1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chuyên đề tốt nghiệp chuyên khoa cấp i thực trạng công tác chăm sóc người bệnh trầm cảm tại bệnh viện tâm thần trung ương i

44 25 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Công Tác Chăm Sóc Người Bệnh Trầm Cảm Tại Khoa Phục Hồi Chức Năng Bệnh Viện Tâm Thần Trung Ương I
Tác giả Nguyễn Thị Thanh
Người hướng dẫn TS. Trương Tuấn Anh
Trường học Trường Đại Học Điều Dưỡng Nam Định
Chuyên ngành Điều Dưỡng
Thể loại báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
Năm xuất bản 2017
Thành phố Nam Định
Định dạng
Số trang 44
Dung lượng 405,66 KB

Cấu trúc

  • 2. Cơ sở lý luận (9)
    • 2.1. Khái niệm về Trầm Cảm (9)
    • 2.2. Quan niệm và phân loại rối loạn trầm cảm (10)
    • 2.3. Bệnh nguyên, bệnh sinh của trầm cảm (10)
      • 2.3.1. Các giả thuyết sinh học (10)
      • 2.3.2. Giả thuyết về tâm lý - xã hội (13)
    • 2.4. Dịch tễ học trầm cảm (14)
      • 2.4.1. Một số nghiên cứu ở các nước trên thế giới (14)
      • 2.4.2. Thực trạng về bệnh trầm cảm ở Việt Nam hiện nay (15)
      • 2.4.3. Một số nghiên cứu ở trong nước (16)
    • 2.5. Đặc điểm lâm sàng rối loạn trầm cảm nặng (16)
      • 2.5.1. Các triệu chứng đặc trưng của rối loạn trầm cảm điển hình (16)
      • 2.5.2. Các triệu chứng phổ biến (17)
      • 2.5.3. Các thể lâm sàng của rối loạn trầm cảm (20)
    • 2.6. Trầm cảm và vấn đề tự sát (22)
    • 2.7. Những dấu hiệu dự đoán về tiến triển, tái phát của trầm cảm (23)
      • 2.7.1. Những dấu hiệu dự đoán về tiến triển của trầm cảm (23)
      • 2.7.2. Tiến triển và tiên lượng (23)
      • 2.7.3. Tái phát (24)
      • 2.7.4. Các dấu hiệu dự đoán nguy cơ tái phát hay tái diễn (24)
    • 2.8. Nguyên tắc điều trị trầm cảm (24)
      • 2.8.1. Điều trị cụ thể (25)
      • 2.8.2. Điều trị tâm lý – xã hội (26)
    • 2.9. Chăm sóc người bệnh trầm cảm (28)
  • 3. Cơ sở thực tiễn (30)
    • 4.2. Đối với người nhà người bệnh (38)
  • 5. Giải pháp, kiến nghị, đề xuất nhằm cải thiện chăm sóc người bệnh trầm cảm (39)
    • 5.1. Đối với nhân viên y tế (39)
    • 5.2. Với mạng lưới y tế cấp cơ sở (39)
    • 5.3. Đối với gia đình người bệnh (40)

Nội dung

Cơ sở lý luận

Khái niệm về Trầm Cảm

Trầm cảm, hay còn gọi là rối loạn trầm cảm chính và trầm cảm lâm sàng, là một bệnh lý ảnh hưởng đến cả tâm trí và cơ thể, tác động đến cảm nhận, suy nghĩ và hành vi của con người Tình trạng này có thể dẫn đến nhiều vấn đề cảm xúc và thể chất, khiến người bệnh gặp khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động hàng ngày và cảm thấy cuộc sống không còn ý nghĩa.

Trầm cảm là rối loạn tâm thần phổ biến, đặc trưng bởi buồn bã sâu sắc và sự mất hứng thú với cuộc sống Người bệnh thường cảm thấy mệt mỏi, tuyệt vọng và nhìn nhận thế giới xung quanh một cách u ám Rối loạn này có thể xuất hiện ở bất kỳ độ tuổi nào, nhưng thường gặp nhất ở người từ 18 đến 44 tuổi, với tỷ lệ nữ giới mắc bệnh gấp đôi nam giới.

Trầm cảm là một căn bệnh kinh niên, không chỉ đơn thuần là những cảm xúc tạm thời hay điểm yếu cá nhân Nó cần được điều trị lâu dài, tương tự như bệnh tiểu đường hay huyết áp cao Tuy nhiên, người mắc trầm cảm không nên nản lòng, vì hầu hết đều cảm thấy cải thiện đáng kể nhờ vào thuốc, tư vấn tâm lý hoặc các phương pháp điều trị khác.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, với các triệu chứng như buồn bã, mất hứng thú hoặc khoái cảm, cảm giác tội lỗi, tự hạ thấp giá trị bản thân, rối loạn giấc ngủ và ăn uống, cũng như kém tập trung.

Trầm cảm là một rối loạn tâm lý có thể kéo dài hoặc tái phát, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng làm việc, học tập và đối phó với cuộc sống hàng ngày Trong những trường hợp nặng, trầm cảm có thể dẫn đến tự tử Đối với mức độ nhẹ, bệnh nhân có thể được hỗ trợ điều trị mà không cần dùng thuốc, trong khi đối với mức độ vừa và nặng, việc điều trị cần kết hợp giữa thuốc và liệu pháp tâm lý.

Quan niệm và phân loại rối loạn trầm cảm

Hippocrate (năm 460-377 trước công nguyên) đã dùng thuật ngữ “sầu uất” (melancholie) để mô tả một trạng thái bệnh lý về cảm xúc

Năm 1886, Bonet đã mô tả bệnh hưng cảm và sầu uất Đến thế kỷ XVIII, các tác giả đã phân biệt hưng cảm và trầm cảm thành hai bệnh lý riêng biệt, với đặc điểm là tiến triển mạn tính và dễ tái phát Sự xuất hiện xen kẽ của hai trạng thái này ở một bệnh nhân được coi là ngẫu nhiên.

Năm 1889, tác giả người Đức E.Kraepelin đã tổng hợp các biểu hiện lâm sàng và tính chất tiến triển của các bệnh tâm thần trước đó, như “bệnh thao cuồng” và “bệnh sầu uất”, để hình thành khái niệm “loạn thần hưng-trầm cảm” (psychose maniaco depressive) Trầm cảm, theo mô tả truyền thống của các nhà tâm thần học, được xem như một giai đoạn điển hình với tình trạng u sầu (melancholia), phản ánh sự ức chế nặng nề các hoạt động tâm thần, đặc biệt là ba triệu chứng cổ điển: khí sắc giảm, buồn rầu, và sự chậm lại trong quá trình tư duy cùng với sự ức chế tâm thần vận động.

Theo ICD-10, trầm cảm là một hội chứng bệnh lý liên quan đến rối loạn cảm xúc, đặc trưng bởi khí sắc trầm, mất đi sự quan tâm và thích thú, cũng như giảm năng lượng dẫn đến mệt mỏi và giảm hoạt động Triệu chứng phổ biến của trầm cảm là cảm giác mệt mỏi rõ rệt chỉ sau những nỗ lực nhỏ và tình trạng này kéo dài ít nhất một khoảng thời gian nhất định.

Trong vòng 2 tuần, những biểu hiện này được xem là triệu chứng đặc trưng với ý nghĩa lâm sàng quan trọng, thường xuất hiện ở mọi mức độ của giai đoạn trầm cảm Bên cạnh các triệu chứng điển hình, còn tồn tại nhiều triệu chứng phổ biến khác và các triệu chứng liên quan đến cơ thể.

Bệnh nguyên, bệnh sinh của trầm cảm

2.3.1 Các giả thuyết sinh học

+ Các giả thuyết về di truyền

Yếu tố di truyền có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của rối loạn trầm cảm Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng di truyền đóng vai trò quan trọng trong cơ chế hình thành bệnh trầm cảm.

