liên Xô và Cộng hòa Liên bang Đức đã công nhận thiệt hại tinh thần từ lâu Tác giả Smirnốp T.V trong cuốn "Trách nhiệm phát sinh do gây thiệt hại" khẳng định tầm quan trọng của vấn đề này.

Nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu vật chất, văn hóa và tinh thần của công dân Xô viết chỉ được thực hiện đầy đủ khi những người bị thiệt hại nhận được bồi thường cho cả thiệt hại vật chất lẫn thiệt hại tinh thần, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Theo khoản 3, Điều 307 Bộ luật dân sự, người gây thiệt hại tinh thần cho người khác do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất tinh thần Điều này cho thấy thiệt hại không chỉ bao gồm những thiệt hại vật chất mà còn cả thiệt hại về tinh thần.

Thiệt hại cần được đánh giá một cách khách quan và công bằng xã hội, mặc dù mọi thiệt hại đều mang tính khách quan Tuy nhiên, việc tiên lượng và đánh giá thiệt hại phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người Trong các tình huống thực tế, mọi người đều công nhận sự tồn tại của thiệt hại và chấp nhận việc đánh giá mức độ thiệt hại Người bị thiệt hại có thể phức tạp hóa vấn đề bằng cách khai tăng giá trị thiệt hại, trong khi người gây thiệt hại thường có xu hướng đơn giản hóa Do đó, vai trò của người đánh giá thiệt hại, đại diện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, là rất quan trọng Việc đánh giá thiệt hại cần dựa trên cơ sở pháp luật để xác định xem có thiệt hại xảy ra hay không và mức độ thiệt hại như thế nào.

Thiệt hại cần được tính toán thành một số tiền cụ thể để đảm bảo cơ sở bồi thường hợp lý Tuy nhiên, thiệt hại tinh thần không thể định giá bằng tiền, vì vậy Tòa án sẽ xem xét từng trường hợp để xác định mức bồi thường phù hợp nhằm bảo vệ quyền lợi của nạn nhân và gia đình họ Tòa án chỉ chấp nhận những thiệt hại hợp lý, không thừa nhận những thiệt hại suy diễn thiếu căn cứ Thiệt hại vật chất được định nghĩa là những thiệt hại có giá trị tiền tệ, bao gồm thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín và nhân phẩm.

Thiệt hại tinh thần là những tổn thất phi vật chất mà không thể áp dụng công thức chung để quy đổi thành tiền cho mọi trường hợp Việc bồi thường cho thiệt hại tinh thần phụ thuộc vào từng tình huống cụ thể, nhằm mục đích an ủi và động viên nạn nhân cũng như giúp họ khắc phục khó khăn và giảm bớt nỗi đau cho bản thân và người thân.

Thiệt hại về tinh thần là tổn thất liên quan đến giá trị tinh thần, tình cảm và sự suy sụp tâm lý của cá nhân, biểu hiện qua những tác động như tàn tật hoặc biến dạng bề ngoài Không chỉ người bị thiệt hại phải gánh chịu, mà cả người thân cũng có thể trải qua cảm giác đau thương và lo lắng Khác với thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần không có tiêu chí chung để xác định, do điều kiện và hoàn cảnh của mỗi cá nhân khác nhau Theo Điều 710 Bộ luật dân sự Nhật Bản, người gây thiệt hại phải bồi thường cả thiệt hại phi vật chất, và để được bồi thường, thiệt hại phải chắc chắn, thực tế và chưa được bồi thường Để chứng minh thiệt hại, người bị thiệt hại cần cung cấp chứng cứ đáng tin cậy, như hóa đơn chi phí chữa trị, trong khi những thiệt hại không chắc chắn hoặc chỉ mang tính giả định sẽ không được bồi thường.

Bồi thường thiệt hại là quá trình khôi phục tình trạng tài sản trước khi xảy ra thiệt hại hoặc bù đắp tổn thất về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự Thiệt hại được coi là điều kiện quan trọng trong việc bồi thường, vì không thể thực hiện bồi thường nếu không có thiệt hại xảy ra.

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

Khi giải quyết các vụ án liên quan đến sức khỏe và tính mạng, các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ nguyên tắc bồi thường thiệt hại Nguyên tắc này là tư tưởng pháp lý chỉ đạo, có ý nghĩa bao trùm trong quá trình ban hành và áp dụng pháp luật Theo Điều 605 Bộ luật dân sự 2005, các chủ thể liên quan cần tuân thủ các quy định về bồi thường thiệt hại để đảm bảo quyền lợi cho những người bị xâm phạm.

