CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lýluận
1.1.1 Khái quát về công tác chăm sóc của điều dưỡng
1.1.1.1 Định nghĩa điều dưỡng Định nghĩa điều dưỡng: Điều dưỡng là một nghệ thuật sử dụng môi trường của người bệnh để hỗ trợ sự phục hồi của họ (Florence Nightingale, năm 1860) 1.1.1.2 Nhiệm vụ của người điều dưỡng
Theo Thông tư 07/2011/TT-BYT ban hành ngày 26/11/2011, người điều dưỡng có 12 nhiệm vụ chính trong công tác chăm sóc bệnh nhân tại các bệnh viện.
- Tư vấn, hướng dẫn giáo dục sức khỏe
- Chăm sóc vệ sinh cá nhân
- Chăm sóc phục hồi chức năng
- Chăm sóc người bệnh có chỉ định phẫu thuật, thủ thuật
- Dùng thuốc và theo dõi dùng thuốc cho người bệnh
- Chăm sóc người bệnh giai đoạn hấp hối và người bệnh tử vong
- Thực hiện các kỹ thuật điều dưỡng
- Theo dõi, đánh giá người bệnh
- Bảo đảm an toàn và phòng ngừa sai sót chuyên môn kỹ thuật trong chăm sóc người bệnh
- Ghi chép hồ sơ bệnh án
* Nguyên tắc thực hành điều dưỡng
Trong công tác chăm sóc người bệnh, điều dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu cơ bản về thể chất và tinh thần của bệnh nhân Theo học thuyết của Virginia Henderson, có 14 nhu cầu cơ bản mà người bệnh cần được hỗ trợ, và nguyên tắc trong thực hành điều dưỡng là giúp bệnh nhân thỏa mãn những nhu cầu này.
- Hỗ trợ NB trong hô hấp
- Hỗ trợ người bệnh trong ăn uống
- Hỗ trợ người bệnh trong bài tiết
- Hỗ trợ người bệnh trong tư thế, vận động: nằm, ngồi, đi đứng 4
- Hỗ trợ người bệnh trong ngủ và nghỉ ngơi
- Hỗ trợ người bệnh trong thay và mặc quân áo
- Hỗ trợ người bệnh trong duy trì thân nhiệt bình thường
- Hỗ trợ người bệnh vệ sinh cá nhân
- Hỗ trợ người bệnh tránh những nguy hiểm
- Hỗ trợ tinh thần người bệnh
- Hỗ trợ người bệnh lao động, giải trí, rèn luyện thể lực
- Hỗ trợ người bệnh trong giao tiếp
- Tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo
- Giúp NB có kiến thức y học thông tường liên quan đến bệnh tật của họ 1.1.2 Khái quát về mổ lấy thai
Mổ lấy thai là một phẫu thuật nhằm lấy thai và các phần phụ của thai ra khỏi buồng tử cung thông qua một vết rạch ở thành bụng và thành tử cung Định nghĩa này không bao gồm trường hợp mở bụng lấy thai khi có thai ngoài tử cung hoặc khi tử cung bị vỡ và thai đã nằm trong ổ bụng.
1.1.2.2 Các chỉ định mổ lấy thai
* Chỉ định mổ lấy thai chủ động
Khung chậu hẹp toàn diện đặc trưng bởi việc giảm đều các đường kính ở cả eo trên và eo dưới, với đường kính nhô - hậu vệ nhỏ hơn 8,5 cm Trong khi đó, khung chậu méo thể hiện sự không cân đối khi đo hình trám Michaelis.
Khung chậu hình phễu có đặc điểm là rộng ở phần eo trên và hẹp ở phần eo dưới Để chẩn đoán, cần đo đường kính lưỡng ụ ngồi; nếu đường kính này nhỏ hơn 9cm, nên xem xét chỉ định MLT chủ động.