- Nghiên cứu về gia đình

Nghiên cứu cho thấy rằng người họ hàng cấp 1 của bệnh nhân trầm cảm, bao gồm bố, mẹ, anh, chị, em, có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 2-3 lần so với người bình thường.

Nghiên cứu về cặp sinh đôi cho thấy rằng ở những cặp sinh đôi cùng trứng, nếu một người mắc bệnh trầm cảm, nguy cơ người còn lại cũng bị bệnh này lên đến 50% Trong khi đó, ở các cặp sinh đôi khác trứng, nguy cơ này chỉ dao động từ 10-25%.

Các amin sinh học như Serotonin và cathecholamin (Noradrenalin, Adrenalin, Dopamin) có vai trò quan trọng trong trầm cảm Sự thay đổi về số lượng hoặc hoạt tính của các amin này có thể dẫn đến biến đổi cảm xúc đáng kể Trong trạng thái trầm cảm, sự suy giảm Serotonin và cathecholamin tại các synap trong não thường được ghi nhận.

Serotonin (5HT) có mặt với nồng độ cao ở một số khu vực của não và sừng bên chất xám tuỷ sống, với các neuron tiết ra serotonin chủ yếu ở nhân Raphe trong hành não Những sợi serotonin này kết nối đến hệ viền, cấu trúc lưới, dưới đồi, vỏ não mới và tuỷ sống Bệnh nhân trầm cảm thường có nồng độ 5-Hydroxyindoleacetic (5-HIAA) trong dịch não tuỷ giảm, cho thấy mối liên hệ giữa sự giảm này và gia tăng tỉ lệ tự sát, ý tưởng tự sát, cũng như hành vi xâm phạm Não của những bệnh nhân tự sát có nồng độ serotonin thấp, và những bệnh nhân trầm cảm có ý tưởng tự sát cũng thể hiện sự suy giảm serotonin.

Noradrenalin là một yếu tố quan trọng trong các thuốc chống trầm cảm cổ điển, bao gồm thuốc chống trầm cảm 3 vòng và chất ức chế men MAO Các thuốc chống trầm cảm 3 vòng hoạt động bằng cách ngăn chặn sự tái hấp thu của Noradrenalin và Serotonin, từ đó làm tăng nồng độ Noradrenalin trong não Tác động tức thì của cả thuốc chống trầm cảm 3 vòng và MAOI là gia tăng mức độ Noradrenalin, góp phần vào việc cải thiện triệu chứng trầm cảm.

Serotonin tại khe synap đóng vai trò quan trọng trong điều trị trầm cảm Các thuốc chống trầm cảm thường mất từ 2 đến 4 tuần để phát huy hiệu quả, cho thấy tác động không phải ngay lập tức Tuy nhiên, những tác động tức thời có thể dẫn đến sự thay đổi số lượng thụ thể α-adrenergic sau synap, từ đó cải thiện triệu chứng lâm sàng.

- Dopamin Sản phẩm chuyển hoá chủ yếu của Dopamin là Homovanilic acid (HVA) Nghiên cứu cho thấy nồng độ HVA trong dịch não tuỷ giảm ở bệnh nhân trầm cảm [11],[14]

Hệ viền đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh cảm xúc và giải phóng hormone từ tuyến yên, ảnh hưởng đến các trục nội tiết như "Dưới đồi-Tuyến yên-Thượng thận" (HPA), "Dưới đồi-Tuyến yên-Tuyến giáp" (HPT), và "Dưới đồi-Tuyến yên-Tuyến sinh dục" (HPGH) Những bất thường trong hệ thần kinh nội tiết có thể dẫn đến rối loạn trong các trạng thái cảm xúc và chức năng hormone.

+ Giả thuyết về rối loạn nội tiết

Giả thuyết này cho rằng rối loạn trầm cảm là kết quả rối loạn trục dưới đồi- tuyến yên - thượng thận với các biểu hiện:

- Tăng tiết hormon adrenocorticotrop (ACTH) trong bệnh cusching và cũng hay gặp trong rối loạn trầm cảm

Bệnh nhân trầm cảm có loạn thần thường có nồng độ cortisol cao hơn vào buổi chiều so với bệnh nhân trầm cảm không có loạn thần và nhóm tình nguyện.

- Sử dụng Steroid ngoại sinh có thể gây ra rối loạn trầm cảm

- Thay đổi nồng độ melatonin trong trầm cảm, thay đổi nồng độ Prolactin ở phụ nữ có thai bị trầm cảm

- Trục dưới đồi- tuyến yên- tuyến giáp:

Vùng dưới đồi sản xuất Corticotropin-releasing hormon (CRH), kích thích tuyến yên tiết ra ACTH, từ đó ACTH kích thích tuyến thượng thận sản xuất cortisol Cortisol phản hồi ngược đến vùng dưới đồi qua cơ chế phản ứng nhanh và chậm, giúp điều hòa nồng độ cortisol trong máu ổn định Khi cơ chế này bị rối loạn, nồng độ cortisol cao có thể dẫn đến trầm cảm.

Vùng dưới đồi tiết ra TRH, kích thích tuyến yên sản xuất TSH, từ đó TSH kích thích tuyến giáp giải phóng hormone thyroid Ở 1/3 bệnh nhân trầm cảm, nồng độ TSH giảm, dẫn đến giảm hormone thyroid trong máu Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân trầm cảm có kháng thể kháng giáp trong máu, mặc dù chưa xác định rõ liệu các kháng thể này có gây ra trầm cảm hay không, nhưng chúng có thể đóng vai trò nhất định trong tình trạng này (Kaplan H.I 1994).

2.3.2 Giả thuyết về tâm lý - xã hội

+ Các yếu tố về tâm lý- xã hội- văn hoá

Rối loạn trầm cảm thường liên quan đến các sự kiện gây stress trong cuộc sống, bao gồm sự mất mát và những biến cố bất lợi từ điều kiện sống cũng như hành vi của cá nhân và gia đình Các yếu tố gây stress trong công việc như sa thải, thất nghiệp, và xung đột có thể tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần Trong xã hội, những thay đổi như chuyển chỗ ở, khủng hoảng kinh tế, và bất ổn chính trị cũng góp phần làm gia tăng căng thẳng Tại gia đình, mâu thuẫn vợ chồng, ly hôn, và bệnh tật của người thân là những yếu tố đáng lưu ý Cuối cùng, tình trạng sức khỏe cá nhân như bệnh mạn tính, nghiện rượu, và các vấn đề liên quan đến thai sản cũng có thể ảnh hưởng đến tâm trạng và sự ổn định cảm xúc.

Những yếu tố gây stress và biến cố trong cuộc sống, nếu kéo dài và tích lũy, có thể dẫn đến quá tải tâm lý, ảnh hưởng đến nhân cách dễ bị tổn thương, từ đó gây ra trầm cảm.

+ Giả thuyết về nhận thức

Theo Sadock, rối loạn chức năng nhận thức là yếu tố cốt lõi gây ra trầm cảm Những thay đổi về thể chất, cảm xúc và các khía cạnh liên quan đến trầm cảm đều là hệ quả của rối loạn nhận thức Chẳng hạn, sự bàng quan và giảm năng lượng thường xuất phát từ những thất vọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống Tê liệt ý chí là hệ quả của sự bi quan và cảm giác vô vọng mà con người trải qua Các tác giả đã chỉ ra ba triệu chứng chính liên quan đến nhận thức trong trầm cảm.

- Sự tự nhìn nhận, đánh giá về mình một cách tiêu cực: là người có nhiều thiếu sót, khuyết điểm, không có năng lực, không ai ưa thích

Nhiều người hiện nay có xu hướng nhìn nhận thế giới xung quanh qua lăng kính u ám và tiêu cực, cảm thấy như cuộc sống luôn tiềm ẩn những rủi ro và bất hạnh Họ thường chờ đợi những điều xấu xảy ra và cảm nhận rõ ràng sự hiện diện của những hình phạt không thể tránh khỏi.