1 Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác

2 Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình

3 Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường

Bộ luật dân sự 2005 đã bổ sung nguyên tắc "bồi thường một lần hoặc nhiều lần", cho phép người gây thiệt hại và người bị thiệt hại tự do thỏa thuận dựa trên hoàn cảnh kinh tế và khả năng của họ Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại tại Điều 605 thể hiện sự công bằng hợp lý của pháp luật dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, pháp nhân khi bị xâm phạm, đồng thời đảm bảo sự công bằng cho người gây thiệt hại, chỉ phải chịu trách nhiệm tương ứng với mức độ lỗi của mình.

2.5.1 Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhằm buộc người gây thiệt hại phải bù đắp những tổn thất đã xảy ra cho nạn nhân, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ Theo Khoản 1 Điều 605 Bộ luật Dân sự 2005, "Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời" Điều này nhấn mạnh rằng việc bồi thường không chỉ cần thiết mà còn phải được thực hiện một cách nhanh chóng để bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại.

"Bồi thường thiệt hại" là trách nhiệm dân sự yêu cầu bên gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp tổn thất vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại.

"Toàn bộ" có nghĩa là tất cả các phần của một chỉnh thể, trong khi "kịp thời" liên quan đến việc thực hiện đúng thời điểm Bồi thường toàn bộ thiệt hại là nguyên tắc công bằng hợp lý, nhằm khôi phục và phù hợp với mục đích phục hồi Điều này đặc biệt quan trọng trong việc xác định bồi thường cho thiệt hại về tính mạng và sức khỏe, khi chi phí cứu chữa có thể rất cao và vượt quá khả năng tài chính của người bị thiệt hại.

Bồi thường "kịp thời" nghĩa là không chậm trễ, người gây thiệt hại phải bồi thường ngay mà không cần chờ quyết định của Tòa án Ngành Tòa án cần áp dụng nguyên tắc này triệt để trong các vụ việc liên quan đến tính mạng và sức khỏe, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại một cách nhanh chóng và ngăn chặn tình trạng chây ỳ trong việc bồi thường Nếu người gây thiệt hại có khả năng tài chính nhưng không thực hiện bồi thường ngay, cơ quan tố tụng có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để buộc họ phải bồi thường cho nạn nhân.

Trong trường hợp một người bị thiệt hại cần điều trị lâu dài do hành vi trái pháp luật của người khác nhưng không có khả năng chi trả ngay, Tòa án có thể can thiệp bằng cách áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Biện pháp này buộc người gây thiệt hại phải bồi thường ngay một khoản tiền cho người bị thiệt hại, đảm bảo quyền lợi cho nạn nhân trong hoàn cảnh khó khăn.

Bồi thường thiệt hại được xác định theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại do người gây thiệt hại gây ra Thiệt hại có thể liên quan đến tài sản, sức khỏe hoặc tính mạng (Điều 608, 609, 610 Bộ luật dân sự 2005), và trong một số trường hợp, có thể áp dụng bồi thường thiệt hại về tinh thần (khoản 2 Điều 609, khoản 2 Điều 610 Bộ luật dân sự 2005) Chúng ta không chấp nhận những chi phí và thiệt hại không thực tế hoặc thiệt hại được suy diễn một cách chủ quan.

Nghị quyết số 03/2006/NQ ngày 8/7/2006 hướng dẫn việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự 2005 liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Theo Điều 605 của Bộ luật Dân sự, có ba nguyên tắc chính trong việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời, với các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, hiện vật hoặc thực hiện một công việc Nguyên tắc bồi thường này đảm bảo rằng người gây thiệt hại phải bồi thường tương xứng với toàn bộ thiệt hại đã gây ra và thực hiện bồi thường nhanh chóng để khắc phục hậu quả Pháp luật khuyến khích các bên tự thỏa thuận về mức và phương thức bồi thường, miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu họ có lỗi vô ý và thiệt hại gây ra vượt quá khả năng kinh tế hiện tại và lâu dài của họ Nguyên tắc này thể hiện tính nhân văn trong việc xử lý các vụ việc liên quan đến bồi thường thiệt hại Tuy nhiên, để được giảm mức bồi thường, người gây thiệt hại cần phải đáp ứng đủ hai điều kiện: có lỗi vô ý và thiệt hại phải quá lớn so với khả năng tài chính của họ.

Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế, cả người bị thiệt hại và người gây thiệt hại đều có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường Điều này áp dụng trong trường hợp mức bồi thường quá thấp, gây bất lợi cho người bị thiệt hại trong việc khắc phục hậu quả, hoặc mức bồi thường quá cao, ảnh hưởng đến lợi ích của người gây ra thiệt hại.

Xác định thiệt hại trong trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm

2.6.1 Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm Điều 609 Bộ luật dân sự 2005 quy định:

1 Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm gồm: a Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại b Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại, nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại c Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại

2 Người xâm phạm sức khỏe của người khác phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định

Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa và phục hồi sức khỏe của người bị thiệt hại là rất quan trọng Theo Điều 71 Hiến pháp 1992, công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể và được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe.

Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa và phục hồi sức khỏe của người bị thiệt hại bao gồm: chi phí thuê phương tiện cấp cứu, vé tàu xe hoặc máy bay, tiền thuốc, thiết bị y tế, chi phí chụp X-quang, siêu âm, xét nghiệm, phẫu thuật, truyền máu, vật lý trị liệu theo chỉ định bác sĩ Ngoài ra, còn có viện phí, thuốc bổ, chi phí chăm sóc phục hồi sức khỏe, lắp chân tay giả, xe lăn, nạng chống, và các chi phí thẩm mỹ để hỗ trợ chức năng cơ thể Trong trường hợp ở vùng sâu vùng xa, nếu không có hóa đơn cho phương tiện đi lại, chứng cứ hợp lý từ người bị hại vẫn được chấp nhận Các cơ sở y tế tư nhân cũng cần được bồi thường chi phí cấp cứu, điều trị Tuy nhiên, nếu cơ sở y tế địa phương có đủ điều kiện mà người bị thiệt hại yêu cầu chuyển viện không cần thiết, chi phí đó sẽ không được coi là hợp lý Các chi phí không liên quan hoặc vượt quá yêu cầu điều trị cũng không được bồi thường.

Khi một người bị gãy chân, chi phí điều trị tại Tỉnh Kon Tum chỉ khoảng 4 – 5 triệu đồng và tiền xe khoảng 100.000đ Tuy nhiên, nếu người bệnh yêu cầu được chuyển đến Sài Gòn điều trị với tổng chi phí lên đến 15 triệu đồng và tiền xe là 1 triệu đồng, thì những khoản chi này không thể coi là hợp lý.

* Thu nhập thực tế bị giảm sút:

Thu nhập bị thiệt hại là khoản thu nhập mà người bị thiệt hại không thể kiếm được do sức khỏe bị xâm phạm, được tính bằng chênh lệch giữa thu nhập trước và sau khi xảy ra sự cố Đối với những người có việc làm không ổn định, có thể xác định mức thu nhập bị giảm sút dựa trên các khoản thu nhập thực tế bị ảnh hưởng.

Trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập 30.000 đồng/ngày; tuy nhiên, sau khi sức khỏe bị ảnh hưởng, thu nhập của họ chỉ còn 20.000 đồng/ngày Do đó, người gây thiệt hại cần bồi thường số tiền chênh lệch là 10.000 đồng/ngày.

Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại có thể bị mất hoặc giảm sút do sức khỏe bị xâm phạm, đặc biệt khi họ phải điều trị và không thể làm việc Trong trường hợp thu nhập không ổn định, cần áp dụng mức trung bình của lao động cùng loại tại địa phương Tuy nhiên, việc xác định thu nhập thực tế gặp khó khăn do sự khác biệt trong tài liệu và chứng cứ từ các bên, cùng với việc quản lý thu nhập chưa chặt chẽ Sau khi điều trị, cần xem xét khả năng lao động của người bị thiệt hại và xác minh thu nhập hàng tháng để đối chiếu với thu nhập trước khi sức khỏe bị ảnh hưởng, từ đó xác định mức độ giảm sút thu nhập.

Theo tôi thì thời gian hưởng thu nhập thực tế được tính theo hai cách sau:

Trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động, thời hạn bồi thường thiệt hại sẽ được tính từ thời điểm sức khỏe bị xâm phạm cho đến khi người thiệt hại qua đời, theo quy định tại khoản 1 Điều 612 Bộ luật Dân sự 2005.