- Đường xuống của thai bị cản trở:
+ U tiền đạo là khối u nằm trong tiểu khung làm cho ngôi không lọt hoặc không xuống được;
+ Rau tiền đạo trung tâm, bán trung tâm
- Tử cung có sẹo mổ cũ:
+ Sẹo mổ ở thân TC trước khi có thai lần này như: sẹo mổ bóc nhân xơ tử cung, sẹo mổ tạo hình tử cung, ;
+ Sẹo mổ cũ và ngôi thai bất thường;
+ Sẹo mổ cũ và thai to [6]
- Nguyên nhân về phía mẹ:
+ Các bệnh tim ở giai đoạn mất bù trừ;
+ Bệnh tăng huyết áp, tai biến mạch não, tiền sản giật và sản giật;
Âm đạo chít hẹp có thể do bẩm sinh hoặc do các tổn thương trong quá trình sinh nở, đặc biệt khi không được khâu phục hồi đúng cách Ngoài ra, những ca phẫu thuật liên quan đến âm đạo như mổ rò bàng quang - âm đạo hay rò trực tràng - âm đạo cũng có thể dẫn đến tình trạng này.
+ Bảo tồn kết quả chỉnh hình phụ khoa: tiền sử mổ treo tử cung do sa sinh dục, sa bàng quang, làm lại âm đạo - tầng sinh môn;
+ Các dị dạng sinh dục: TC đôi, TC hai sừng, [6]
- Nguyên nhân về phía thai và phần phụ:
+ Thai suy mãn tính, hết ối,
+ Thai to, không tương xứng với khung chậu, không có khả năng lọt qua eo trên phải MLT [6]
* Các chỉ định mổ lấy thai trong quá trình chuyển dạ
Rau tiền đạo là loại rau nằm ở vị trí bán trung tâm, có thể gây ra tình trạng chảy máu sau khi bấm ối Ngoài ra, rau tiền đạo còn có thể phối hợp với ngôi thai bất thường, dẫn đến những biến chứng trong quá trình sinh nở.
+ Rau bong non thể trung bình và thể nặng: đối với rau bong non thể trung bình và thể nặng là phải mổ cấp cứu ngay
Dọa vỡ tử cung có thể xảy ra trong những trường hợp chuyển dạ kéo dài, ngôi thai chưa lọt hoặc khi sử dụng oxytocin không đúng chỉ định hoặc quá liều Tình trạng này làm tăng nguy cơ phình to đoạn dưới tử cung, dẫn đến vỡ tử cung Đối với thai nhi bình thường hoặc thai đã suy nhưng không thể lấy ra qua đường âm đạo, phương pháp mổ lấy thai sẽ được áp dụng.
Vỡ tử cung là tình trạng nguy hiểm thường gặp ở những sản phụ có sẹo mổ cũ, đặc biệt là ở thân tử cung Nguyên nhân vỡ tử cung trong chuyển dạ thường do bất tương xứng giữa thai nhi và khung chậu, sản phụ đã sinh nhiều lần, có vết mổ cũ hoặc thai nhi ở ngôi bất thường Khi xảy ra vỡ tử cung, việc can thiệp y tế khẩn cấp là rất cần thiết để bảo vệ tính mạng của cả mẹ và thai nhi.
+ Sa dây rau: Sa dây rau là tối cấp cứu sản khoa, cần lấy thai ra ngay khi còn tim thai
+ Nếu đủ điều kiện thì lấy thai ra bằng forceps;
+ Nếu không đủ điều kiện đặt forceps phải MLT ngay
- Chỉ định về phía thai:
+ Thai to: thai to đều trọng lượng thai > 3.500g không tương xứng với khung chậu, loại trừ thai to một phần
Các ngôi bất thường trong thai kỳ bao gồm ngôi vai, ngôi trán, ngôi mặt kiểu cằm sau và ngôi mông, thường đi kèm với trọng lượng thai nhi lớn, bất thường xương chậu, hoặc tử cung có sẹo mổ cũ.
Thai quá ngày sinh cần được đình chỉ thai nghén nếu chẩn đoán xác định thai già tháng Trong trường hợp lượng nước ối còn nhiều, có thể kích thích chuyển dạ bằng cách truyền oxytocin qua đường tĩnh mạch và theo dõi quá trình chuyển dạ bằng máy monitoring Nếu phát hiện bất thường, cần thực hiện mổ lấy thai (MLT) Ngược lại, nếu nước ối không còn hoặc có nước ối xanh bẩn, đây là dấu hiệu của suy thai hoặc thai kém phát triển, cũng cần tiến hành mổ lấy thai.