- Sự cam chịu, sẵn sàng để sống tiếp một cuộc sống vất vả, khó khăn, chịu đựng mọi thua thiệt, bị tước đoạn và thất bại [14]

Dịch tễ học trầm cảm

2.4.1 Một số nghiên cứu ở các nước trên thế giới

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã cảnh báo rằng số người mắc bệnh trầm cảm trên toàn cầu đã tăng lên hơn 350 triệu, với khoảng 1 triệu ca tử vong do tự tử mỗi năm, tương đương 2900 ca mỗi ngày Bệnh trầm cảm hiện đứng thứ hai trong số các bệnh phổ biến nhất, cướp đi trung bình 850.000 mạng sống hàng năm Những con số này cho thấy sự gia tăng đáng lo ngại về tình trạng sức khỏe tâm thần trong những năm gần đây.

Theo báo The Huffing Post, tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm trung bình ở 10 nước giàu là 15%, trong khi ở các nước nghèo là 11% Pháp dẫn đầu với tỷ lệ 21%, tương đương 1 trong 5 người Pháp sẽ mắc bệnh trầm cảm trong đời Tiếp theo là Mỹ với 19,2%, Brazil 18,4%, Hà Lan 17,9%, New Zealand 17,8%, Ukraine 14,6%, Bỉ 14,1%, Colombia 13,3% và Lebanon 10,9%.

%, Tây Ban Nha: 10,6%, Israel: 10,2%, Đức: 9,9%, Ý: 9,9%, Hàn Quốc: 9,8%, Ấn độ: 9%, Mexico: 8%, Nhật: 6,6%, Trung Quốc: 6,5%

Tại Mỹ, hiện nay có khoảng 27 triệu người mắc bệnh trầm cảm

( tăng gấp 3 lần trong 20 năm qua ), mỗi năm có trên 300 000 người tự tử, trong đó chiếm 60% là những người mắc bệnh trầm cảm

Tại Châu Âu, khủng hoảng đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể số người mắc bệnh trầm cảm và tự tử, với ước tính khoảng 215 triệu người sẽ trải qua rối loạn tâm lý do cuộc sống khó khăn Tại Anh, số lượng yêu cầu điều trị chống trầm cảm đã tăng 28%, từ 34 triệu người vào năm 2007 lên 43,4 triệu người trong năm gần đây.

Mỗi năm, Trung Quốc ghi nhận khoảng 300.000 ca tự tử, con số thực tế có thể còn cao hơn Đặc biệt, tỷ lệ nữ giới tự sát cao hơn nam giới với tỷ lệ 3:1, và khu vực nông thôn có tỷ lệ tự tử cao gấp ba lần so với thành phố.

2.4.2 Thực trạng về bệnh trầm cảm ở Việt Nam hiện nay

Theo số liệu từ chính phủ Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm trong nước đã tăng từ 2,47% vào năm 2000 lên khoảng 15% hiện nay.

Theo báo cáo từ hội thảo quốc tế về “Vấn đề toàn cầu hóa, thành thị hóa và sức khỏe tâm thần” diễn ra tại Huế từ ngày 25 đến 27/11/2010, hiện có khoảng 20% dân số Việt Nam, tương đương 18 triệu người, đang đối mặt với các chứng bệnh “tâm thần hiện đại”.

Theo La Đức Cương, khoảng 12 triệu người, tương đương 15% dân số Việt Nam, đang gặp phải rối loạn tâm thần Trong số đó, bệnh trầm cảm chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là các bệnh nặng hơn như tâm thần phân liệt, nghiện rượu, lạm dụng ma túy và chậm phát triển trí tuệ.

Theo TS BS Tô Thanh Phương, khoảng 15% dân số Việt Nam đang gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần, với đa số bệnh nhân trầm cảm nặng nằm trong độ tuổi từ 16 đến 35.

Bệnh trầm cảm là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây mất sức lao động trên toàn cầu và đứng thứ hai trong số các nguyên nhân dẫn đến tự tử, với 2/3 trường hợp liên quan Đáng lo ngại, khoảng 60% người mắc bệnh không được phát hiện do sự thiếu hiểu biết và mặc cảm về căn bệnh này Trầm cảm thường gặp ở nữ giới nhiều hơn nam giới và có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi Một nghiên cứu của viện quân y 103 cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở người cao tuổi cô đơn trên 60 tuổi lên đến 50%.

Theo Trung tâm Phòng chống Khủng hoảng Tâm lý, có đến 25,4% người dân Việt Nam có ý định tự tử, trong đó 15,6% có kế hoạch tự tử và 4,2% đã thực hiện hành vi tự tử, tương đương khoảng 3,78 triệu người Thực tế, tình trạng bệnh trầm cảm tại Việt Nam có thể còn nghiêm trọng hơn nếu tiến hành điều tra toàn quốc theo tiêu chuẩn quốc tế.

Tại Việt Nam, nghiên cứu các trường hợp trước đây chẩn đoán là suy nhược thần kinh đã cho thấy phần lớn bệnh nhân thực tế đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm.

Bệnh viện Tâm thần trung ương 1 đang chuẩn bị cho một nghiên cứu quy mô lớn do Ts Bs Tô Thanh Phương thực hiện, với đề tài “Đánh giá hiệu quả của kích thích từ xuyên sọ trong điều trị Rối loạn trầm cảm”.

2.4.3 Một số nghiên cứu ở trong nước

Hiện nay ở nước ta có một số nghiên cứu về trầm cảm trong nước của một số tác giả như sau

Trần Văn Mau đã thực hiện luận án vào năm 2011 với tiêu đề “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và điều trị bệnh nhân trầm cảm bằng liệu pháp kích hoạt hành vi” tại Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân trầm cảm và hiệu quả của liệu pháp kích hoạt hành vi trong điều trị.

Nguyễn Viết Thêm, Trần Viết Nghị, Lã Thị Bưởi và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu về dịch tễ lâm sàng các rối loạn trầm cảm trong một số quần thể cộng đồng Kết quả của nghiên cứu này được công bố trong Nội san tâm thần học Hà Nội năm 2001, cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình trạng trầm cảm trong các nhóm dân cư khác nhau.

-Ngô Tích Linh , “Rối loạn trầm cảm nặng” Tâm thần học , nhà xuất bản y học

Theo nghiên cứu của Trần Văn Cường và cộng sự năm 2002, tỷ lệ rối loạn trầm cảm điển hình là 2,8% trong cuộc khảo sát dịch tễ lâm sàng về các bệnh tâm thần phổ biến tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau ở Việt Nam hiện nay.

- Tô Thanh Phương nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và điều trị trầm cảm nặng bằng Amitriptyline phối hợp với thuốc chống loạn thần

Đặc điểm lâm sàng rối loạn trầm cảm nặng

2.5.1 Các triệu chứng đặc trưng của rối loạn trầm cảm điển hình

Trầm cảm thường biểu hiện qua khí sắc đau khổ, chán nản và bất hạnh của bệnh nhân Họ thường cảm thấy như bầu trời đang sụp xuống, với nét mặt đặc trưng bao gồm nếp nhăn sâu, mất nụ cười, và ánh mắt nhìn xuống Nhiều bệnh nhân có thể khóc hoặc có ánh mắt rưng lệ, trong khi một số khác lại thể hiện sự thờ ơ, vô cảm Đặc biệt, một số bệnh nhân cố gắng duy trì nụ cười bên ngoài để che giấu nỗi buồn bên trong của mình.

+ Mất quan tâm thích thú

Bệnh nhân thường xuyên trải qua triệu chứng thiếu hứng thú và vui vẻ trong các hoạt động yêu thích trước đây như xem ti vi hay đọc sách Tình trạng này có thể trở nên nghiêm trọng hơn, dẫn đến việc mất đi sự nhiệt tình và cảm giác hài lòng với mọi thứ xung quanh.

Sự giảm sút năng lượng, kiệt sức và cảm giác mệt mỏi là tình trạng phổ biến mà nhiều người gặp phải Nhiều khi, một người có thể cảm thấy mệt mỏi mà không có nguyên nhân rõ ràng từ cơ thể Ngay cả khi thực hiện những công việc nhẹ nhàng, họ vẫn cần một mức độ tập trung cao, dẫn đến hiệu quả công việc bị giảm sút đáng kể.