Trong trường hợp người bị thiệt hại không mất hoàn toàn khả năng lao động, thời điểm tính bồi thường thiệt hại sẽ được xác định từ khi sức khỏe bị xâm phạm cho đến khi thu nhập được khôi phục về mức trước khi xảy ra thiệt hại Thực tế cho thấy, các Tòa án thường yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại, và khoản bồi thường này thường được các bên liên quan chấp nhận.

* Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị

Căn cứ NQ số: 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao

Các khoản chi phí hợp lý theo quy định tại Điều 609, Điều 610 và Điều 611 Bộ luật Dân sự 2005 bao gồm chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất và mức độ thiệt hại, cũng như giá trung bình tại từng địa phương tại thời điểm phát sinh chi phí.

Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: chi phí đi lại bằng tàu xe, tiền thuê nhà trọ theo mức giá trung bình tại địa phương, và các khoản chi phí khác nếu cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.

Chi phí chăm sóc người bị thiệt hại sức khỏe thường chỉ áp dụng cho một người, trừ trường hợp đặc biệt cần đến hai người để theo dõi thường xuyên Nếu mức độ thiệt hại sức khỏe đạt 81% trở lên, người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm chi trả cho người cấp dưỡng cho nạn nhân cho đến khi họ qua đời Ngoài ra, thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc trong thời gian điều trị cũng được tính, do họ phải nghỉ việc để chăm sóc nạn nhân Trong trường hợp nạn nhân mất hoàn toàn khả năng lao động và cần chăm sóc liên tục, thiệt hại sẽ bao gồm chi phí hợp lý cho việc chăm sóc và khoản tiền cấp dưỡng cho những người có nghĩa vụ cấp dưỡng Các khoản chi phí hợp lý này còn bao gồm chi phí đi lại, thuê nhà nghỉ theo mức giá trung bình địa phương, nhằm bù đắp cho người chăm sóc vì họ không thể làm việc trong thời gian này.

Theo quan điểm của tôi, chỉ những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng và thực tế đang thực hiện nghĩa vụ này mới được xem là đối tượng cần cấp dưỡng Quyết định này cần dựa trên mức thu nhập của người bị thiệt hại và thực tế họ đã cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng trước khi xảy ra thiệt hại.

Trong trường hợp A gây thương tích cho B dẫn đến cái chết của B, nếu B là người nghiện ma túy và thường xuyên gây áp lực với cha mẹ để lấy tiền mua ma túy, thì A không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về khoản tiền cấp dưỡng, vì người phải cấp dưỡng phải là người trực tiếp thực hiện việc này.

* Người gây thiệt hại phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu

Hình thức bồi thường và mức bồi thường

2.7.1 Hình thức bồi thường thiệt hại

Hình thức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nghĩa vụ của bên gây thiệt hại đối với bên bị thiệt hại, có thể được thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật Theo Khoản 1 Điều 605 Bộ luật dân sự, các bên có thể thỏa thuận về hình thức bồi thường bằng tiền, hiện vật hoặc thực hiện công việc, với phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ khi pháp luật quy định khác Đối với thiệt hại liên quan đến sức khỏe và tính mạng, Tòa án thường áp dụng bồi thường bằng tiền do tính chất đặc biệt của thiệt hại này, bao gồm các khoản chi phí hợp lý mà người bị thiệt hại và gia đình đã chi cho việc điều trị tại cơ sở y tế.

2.7.2 Mức bồi thường thiệt hại

Khi áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại, cần xem xét từng trường hợp cụ thể, bao gồm mức độ lỗi của cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại, cũng như khả năng kinh tế của người gây thiệt hại Tòa án sẽ quyết định có nên giảm mức bồi thường hay không, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan Người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi cố ý, trong khi nếu thiệt hại xảy ra do vô ý và vượt quá khả năng kinh tế, mức bồi thường có thể được giảm hoặc chỉ yêu cầu bồi thường thấp hơn mức thiệt hại, đặc biệt nếu người bị thiệt hại cũng có lỗi.

THỰC TIỄN VIỆC GIẢI QUYẾT BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÈ SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂKGLEI – KON TUM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Ngày đăng: 04/09/2021, 09:19

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w