Đa thai là tình trạng mang thai nhiều hơn một thai, trong đó có thể xảy ra hiện tượng song thai với hai ngôi thai chèn nhau, khiến thai thứ nhất không thể lọt ra Trong trường hợp song thai, nếu thai thứ nhất ở ngôi mông và thai thứ hai ở ngôi đầu, có thể xảy ra tình huống thai thứ hai mắc vào đầu thai thứ nhất khi sinh Đặc biệt, khi có từ ba thai trở lên, tình trạng này có thể gây ra thêm khó khăn trong quá trình sinh nở.
- Chỉ định về phía mẹ:
Tử cung có sẹo mổ cũ dưới 24 tháng, bao gồm sẹo mổ thân tử cung, có thể gây ra những khó khăn trong quá trình sinh nở, đặc biệt khi kết hợp với các nguyên nhân khác.
+ Con so lớn tuổi: thường là những người con so > 35 tuổi trong quá trình chuyển dạ có thêm một vài dấu hiệu bất thường cần phải MLT
Tình trạng sức khỏe của mẹ có thể ảnh hưởng đến thai kỳ, bao gồm các bệnh lý toàn thân như bệnh tim mạch, thiếu máu nặng và tiểu đường không được kiểm soát Ngoài ra, các bệnh lý tại chỗ như dị dạng sinh dục, rò niệu dục đã mổ, herpes sinh dục và papillome sinh dục nặng cũng cần được xem xét để đảm bảo an toàn cho cả mẹ và thai nhi.
- Chỉ định bất thường xảy ra khi theo dõi chuyển dạ:
+ Đẻ khó do cổ tử cung không tiến triển; CTC có sẹo cũ xấu; Khoét chóp hay cắt cụt CTC
+ Đẻ khó do nguyên nhân cơ học: bất tương xứng giữa thai nhi và khung chậu
+ Đẻ khó do nguyên nhân động lực: Do rối loạn cơn co TC không điều chỉnh được bằng thuốc
+ Thai suy cấp trong chuyển dạ: Phải MLT ngay nếu chưa đủ điều kiện để lấy thai ra ngay bằng thủ thuật qua đường âm đạo [6]
Cơ sở thựctiễn
1.2.1 Các nghiên cứu về nhiễm khuẩn vết mổ trên thế giới
Trước thế kỷ XIX, khi nguyên nhân gây nhiễm khuẩn sau mổ đẻ chưa được xác định và chưa có kháng sinh, biến chứng này gây ra tỷ lệ tử vong rất cao, lên tới 93% ở Anh (Ratford Thomas, 1838-1849) và 100% ở Áo (Spathe, 1837) Tuy nhiên, vào năm 1857, Tarnier và Semmelweiss đã nhận thấy sốt hậu sản có tính lây truyền, từ đó đề xuất các biện pháp vệ sinh như rửa sạch dụng cụ, tăng cường vệ sinh phòng đẻ và cách ly thai phụ, dẫn đến sự giảm rõ rệt tỷ lệ tử vong.
Vào năm 1865, Pasteur phát hiện loại liên cầu khuẩn gây nhiễm khuẩn hậu sản, từ đó đề ra phương pháp khử khuẩn và vô khuẩn, giúp giảm tỷ lệ tử vong từ 9,5% xuống còn 1% và 0,3% Năm 1929, Fleming phát minh ra penicillin, kháng sinh đầu tiên, và đến năm 1935, sulfonamid được áp dụng để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn Những tiến bộ trong gây mê hồi sức vào thập niên 1950 và cải tiến kỹ thuật khâu đã nâng cao độ an toàn cho phẫu thuật mổ lấy thai Nghiên cứu về nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai trải qua bốn giai đoạn lịch sử: trước thế kỷ XIX với tỷ lệ tử vong cao, thời kỳ dự phòng và cách ly thai phụ do Tarnier và Semmelweiss, thời kỳ vi khuẩn khi Pasteur phân lập liên cầu khuẩn và Lister đề xuất phương pháp khử khuẩn, và cuối cùng là thời kỳ kháng sinh với sự ra đời của penicillin và các loại kháng sinh khác như ampicillin, gentamycin, metronidazol, giúp giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn sau mổ đẻ một cách rõ rệt.
Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) là nguyên nhân chính gây ra tình trạng bệnh tật gia tăng và tử vong ở bệnh nhân phẫu thuật trên toàn thế giới NKVM kéo dài thời gian nằm viện, làm tăng gánh nặng tài chính cho bệnh nhân và hệ thống y tế quốc gia Tại Hoa Kỳ, NKVM là loại nhiễm khuẩn bệnh viện phổ biến, đứng thứ hai sau nhiễm khuẩn tiết niệu, với tỷ lệ chiếm 24% trong tổng số nhiễm khuẩn bệnh viện, ảnh hưởng đến 2% đến 5% trong số 16 triệu ca phẫu thuật hàng năm Tỷ lệ NKVM/100 ca phẫu thuật là 2,8 Nghiên cứu tại một số quốc gia Châu Âu và Bắc Mỹ cho thấy tỷ lệ NKVM dao động từ 0,5% đến 15%, tùy thuộc vào loại phẫu thuật và tình trạng bệnh nhân Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ NKVM cao hơn đáng kể so với các nước châu Âu và Hoa Kỳ, với tỷ lệ NKVM tại Brazil vào năm 1994 là 8,8% và giảm xuống còn 3,3% vào năm sau đó.
Năm 2003, tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) ở một số bệnh viện khu vực Châu Á như Ấn Độ và Thái Lan dao động từ 8,8% đến 24% ở bệnh nhân sau phẫu thuật Đặc biệt, tỷ lệ NKVM tại các nước Châu Phi rất cao, với Tanzania ghi nhận 24% và Ethiopia là 19%.
1.2.2 Một số nghiên cứu về nhiễm khuẩn vết mổ tại Việt Nam
Tại Việt Nam, thực hành chống nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) đã có từ lâu nhưng chưa được hệ thống hóa thành một lĩnh vực chuyên môn Kể từ năm 1997, Bộ Y tế đã chính thức ban hành quy chế chống nhiễm khuẩn trong tổ chức bệnh viện, từ đó, các bệnh viện bắt đầu chú trọng hơn đến việc thực hiện các biện pháp chống nhiễm khuẩn, bao gồm cả nhiễm khuẩn vết mổ Ngoài quy chế này, việc xử lý rác thải y tế cũng trở thành một phần quan trọng trong công tác phòng chống nhiễm khuẩn.
Bộ Y tế đã liên tục ban hành các quyết định quan trọng liên quan đến thực hành chống nhiễm khuẩn, bao gồm Quy chế quản lý chất thải (1999) và các tiêu chí về thực hành, giám sát, huấn luyện kiểm soát nhiễm khuẩn trong bộ Tiêu chí đánh giá chất lượng Bệnh viện hàng năm Đặc biệt, vào năm 2012, Bộ Y tế đã phát hành Quyết định số 3671/QĐ-BYT hướng dẫn phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ, tiếp theo là Quyết định 3916/QĐ-BYT ngày 28 tháng 8, nhằm nâng cao chất lượng và an toàn trong công tác y tế.
Hướng dẫn kiểm soát nhiễm khuẩn tại khoa Gây mê hồi sức đã được ban hành vào năm 2017, tuy nhiên, tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện vẫn đang là thách thức lớn đối với hệ thống y tế Việt Nam, bất chấp các quy chế hướng dẫn cụ thể đã được thiết lập.
Nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai không chỉ phụ thuộc vào quy trình phẫu thuật mà còn liên quan mật thiết đến tình trạng sức khỏe của người bệnh Các yếu tố như tình trạng thai nghén, dinh dưỡng, cơ địa và bệnh lý kèm theo đều là những nguy cơ tiềm ẩn Nghiên cứu của Vũ Duy Minh năm 2009 tại bệnh viện Từ Dũ cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai là 2,1%, với các yếu tố liên quan như vỡ ối sớm, thai nghén nguy cơ và phẫu thuật kết hợp Theo thống kê năm 1997 của Trần Thị Vinh, tỷ lệ mổ lấy thai tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng là 37% và tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương là 36%, cho thấy xu hướng gia tăng trong các ca mổ lấy thai.