Cảm giác mệt mỏi thường tăng vào buổi sáng và giảm vào buổi chiều, nhưng một số bệnh nhân lại cảm thấy mệt mỏi vào buổi chiều Họ có thể cảm thấy thoải mái vào buổi sáng nhưng lại than phiền về sự thiếu năng lượng vào buổi tối Khi triệu chứng mệt mỏi trở nên rõ rệt, bệnh nhân gần như không thể thực hiện các hoạt động hàng ngày, bao gồm cả việc chăm sóc bản thân.

2.5.2 Các triệu chứng phổ biến

Giảm sự tập trung chú ý là triệu chứng phổ biến khiến bệnh nhân cảm thấy khó chịu và thường phải tìm đến bác sĩ Họ thường phàn nàn về việc khó suy nghĩ và tập trung vào một nhiệm vụ cụ thể Việc ra quyết định cũng trở nên khó khăn, với nhiều thời gian phải cân nhắc cho những việc thường ngày Biểu hiện của tình trạng này có thể thấy qua những việc đơn giản như không thể đọc xong một bài báo ngắn, không thể nghe hết một bài hát yêu thích, hoặc không thể xem trọn vẹn một chương trình truyền hình mà trước đây họ vẫn quan tâm.

+ Giảm tính tự trọng và lòng tin

Bệnh nhân thường thể hiện sự giảm sút về tính tự trọng và lòng tin, dẫn đến cảm giác bi quan với cuộc sống Họ có xu hướng nghĩ rằng mình thất bại trong mọi công việc, thiếu tự tin, gặp khó khăn trong việc ra quyết định hoặc thậm chí mất khả năng đưa ra lựa chọn.

+ Những ý tưởng bị tội và không xứng đáng

Cảm giác vô dụng và tội lỗi là những trạng thái tâm lý phổ biến mà nhiều người trải qua Bệnh nhân thường cảm thấy mình là gánh nặng cho gia đình, cơ quan và xã hội, cho rằng mình luôn làm hỏng mọi việc Họ cũng có thể mang nặng mặc cảm tội lỗi về những sai lầm nhỏ trong quá khứ.

Cảm giác vô dụng và tội lỗi có thể dẫn đến hoang tưởng, khiến bệnh nhân tin vào những suy nghĩ sai lầm nhưng mãnh liệt Họ tự trách mình vì không đạt được thành công, không đáp ứng được yêu cầu trong công việc và các mối quan hệ, cũng như không hoàn thành nghĩa vụ gia đình Những cảm xúc này có thể khiến bệnh nhân có ý định tự sát và từ chối điều trị.

+ Nhìn tương lai ảm đạm và bi quan

Thường xuyên cảm thấy bi quan và chán nản, nhiều người lo lắng về tương lai với những thất bại trong công việc và những điều không may xảy ra trong gia đình.

+ Có ý tưởng và hành vi tự sát

Bệnh nhân trầm cảm nặng thường có ý nghĩ về cái chết, ban đầu chỉ là cảm giác sợ hãi về bệnh tật, nhưng dần dần họ tin rằng cái chết có thể giúp giảm bớt đau khổ Những suy nghĩ này tiến triển thành niềm tin rằng sự ra đi của họ sẽ mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho gia đình và bạn bè Cuối cùng, từ những ý nghĩ tiêu cực đó, bệnh nhân có thể dẫn đến hành vi tự sát.

Tự sát thường xảy ra ở những người mắc trầm cảm nhẹ và vừa, đặc biệt phổ biến hơn ở bệnh nhân rối loạn trầm cảm nặng Một số nghiên cứu cho rằng trầm cảm nặng kèm theo triệu chứng loạn thần có nguy cơ tự sát cao hơn so với trầm cảm nặng không có triệu chứng loạn thần, tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác lại không xác nhận điều này.

+ Rối loạn giấc ngủ (mất ngủ, hoặc ngủ quá nhiều)

Rối loạn giấc ngủ là triệu chứng phổ biến ở bệnh nhân trầm cảm nặng, chiếm tới 95% trường hợp Người bệnh thường gặp phải tình trạng mất ngủ ở đầu giấc, giữa giấc hoặc cuối giấc, gây ra nhiều khó khăn và khó chịu Thực tế, mất ngủ có thể là lý do chính khiến bệnh nhân quyết định đi khám bệnh.

Khoảng 5% bệnh nhân trải qua triệu chứng ngủ nhiều, thể hiện qua việc ngủ dài vào ban đêm hoặc tăng thời gian ngủ ban ngày, có thể lên tới 10 - 12 giờ mỗi ngày hoặc hơn Triệu chứng này ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống, lao động và sinh hoạt của họ Thường đi kèm với triệu chứng ăn nhiều, bệnh nhân này thường phản ứng tốt với điều trị bằng thuốc chống trầm cảm IMAO.

+ Mất cảm giác ngon miệng, ăn ít và sút cân

Sự ngon miệng thường bị giảm sút, nhiều bệnh nhân có cảm giác họ bị ép phải ăn

Bệnh nhân thường ăn rất ít, và trong những trường hợp nặng, họ có thể hoàn toàn nhịn ăn, dẫn đến việc sút cân nhanh chóng Khi khám bệnh, họ thường phàn nàn về việc mất cảm giác ngon miệng và không cảm thấy đói mặc dù không ăn gì Ngược lại, khoảng 5% bệnh nhân trầm cảm lại có thể tăng cảm giác thèm ăn và muốn ăn nhiều hơn, dễ dẫn đến tăng cân và béo phì.

+ Rối loạn hoạt động tâm thần vận động

Thay đổi tâm thần vận động thường biểu hiện qua sự chậm chạp, tăng thời gian nghỉ trước khi trả lời, giọng nói nhỏ và nội dung nghèo nàn Triệu chứng ức chế vận động thường gặp trong trầm cảm cổ điển, đặc biệt ở người cao tuổi, khi họ có thể nằm lỳ trên giường cả ngày mà không hoạt động Tuy nhiên, triệu chứng này hiện nay không còn phổ biến như trước Ngược lại, kích động vận động thường thấy ở người trẻ tuổi, họ luôn hoạt động liên tục nhưng không có mục đích rõ ràng.

Trầm cảm và vấn đề tự sát

Theo Kaplan H.I, các yếu tố tâm thần như nghiện rượu, ma túy, trầm cảm và tâm thần phân liệt có mối liên hệ chặt chẽ với nguy cơ tự sát Đến 95% những người tự sát hoặc cố gắng tự sát đều mắc một bệnh tâm thần đã được chẩn đoán, trong đó trầm cảm hoang tưởng là yếu tố nguy cơ cao nhất Nghiên cứu cho thấy từ 30-70% trường hợp tự sát có liên quan đến trầm cảm, với khoảng 32% người bệnh tự sát trong 6 tháng đầu tiên và 52% có ý định tự sát trong năm đầu Nam giới có tỷ lệ tự sát cao gấp 2-3 lần so với nữ giới, và nguy cơ này càng tăng khi có sự kết hợp giữa hoang tưởng, đặc biệt là trong trường hợp rối loạn tâm thần phân liệt với triệu chứng loạn khí sắc, hoang tưởng và ảo giác.

Người bệnh trầm cảm thường cảm thấy ăn không ngon, trong khi người mắc chán ăn tâm thần vẫn có cảm giác ngon miệng và đói, chỉ mất cảm giác ngon trong giai đoạn nặng Bệnh nhân chán ăn tâm thần thường bị ám ảnh bởi việc tăng cân Sau nhiều lần tái phát, chán ăn tâm thần có thể trở thành mãn tính, dẫn đến nguy cơ trầm cảm và tự sát ở bất kỳ giai đoạn nào, bao gồm giai đoạn khởi phát tại gia đình, giai đoạn cấp tại bệnh viện, giai đoạn ổn định tại bệnh viện và giai đoạn hồi phục tại gia đình.

Những dấu hiệu dự đoán về tiến triển, tái phát của trầm cảm

2.7.1 Những dấu hiệu dự đoán về tiến triển của trầm cảm

Tuổi khởi phát muộn của trầm cảm ở người cao tuổi thường có tiên lượng không khả quan Bệnh lý này thường diễn tiến nặng do kết hợp với nhiều bệnh lý khác, gia tăng nguy cơ tự sát Trầm cảm ở người cao tuổi thường phức tạp, đi kèm với sự suy giảm trí tuệ và khó khăn trong việc áp dụng liệu pháp tâm lý – xã hội để điều trị hiệu quả.

- Giai đoạn của cơn kéo dài cũng như việc điều trị muộn cũng là những yếu tố làm cho bệnh tiến triển xấu

- Các triệu chứng hoang tưởng đáp ứng kém với thuốc chống trầm cảm đơn thuần

- Các trạng thái hỗn hợp ít có tiên lượng tốt vì thường che đậy một triệu chứng cơ thể

- Tính chất nặng nề của trầm cảm và có các bệnh nội tiết thường là có tiên lượng tốt và đáp ứng tốt với điều trị

- Các yếu tố nhân cách có ảnh hưởng không tốt đến tiến triển của trầm cảm

2.7.2 Tiến triển và tiên lượng

Theo nghiên cứu, những giai đoạn trầm cảm ở rối loạn tâm thần phân liệt (TTPL) với triệu chứng loạn thần không phù hợp với khí sắc thường có tiên lượng xấu hơn so với loạn thần phù hợp Khoảng 15% người bệnh trầm cảm có ý định tự sát Nếu không được điều trị, một giai đoạn trầm cảm có thể kéo dài trung bình 10 tháng, và sau giai đoạn khởi đầu 6 tháng, có tới 75% người bệnh có nguy cơ trải qua giai đoạn trầm cảm lần thứ hai.

Trung bình, mỗi người trải qua khoảng 5 đợt trầm cảm trong suốt cuộc đời, với khoảng 50% trong số đó phục hồi hoàn toàn, 30% hồi phục một phần và 20% phát triển thành trầm cảm mạn tính Ngoài ra, khoảng 20-30% người bị rối loạn khí sắc có khả năng phát triển thành rối loạn trầm cảm lớn, hay còn gọi là trầm cảm đôi, một dạng của rối loạn lưỡng cực.

Rối loạn khí sắc chu kỳ, đặc biệt là rối loạn lưỡng cực II, có thể tiến triển thành rối loạn khí sắc nặng ở khoảng 1/3 bệnh nhân Khoảng 45% trường hợp hưng cảm tái diễn nếu không được điều trị, với giai đoạn hưng cảm kéo dài từ 3 đến 6 tháng và tỷ lệ tái phát trung bình là 10 giai đoạn Tiên lượng bệnh nhân nhìn chung là tốt, với 15% khỏi hoàn toàn và 50-60% khỏi từng phần Mặc dù có nhiều lần tái phát, chức năng tâm thần của bệnh nhân thường vẫn bình thường giữa các cơn, nhưng khoảng 1/3 bệnh nhân có thể trở thành mạn tính và mất khả năng giao tiếp xã hội.

Tỷ lệ tái phát sau giai đoạn điều trị trầm cảm cấp là 30% trong năm đầu tiên, 50% năm thứ 2, 70% năm thứ 3

Trầm cảm tái phát: Triệu chứng trầm cảm tái phát trong giai đoạn thuyên giảm ( tức là 6 tháng tính từ khi khởi phát giai đoạn trầm cảm )

Trầm cảm tái diễn là tình trạng xảy ra khi có giai đoạn trầm cảm mới xuất hiện sau ít nhất 6 tháng kể từ khi giai đoạn trước kết thúc Giữa hai giai đoạn này, bệnh nhân thường trải qua một thời gian lành bệnh kéo dài nhiều tháng mà không gặp phải các rối loạn khí sắc đáng kể.

2.7.4 Các dấu hiệu dự đoán nguy cơ tái phát hay tái diễn

Nhiều tác giả nhấn mạnh rằng trầm cảm có thể kết hợp với các bệnh lý cơ thể, tuổi cao, và các dạng trầm cảm hoang tưởng, với tỷ lệ tái phát lên tới 75-80% trong vòng một năm Tiên lượng cho rối loạn cảm xúc lưỡng cực là khả quan, đặc biệt nếu bệnh nhân đáp ứng tốt với điều trị chống trầm cảm và không có rối loạn nhân cách hay yếu tố sang chấn tâm lý xã hội Tuy nhiên, rối loạn cảm xúc lưỡng cực có tỷ lệ tái phát cao hơn so với trầm cảm đơn cực, đặc biệt khi trầm cảm xuất hiện ở tuổi cao và có nhiều giai đoạn trầm cảm trước đó, với thời gian xen kẽ giữa các cơn ngắn.

Nguyên tắc điều trị trầm cảm

Năm 2001, Bộ môn Tâm thần Trường Đại học Y Hà Nội và Viện Sức Khỏe Tâm thần Bệnh viện Bạch Mai đã hợp tác xây dựng quy trình điều trị trầm cảm, dựa trên những nguyên tắc cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả điều trị và chăm sóc sức khỏe tâm thần.

Việc phát hiện sớm và chẩn đoán chính xác các loại hình trầm cảm như trầm cảm suy nhược, trầm cảm lo âu và trầm cảm kèm theo rối loạn cơ thể là vô cùng quan trọng.

Phải xác định được mức độ trầm cảm hiện có ở người bệnh (nhẹ, trung bình, hay nặng?)

Phải xem trầm cảm có kèm theo những rối loạn loạn thần khác hay không? (như có kèm hoang tưởng, ảo giác, kích thích vật vã )

Phải xác định rõ nguyên nhân trầm cảm: trầm cảm nội sinh, trầm cảm thực tổn, trầm cảm tâm sinh

Việc chỉ định điều trị thuốc chống trầm cảm cần được thực hiện sớm, đồng thời phải lựa chọn đúng nhóm thuốc, liều lượng và phương pháp sử dụng phù hợp với từng trạng thái bệnh và từng cá nhân bệnh nhân.

Phải biết kết hợp với các thuốc an thần kinh khi cần thiết, tuỳ từng thể loại trầm cảm

Sốc điện (ECT) thường được xem xét như một phương pháp điều trị cho những trường hợp trầm cảm nặng, đặc biệt là khi bệnh nhân có ý tưởng tự sát hoặc không đáp ứng với thuốc chống trầm cảm, ngay cả khi đã sử dụng ở liều cao.

Tránh kết hợp IMAO với các thuốc hưng thần khác cũng như thực phẩm giàu Tyramine và các chất lên men, vì điều này có thể dẫn đến tương tác nguy hiểm và biến chứng nghiêm trọng đến tính mạng người bệnh.

Trong điều trị trầm cảm, bên cạnh việc sử dụng thuốc chống trầm cảm, liệu pháp nhận thức hành vi và các liệu pháp tâm lý khác cũng được áp dụng Để đạt được kết quả bền vững, quá trình điều trị cần được duy trì ít nhất 6 tháng dưới sự theo dõi, nhằm đảm bảo sự ổn định và phòng ngừa tái phát.

Tuân thủ các nguyên tắc điều trị trầm cảm sẽ cải thiện tình trạng lâm sàng, đồng thời giảm thiểu nguy cơ xuất hiện ý tưởng và hành vi tự sát.

* Điều trị giai đoạn cấp tính

Người bệnh nội trú cần thời gian điều trị từ 2 đến 4 tuần, và bác sĩ sẽ lựa chọn thuốc cũng như điều chỉnh liều lượng phù hợp với tình trạng của từng bệnh nhân Thông thường, bác sĩ sẽ chọn một trong các loại thuốc sau đây.