1.2.3.Chăm sóc nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai
Khi chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ thành bụng, cần thực hiện mở vết mổ để kiểm tra, dẫn lưu, rửa sạch và cắt lọc mô hoại tử, sau đó để hở Nếu có nghi ngờ về sự phá vỡ của cân, nên đặt dẫn lưu trong phòng mổ Sau khi làm sạch nhiễm trùng và xác định mô hạt, vết thương có thể được đóng lại Điều trị kháng sinh là cần thiết đối với bệnh nhân có triệu chứng toàn thân hoặc các bệnh lý đi kèm như suy giảm miễn dịch hoặc tiểu đường.
Rửa và dẫn lưu vết thương là bước quan trọng trong quá trình hồi phục Sử dụng dung dịch nước muối để rửa vết mổ giúp loại bỏ mô chết, dịch tiết và máu cục Nước muối là dung dịch đẳng trương, do đó không làm ảnh hưởng đến quá trình lành vết thương.
Cắt lọc vết mổ là quá trình sử dụng kẹp, dao mổ hoặc kéo để loại bỏ dị vật và mô yếu, nhằm tăng tốc độ lành vết thương và ngăn ngừa nhiễm trùng Quá trình này kết thúc khi tất cả mô hoại tử đã được loại bỏ và mô hạt bắt đầu xuất hiện.
Những vết thương sâu cần được đắp gạc ẩm bằng dung dịch nước muối sinh lý, sau đó phủ lớp gạc khô bên ngoài Khi thay gạc, nên thực hiện trước khi gạc khô hoàn toàn để loại bỏ mô hoại tử Cần thay băng 3 lần mỗi ngày cho đến khi bề mặt vết mổ được che phủ chủ yếu bởi mô hạt.
Băng vết mổ giữ ẩm và ấm, giúp quá trình lành vết thương diễn ra thuận lợi Khi mô hoại tử được loại bỏ và vết mổ bắt đầu tạo hạt, nên thay băng một lần mỗi ngày hoặc cách ngày để không làm gián đoạn quá trình hồi phục.
Nhiễm khuẩn vết mổ do viêm mô tế bào có thể được điều trị bằng kháng sinh mà không cần dẫn lưu Các chất sát khuẩn tại chỗ như povidine, NaCl và nước oxy già không được khuyến nghị vì chúng gây độc cho nguyên bào sợi, làm cản trở quá trình lành vết mổ.
Đối với nhiễm khuẩn nặng, điều trị kháng sinh phổ rộng được khuyến cáo, đặc biệt nhằm vào các cầu khuẩn Gram dương trên da và trong phòng mổ Việc điều trị kháng sinh cuối cùng sẽ dựa trên triệu chứng lâm sàng và kết quả cấy vi khuẩn Tuy nhiên, cấy gạc từ vết mổ thường phát hiện nhiều loại vi khuẩn, gây khó khăn trong việc xác định nguyên nhân thực sự của nhiễm trùng.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Giới thiệu về bệnh viện phụ sản Hà Nội
Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, thành lập theo Quyết định số 4951/QĐTC ngày 21/11/1979, tọa lạc tại đường Đê La Thành – Giảng Võ – Ba Đình, đã trải qua 40 năm phát triển từ một nhà hộ sinh nhỏ với 100 giường lên gần 600 giường trong 4 tòa nhà Hiện tại, bệnh viện có 12 phòng ban chức năng và 24 khoa phòng, trong đó có 3 khoa cận lâm sàng, với đội ngũ lãnh đạo gồm 1 giám đốc, 3 phó giám đốc và 1 chuyên gia Năm 2017, bệnh viện đã sáp nhập thêm 2 cơ sở mới, nâng cao khả năng phục vụ Là bệnh viện chuyên khoa hạng I của Hà Nội, bệnh viện Phụ Sản Hà Nội thực hiện 7 nhiệm vụ chính phục vụ sức khỏe phụ nữ và trẻ em.