+ Amitriptiline 10, 25, 50mg Liều trung bình 20 – 50mg/ngày

+ Sulpiride 50mg Liều trung bình 200 – 400mg/ngày

+ Nufotin 20mg Liều trung bình 20mg/ngày

+ Fluoxetine 20mg Liều trung bình 60mg/ngày

+ Paroxetine Liều trung bình 20 – 40mg/ngày

+ Citolopram 20, 40mg Liều trung bình 10 – 60mg/ngày

+ Phenelzire ( Nardil ) Liều trung bình 15 – 90mg/ngày

+ Zoloft 25mg Liều trung bình 50 – 200mg/ngày

+ Lustral 50mg Liều trung bình 50mg/ngày

- Lưu ý Người bệnh lầm lì hay kích động, có ý tưởng tự sát, bỏ thuốc, dấu thuốc, không chịu uống thuốc thì dùng đường tiêm theo y lệnh của bác sĩ

* Điều trị giai đoạn duy trì:

Khi người bệnh được xuất viện và điều trị tại nhà, việc phòng ngừa tái phát và hỗ trợ họ tái hòa nhập cộng đồng là rất quan trọng Liều thuốc duy trì cần được sử dụng với liều thấp nhất có hiệu quả, theo chỉ định của bác sĩ.

* Điều tri giai đoạn dự phòng:

Người bệnh cần uống thuốc theo đúng chỉ định hàng ngày của bác sĩ chuyên khoa tâm thần và không nên tự ý điều chỉnh liều lượng thuốc mà không có sự tư vấn từ bác sĩ.

* Tác dụng phụ của thuốc:

Thuốc điều trị trầm cảm có thể gây ra nhiều tác dụng phụ khó chịu, khiến người bệnh cảm thấy buồn bực và dẫn đến việc bỏ thuốc hoặc không tuân thủ liệu trình điều trị Một số tác dụng phụ phổ biến bao gồm giảm khả năng tình dục, đau ngực, khó thở, cảm giác bồn chồn và thao thức Ngoài ra, người bệnh còn có thể gặp phải tình trạng khô miệng, táo bón, bí tiểu, tiêu chảy, và ở nam giới có thể gặp vấn đề xuất tinh.

2.8.2 Điều trị tâm lý – xã hội

Tư vấn tâm lý là phương pháp quan trọng trong điều trị trầm cảm, giúp người bệnh nói chuyện về tình trạng và các vấn đề liên quan với chuyên gia sức khỏe tâm thần Phương pháp này, còn được gọi là trị liệu, trị liệu nói chuyện hay trị liệu tâm lý, đóng vai trò then chốt trong việc hỗ trợ và cải thiện sức khỏe tâm lý của người bệnh.

Thông qua các buổi nói chuyện, việc tìm hiểu nguyên nhân gây trầm cảm giúp hiểu rõ hơn về tình trạng này Cần xác định và thực hiện những thay đổi tích cực trong hành vi và suy nghĩ, đồng thời cải thiện mối quan hệ và kinh nghiệm sống Việc đặt ra các mục tiêu thực tế có thể giúp lấy lại cảm giác hạnh phúc và kiểm soát cuộc sống, giảm bớt triệu chứng trầm cảm như tuyệt vọng và giận dữ Liệu pháp nhận thức hành vi, một trong những phương pháp phổ biến nhất, giúp nhận diện và thay thế niềm tin, hành vi tiêu cực bằng những hành vi tích cực, từ đó thay đổi cách suy nghĩ và ứng xử theo hướng tích cực Trị liệu tâm lý giữa cá nhân cũng là một hình thức tư vấn hiệu quả trong việc điều trị trầm cảm.

Liệu pháp cận lâm sàng, được thực hiện theo chỉ định của bác sĩ, kết hợp giữa lao động và điều trị, giúp bệnh nhân vượt qua những rào cản do bệnh tật để tái thích ứng với xã hội thông qua các kỹ thuật thủ công và liệu pháp nghệ thuật Liệu pháp nghệ thuật thu hút bệnh nhân đến với những sở thích cá nhân, cho phép họ thể hiện bản thân Cán bộ liệu pháp (Ergothérapeute - ETP) can thiệp vào các rối loạn vận động và tâm thần, tạo điều kiện cho bệnh nhân trở nên năng động hơn trong các mối quan hệ xã hội, nghề nghiệp và đời sống hàng ngày ETP giám sát hành vi, mối quan hệ và mức độ độc lập của bệnh nhân để đánh giá tình trạng bệnh tật và chất lượng cuộc sống Mối quan hệ giữa bệnh nhân và ETP là rất quan trọng, giúp xây dựng một kế hoạch sống phù hợp với nhu cầu của bệnh nhân ETP hỗ trợ bệnh nhân trong quá trình phục hồi chức năng, từ các hoạt động hàng ngày như ăn uống, vệ sinh cá nhân đến việc cải thiện các rối loạn về nhận thức và tâm lý xã hội, nhằm mục tiêu tái hòa nhập vào cộng đồng.

* Liệu pháp văn hóa giải trí

Liệu pháp văn hóa giải trí thường sử dụng nâng cao hiệu quả của liệu pháp lao động; bao gồm

+ Tổ chức các trò chơi:

- Người bệnh tham gia một cách tích cực, hoặc đóng vai trò là khán giả xem người khác chơi

- Những người bệnh ở trạng thái ức chế cần được đưa vào trò chơi của nhóm người bệnh hoạt bát

+ Tổ chức các cuộc dạo chơi:

- Tổ chức cho người bệnh đi tham quan các di tích lịch sử, khu vui chơi giải trí lớn

- Tổ chức đi thực tế để người bệnh gắn bó với đời sống, với quê hương

+ Tổ chức các cuộc trò chuyện Như tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho người bệnh

- Chọn phim ngắn , mang nhiều tính chất giải trí

- Phim có nội dung phong phú, tránh phim có nội dung xấu buồn, bế tắc

+ Tổ chức biểu diễn văn nghệ Động viên người bệnh tham gia hát, múa như ca sĩ và diễn viên

- Cần phát huy âm nhạc lên cảm xúc, tình cảm người bệnh

- Ép người bệnh tham gia các điệu múa tập thể trực tiếp tạo nên những vận động tích cực cho người bệnh

- Hát karaoke, nghe nhạc nhẹ cũng là hình thức có tác dụng điều trị rộng rãi nhất cho người bệnh

Hướng dẫn người bệnh tham gia thể dục, thể thao không chỉ giúp phục hồi thể lực mà còn nâng cao tâm lý hứng thú Các hoạt động này khơi dậy sự tập trung, tác động trực tiếp đến cơ quan vận động và cải thiện lưu thông khí huyết Một số hình thức thể dục hiệu quả bao gồm đi bộ, các bài tập thể dục buổi sáng, thể dục nhịp điệu, đá bóng và đạp xe đạp.

Chăm sóc người bệnh trầm cảm

Thời gian điều trị bệnh trầm cảm thường kéo dài từ 6 tháng đến hơn một năm Người chăm sóc cần thể hiện sự cảm thông và quan tâm đặc biệt để phát hiện sớm các hành vi nguy hiểm của bệnh nhân, như ý định tự sát Điều này cần được thực hiện một cách tế nhị và gần gũi, giúp bệnh nhân cảm thấy được hỗ trợ mà không bị kỳ thị.

Người bệnh trầm cảm cần sự đồng cảm và hỗ trợ từ nhân viên y tế cùng gia đình Cần hiểu rằng trầm cảm là một bệnh lý thực sự, không phải là lười biếng hay giả vờ Trong quá trình điều trị, bệnh nhân thường phàn nàn về các triệu chứng cơ thể như mất ngủ, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đánh trống ngực và chóng mặt.

Người bệnh thường phàn nàn về việc giảm trí nhớ, khó tập trung, và cảm giác bi quan, chán nản Những phàn nàn này gây khó chịu cho nhân viên y tế và người nhà, dẫn đến việc họ có thể cáu gắt hoặc chế giễu, cho rằng người bệnh giả vờ hoặc thiếu ý chí phấn đấu Hậu quả là người bệnh cảm thấy mất chỗ dựa tinh thần, không dám chia sẻ về bệnh tật của mình, sống khép kín và ngại tiếp xúc với mọi người Điều này tạo ra cảm giác cô đơn, không chỉ trong môi trường điều trị mà còn ngay trong chính gia đình của họ.

Chăm sóc người bệnh tại gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc giúp họ hòa nhập cộng đồng và phục hồi chức năng tâm lý xã hội.

- Cần tạo cho người bệnh có thái độ lạc quan trong cuộc sống

- Ăn uống điều độ với nhiều thức ăn có hàm lượng canxi và acidamin cao như:

Cá, tôm, thịt bò, thịt gà, đậu tương…

- Theo dõi các triệu chứng của người bệnh bằng cách trả lời câu hỏi:

+ Người bệnh ngủ, ăn uống như thế nào?

+ Đỡ buồn chán không? Có bi quan chán nản không?

+ Đã quan tâm đến thú vui, sở thích trước kia chưa?

+ Có chủ động nói chuyện trình bày những vấn đề về sức khỏe của bản thân không ?

+ Đã quan tâm đến sức khỏe nghề nghiệp chưa?

+ Muốn tham gia các hoạt động xã hội chưa?

Theo dõi ý tưởng và hành vi tự sát là rất quan trọng vì đây là triệu chứng nghiêm trọng của bệnh Khi phát hiện những dấu hiệu này, cần phải theo dõi chặt chẽ và đưa người bệnh đến bệnh viện ngay lập tức để được can thiệp kịp thời.

Người bệnh cần uống thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ chuyên khoa tâm thần để đảm bảo hiệu quả điều trị Việc tự ý điều chỉnh liều thuốc mà không có sự đồng ý của bác sĩ là điều không nên làm.

Người nhà cần tránh thái độ kỳ thị và coi thường người bệnh, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để họ có thể tham gia vào các hoạt động và bày tỏ ý kiến của mình.

Người bệnh khi được làm việc sẽ cảm thấy có ích và thỏa mãn vì hoàn thành nhiệm vụ, từ đó tăng cường sự tự tin vào khả năng của bản thân Họ cũng góp phần tích cực vào cuộc sống xã hội.

Chế độ dĩnh dưỡng khi chăm sóc người bệnh trầm cảm

Trong chế độ ăn hàng ngày, người bệnh nên tiêu thụ thực phẩm giàu canxi và axit amin như cá, tôm, thịt bò và các sản phẩm từ đậu nành Đồng thời, cần tránh xa các loại nước chứa chất kích thích như bia, chè và cà phê để đảm bảo sức khỏe tốt nhất.

- Lưu ý rằng thực phẩm trong các bữa ăn hàng ngày nên theo chỉ dẫn của bác sỹ vì thuốc trị trầm cảm có thể kiêng một vài thức ăn

Người bệnh trầm cảm sau khi ra viện thường trở về sống với gia đình, vì vậy việc gia đình nắm vững kiến thức về bệnh và cách chăm sóc là rất quan trọng để hỗ trợ người bệnh tái hòa nhập cộng đồng hiệu quả Gia đình cần đưa người bệnh đến bệnh viện hoặc phòng khám theo lịch hẹn của bác sĩ điều trị, vì thông thường, người bệnh trầm cảm cần khám định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý tùy thuộc vào tình trạng bệnh.

Cơ sở thực tiễn

Đối với người nhà người bệnh

Nhiều gia đình có người bệnh thường rơi vào tình trạng chán nản và mệt mỏi, dẫn đến việc thiếu sự quan tâm cần thiết đối với họ Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nhiều gia đình không đưa người bệnh đi viện hoặc nếu có, thì cũng để họ lại bệnh viện mà không chăm sóc.

Nhiều gia đình người bệnh khi lần đầu đến viện thường thiếu kiến thức về bệnh tật và cách chăm sóc người bệnh Họ thường nghĩ rằng bệnh tật là do ma quỷ gây ra, dẫn đến việc đưa người bệnh đi cúng bái tại các nơi thờ tự Chỉ khi kinh tế kiệt quệ và tình trạng bệnh không cải thiện, họ mới quyết định đưa người bệnh đến bệnh viện để khám và điều trị.

Chế độ lao động và dinh dưỡng của người bệnh trầm cảm cần được gia đình chú trọng hơn, bao gồm việc cung cấp thức ăn dễ tiêu, giàu năng lượng và nhiều rau xanh phù hợp với khẩu vị của người bệnh Ngoài ra, khuyến khích người bệnh ngồi dậy, đứng lên, đi lại nhẹ nhàng trong phòng, tham gia vào các hoạt động như nhặt rau, nấu cơm, quét nhà và chơi thể thao mà họ từng yêu thích sẽ giúp cải thiện tâm trạng và sức khỏe của họ.

Việc không động viên và giao cho người bệnh những công việc nhẹ nhàng phù hợp với khả năng lao động của họ có thể dẫn đến áp lực quá mức Điều này khiến người bệnh không hoàn thành nhiệm vụ, từ đó tạo ra cảm giác tự ti, bi quan và chán nản.

Giải pháp, kiến nghị, đề xuất nhằm cải thiện chăm sóc người bệnh trầm cảm

Đối với nhân viên y tế

Khi người bệnh nằm điều trị tại Bệnh viện thì :

- Điều dưỡng viên phụ trách tìm hiểu người bệnh để lên kế hoạch chăm sóc người cho phù hợp

- Động viên, quan tâm và giúp đỡ người bệnh bị trầm cảm

- Giáo dục sức khỏe, hướng dẫn giải thích cho người bệnh người nhà người bệnh hiểu rõ thế nào là bệnh trầm cảm không mê tín dị đoan

- Khi người bệnh chống đối dùng thuốc thì phải giải thích tại sao phải uống thuốc, và cách uống thuốc như thế nào

- Sau khi dùng thuốc, hướng dẫn tác dụng phụ của thuốc

- Giải thích cho người nhà biết cách ứng xử với những biểu hiện bất thường của bệnh cũng như tác dụng phụ của thuốc

Phục hồi chức năng là bước quan trọng sau khi người bệnh đã điều trị ổn định Người bệnh cần được hướng dẫn cách chăm sóc bản thân, bao gồm việc tự tắm giặt và vệ sinh cá nhân trước khi đi ngủ cũng như sau khi thức dậy Ngoài ra, việc sắp xếp không gian sống gọn gàng, ngăn nắp và sạch sẽ cũng rất cần thiết để hỗ trợ quá trình phục hồi.

Các liệu pháp tâm lý - xã hội tập trung vào việc cải thiện trạng thái tâm lý của bệnh nhân, nhằm mang lại cảm giác thoải mái và vui vẻ Những liệu pháp này giúp nâng cao sự tự tin và hình thành sự lạc quan, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều trị hiệu quả.

Giáo dục giúp bệnh nhân nhận thức rõ về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ, bao gồm việc yêu cầu hỗ trợ khi cần thiết và tham gia tích cực vào các hoạt động cộng đồng.

Với mạng lưới y tế cấp cơ sở

- Điều tra dịch tễ học trầm cảm cấp cơ sở

- Có lịch thăm khám bệnh cho người bệnh trầm cảm tại gia đình nhằm nắm rõ hoàn cảnh kinh tế và yếu tố ảnh hưởng đến bệnh trầm cảm

- Khám bệnh định kỳ hàng tháng, hàng quý cho người bệnh

- Tích cực vận động người bệnh tham gia bảo hiểm y tế và điều trị y tế

Liên hệ với các tổ chức địa phương để hỗ trợ người bệnh trầm cảm tái hòa nhập cộng đồng Hãy mời họ tham gia vào các hoạt động hàng ngày của bạn và mọi người, giúp họ cảm thấy được kết nối và hỗ trợ.

Liên lạc thường xuyên với người thân của bệnh nhân trầm cảm là rất quan trọng, giúp gia đình họ cùng nhau vượt qua những khó khăn và cung cấp sự hỗ trợ cần thiết cho người bệnh.