Khám chữa bệnh Sản phụ khoa và công tác kế hoạch hóa gia đình
Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội hiện có tổng cộng 1.613 cán bộ công nhân viên và người lao động, trong đó 423 người là cán bộ viên chức, chiếm 26,22% Số lượng hợp đồng ngắn hạn là 14 người, chiếm 0,87%, hợp đồng dài hạn có 8 người, chiếm 0,50%, và số lượng hợp đồng do đơn vị thỏa thuận lên tới 1.168 người, chiếm 72,41%.
Bệnh viện Phụ sản Hà Nội không chỉ là cơ sở hàng đầu về chuyên ngành phụ sản mà còn là trung tâm đào tạo đại học và sau đại học, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo tuyến và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực này tại Hà Nội Với bề dày truyền thống, bệnh viện sở hữu đội ngũ bác sĩ được đào tạo bài bản trong nước và nâng cao tay nghề tại các nước tiên tiến, có chuyên môn cao và tâm huyết với nghề.
Hệ thống trang thiết bị y tế của bệnh viện được đầu tư hiện đại và chuyên sâu, cập nhật theo xu hướng điều trị tiên tiến nhất trên thế giới Các khoa, phòng và trung tâm của bệnh viện được trang bị đầy đủ các máy xét nghiệm sinh hóa, huyết học và miễn dịch, đảm bảo chất lượng khám chữa bệnh tốt nhất cho bệnh nhân.
Hình 2.1 Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
* Đặc điểm tình hình khoa Sản nhiễm trùng C3:
Khoa Sản nhiễm trùng C3 là một khoa lâm sàng quan trọng tại Bệnh viện, hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc Bệnh viện Khoa có trách nhiệm tiếp nhận, điều trị và chăm sóc các sản phụ trong các giai đoạn trước, trong và sau sinh, tuân thủ các quy định chuyên môn kỹ thuật của Bệnh viện Hiện tại, khoa có 39 cán bộ nhân viên, bao gồm 6 bác sĩ, 28 điều dưỡng và hộ sinh, cùng 5 hộ lý.
Khoa có cơ sở vật chất hiện đại với 02 phòng đẻ, bao gồm 01 phòng đẻ nhiễm trùng và 01 phòng đẻ lây nhiễm Ngoài ra, khoa còn có 07 phòng bệnh với tổng cộng 32 giường bệnh, phục vụ cho khoảng 28-40 bệnh nhân mỗi ngày.
Thực trạng công tác chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn sau mổ lấy
Sau khi thu thập dữ liệu trên 30 người bệnh nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai tại khoa C3 bệnh viện Phụ Sản Hà Nội thu được kết quả như sau:
2.1.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Bảng 2.1 Phân bố ĐTNC theo độ tuổi Tuổi sản phụ Số lượng (N = 30) Tỷ lệ %
Nhận xét:Nhóm sản phụ nhiễm trùng sau mổ trong độ tuổi từ 25 – 35 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất (66,67%)
Bảng 2.2.Phân bố ĐTNC theo nghề nghiệp Nghề nghiệp Số lượng (N= 30) Tỷ lệ %
Nhận xét:Phần lớn sản phụ nhiễm trùng sau mổ có nghề nghiệp là nhân viên văn phòng chiếm tỷ lệ 46,67%
Bảng 2.3.Phân bố ĐTNC theo thời gian xuất hiện nhiễm khuẩn vết mổ
Nhận xét:Hơn một nửa số sản phụ nhiễm khuẩn vết mổ có số ngày xuất hiện nhiễm khuẩn từ 8-14 ngày chiếm tỷ lệ 56,67%
Bảng 2.4: Phân bố ĐTNC theo triệu chứng lâm sàng của NKVM Triệu chứng lâm sàng của nhiễm khuẩn vết mổ
Sưng, đau, tấy đỏ vết mổ 19 63,33
Chảy mủ, chảy dịch vết mổ 12 40
Toác vết mổ dưới da 4 13,33
Hầu hết các sản phụ bị nhiễm khuẩn vết mổ thường xuất hiện các triệu chứng điển hình như sưng, nóng, đỏ và đau, với tỷ lệ 80% có sốt và 63,33% có triệu chứng sưng, đau, tấy đỏ tại vết mổ.