Tổ chức lớp tập huấn cho gia đình người bệnh giúp họ nắm vững kiến thức về bệnh, trang bị kỹ năng chăm sóc và phát hiện triệu chứng cấp cứu, từ đó kịp thời đưa người bệnh đi điều trị.

- Đối tượng học viên trong lớp là các thành viên trong gia đình người bệnh bị trầm cảm

- Thời gian đào tạo bố trí phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ, tốt nhất là bố trí thời gian ngoài giờ.

Đối với gia đình người bệnh

Giáo dục sức khỏe cho gia đình người bệnh là rất quan trọng, vì việc chăm sóc người bệnh trầm cảm không chỉ dựa vào thuốc mà còn cần sự quan tâm và chăm sóc từ gia đình Đặc biệt, chăm sóc tâm lý là cần thiết để giúp người bệnh tái hòa nhập với cuộc sống và xã hội.

Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và động viên người bệnh, giúp họ vượt qua những mặc cảm Sự gần gũi và cảm thông từ gia đình tạo điều kiện cho người bệnh tham gia vào các hoạt động lao động tập thể, học nghề và thực hiện các công việc nội trợ như nấu ăn và dọn dẹp nhà cửa.

- Gia đình người bệnh cần nắm rõ được những nguy cơ làm cho bệnh ngày càng nặng lên như tâm trạng lo lắng,buồn chán, phiền muộn…

- Khi người bệnh rơi vào trạng thái trầm buồn, sa sút thì gia đình cần vệ sinh cho người bệnh khi họ không thể tự làm được

Khi người bệnh đã ổn định và trở về cộng đồng, gia đình cần khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động nhẹ nhàng phù hợp với khả năng của mình Việc này giúp người bệnh tránh rơi vào trạng thái thụ động và duy trì tinh thần tích cực, nhưng cũng cần lưu ý không ép buộc họ làm việc quá sức.

- Bố trí thời gian tham gia đầy đủ các lớp tập huấn kiến thức về bệnh và chăm sóc người bệnh trầm cảm

- Quản lý thuốc chặt chẽ và cho người bệnh uống thuốc đều hàng ngày theo đơn và hướng dẫn của thầy thuốc

- Phát hiện kịp thời các triệu chứng của bệnh hay tác dụng phụ của thuốc, để kịp thời báo cáo ngay cho bác sĩ chuyên khoa tâm thần

- Tuyệt đối gia đình không tỏ thái độ lạnh nhạt, thờ ơ, hành hạ, ngược đãi, khinh rẻ, mạt sát người bệnh

Gia đình không nên theo đuổi mê tín dị đoan hay thực hiện các nghi lễ cúng bái cho người bệnh Khi phát hiện các triệu chứng bệnh lý, cần nhanh chóng đưa người bệnh đến cơ sở y tế chuyên khoa tâm thần để được khám và điều trị kịp thời.

5.4 Đối với bệnh viện tâm thần trung ương 1

Cần tăng cường công tác truyền thông qua loa đài, tờ rơi và áp phích tại các địa phương, nhằm nâng cao nhận thức của người dân về tác hại của bệnh trầm cảm Việc này sẽ giúp họ hiểu rõ hơn về bệnh và khuyến khích đưa người bệnh đi khám bác sĩ chuyên khoa tâm thần kịp thời.

Đào tạo liên tục và đào tạo lại hàng năm cho các bác sĩ trẻ và điều dưỡng viên tại các bệnh viện tâm thần là rất cần thiết Điều này giúp họ cập nhật kiến thức mới và các phương pháp điều trị tiên tiến, từ đó nâng cao hiệu quả trong việc chăm sóc và điều trị cho người bệnh.

Các bệnh viện tâm thần trung ương và tuyến tỉnh nên thành lập khoa điều trị trầm cảm để nâng cao chuyên môn và cải thiện hiệu quả điều trị cho bệnh nhân.

1 Trần Hữu Bình (2003), "Nghiên cứu rối loạn trầm cảm ở những người có bệnh lý dạ dày - ruột thực thể và chức năng", Luận án tiến sỹ y học, Trường Đại học Y Hà Nội, tr 22-28

2 Trần Văn Cường (2002), Điều tra dịch tễ lâm sàng một số bênh tâm thần thường gặp ở các vùng kinh tế - xã hội khác nhau ở nước ta hiện nay Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1, tr 42- 43

3 nhân Tâm thần và phòng chống tự tử, Tr 135-144

4 Vũ Minh Hạnh (2008), "Nghiên cứu trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực", Luận văn thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội, tr 40-60

5 Bùi Quang Huy (1999) "Studiul trancultural al suicidului", Teza de doctorat

6 Bùi Quang Huy (2008), "Trầm cảm: Nhà xuất bản y học, Hà Nội tr.19-56

7 Natgiarop R.A., Xnhegiơnepxki A.V (1980), "Bệnh loạn thần hưng trầm cảm, hội chứng trầm cảm", Tâm thần học, NXB Y học, Hà Nội, tr 105-109, 311-318

8 Trần Viết Nghị, Võ Văn Bản (1994), “Hình ảnh lâm sàng của loạn thần do rượu tại Viện sức khỏe tâm thần”, Kỷ yếu công trình Hội nghị nghiên cứu lâm sàng dịch tễ lạm dụng rượu, tr 102-107

9 Tô Thanh Phương (2005), "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng rối loạn trầm cảm nặng và điều trị bằng amitriptylin phối hợp với thuốc chống loạn thần", Luận án tiến sỹ y học, Học viện Quân y, Hà Nội, Tr 100-101

10 Tổ chức y tế Thế giới (1992), "Bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi", Tổ chức y tế Thế giới, Geneva

11 Nguyễn Viết Thiêm, Lã Thị Bưởi (2001), "Bệnh học tâm thần", Tập bài giảng dành cho sau đại hoc, Bộ môn Tâm thần Trường Đại học Y Hà Nội tr 59-63

12 Nguyễn Viết Thiêm, Nguyễn Kim Việt (2003), “Sinh hoá não các chất dẫn truyền thần kinh điều trị trong Tâm thần học”, Tài liệu giảng dạy sau đại học, Bộ môn Tâm thần học, Trường Đại học Y Hà Nội, tr 61-69

13 TQ (2007), "Phụ nữ Trung Quốc tự sát nhiều hơn nam giới", Thông tin cập nhật ngày 11/09/2007, http:// www.toantusat.google.com.vn

14 Nguyễn Kim Việt (1995), "Bước đầu đánh giá việc sử dụng thuốc chống trầm cảm ở khoa nữ, Viện sức khoẻ Tâm thần", Luận văn Bác sĩ chuyên khoa cấp II, Trường Đại học y Hà Nội

15 Nguyễn Kim Việt (2003), “Liệu pháp nhận thức”, Các rối loạn liên quan đến stress và điều trị học trong Tâm thần, Tài liệu giảng dạy sau đại học, Bộ mônTâm thần học Trường Đại học y Hà Nội, tr 115-120

16 American Psychiatric Association (2004), “Documentation and rick management”, Practive Guidelines for the treatment of Psychiatric

17 Gelder M., Gath D., Mayor R (1988) “Affective disorders”, Oxford texbook of psychiatry, (Second edition), p 268-323

18 Martin Stefan, Mike Travis, Robin M Murray (2002), "An Atlas of schizophrenia", The Parthenon Publishing Group, p 40-53

19 Miller F, Chabrier L.A.(1987), " The relation of delusional content in psychotic depression to life-threatening behavior, Suicide Life Threat Behav", Spring;17(1):13- 17

20 Sadock B J , Sadock V A (2004), "Concise textbook of clinical psychiatry", (Second edition) Washington DC

21 Sadock B J., Sadock V A (2007), “Mood Disorders”, Synopsis of Psychiatry, (10th Edition), p 468-483 Washington DC.

Ngày đăng: 03/09/2021, 10:25

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w