Bảng 2.5 Thời gian điều trị kháng sinhtrong thời gian nhiễm trùng Thời gian điều trị kháng sinh Số lượng (N0) Tỷ lệ
Nhận xét: Hơn một nửa sản phụ nhiễm khuẩn vết mổ phải điều trị kháng sinh từ 5-7 ngày chiếm 53,33%
Bảng 2.6 Phối hợp kháng sinh sau mổ lấy thai Nhóm kháng sinh kết hợp Tổng số (N 0) Tỷ lệ %
Nhận xét: Đa số các sản phụ nhiễm khuẩn vết mổ đều phải dùng phối hợp
2 nhóm kháng sinh trong quá trình điều trị chiếm 83,33%
Bảng 2.7 Thời gian khâu lại vết mổ sau điều trị kháng sinh
Thời gian khâu lại vết mổ
Nhận xét:Phần lớn các sản phụ được khâu lại vết mổ trong vòng 10 ngày chiếm 60%
2.2.2 Thực trạng công tác chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai tại khoa C3 bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2020
Bảng 2.8 Công tác tư vấn, hướng dẫn GDSK cho NB (n = 30)
Tỷ lệ (%) ĐD thực hiện hướng dẫn NB cách tự theo dõi, chăm sóc trong quá trình điều trị
Thực hiện hướng dẫn đầy đủ 24 80
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 6 20
Không thực hiện 0 0 ĐDhướng dẫn cho NB về chế độ ăn uống trong điều trị, sau khi ra viện
Thực hiện hướng dẫn đầy đủ 14 46,6
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 10 33,3
Không thực hiện 6 20,1 ĐD thực hiện hướng dẫn cho NB về chế độ
Thực hiện hướng dẫn đầy đủ 18 60
Tỷ lệ (%) sinh hoạt trong khi nằm điều trị và sau khi ra viện
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 9 30
Không thực hiện 3 10 ĐD thực hiện hướng dẫn NB cách tự phòng bệnh trong khi điều trị và sau khi ra viện về sinh hoạt tại gia đình
Thực hiện hướng dẫn đầy đủ 0 0
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 25 83,3
Không thực hiện 5 16,7 ĐD hướng dẫn NB các phương pháp luyện tập nâng cao sức khỏe tại gia đình sau khi ra viện
Thực hiện nhưng chưa chu đáo 20 66,6
Trong công tác tư vấn giáo dục sức khỏe (GDSK) cho bệnh nhân (NB), điều dưỡng (ĐD) đã thực hiện hướng dẫn tự theo dõi và chăm sóc trong quá trình điều trị với tỷ lệ cao lên đến 80% Tuy nhiên, việc hướng dẫn các phương pháp luyện tập nâng cao sức khỏe tại gia đình sau khi ra viện chỉ đạt 66,6%, cho thấy sự cần thiết phải cải thiện chất lượng và sự chu đáo trong công tác này.
Nội dung Số lượng Tỷ lệ
Quan tâm, chia sẻ, hỏi thăm sức khỏe của người bệnh trong quá trình chăm sóc và điều trị
Thực hiện nhưng chưa tốt (có hỏi thăm nhưng thái độ không niềm nở, thông cảm)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ
(%) Động viên người bệnh yên tâm điều trị trong quá trình chăm sóc, làm thủ thuật
Thực hiện nhưng chưa tốt (lúc có, lúc không > 1 lần/ngày)
Thực hiện giải đáp kịp thời những băn khoăn, thắc mắc của người bệnh trong quá trinh điều trị và chăm sóc
Thực hiện nhưng chưa tốt (có giải đáp nhưng không kịp thời)
Thái độ, hành vi, lời nói trong giao tiếp và cư xử với người bệnh
Luôn tôn trọng, thái độ ân cần, thông cảm 23 76,6
Thực hiện nhưng chưa tốt ( lúc có, lúc không) 7 23,4
Công tác chăm sóc và hỗ trợ tâm lý, tinh thần cho người bệnh của điều dưỡng đã được người bệnh đánh giá là thực hiện đầy đủ và hiệu quả trên tất cả các khía cạnh.
Tỷ lệ bệnh nhân đánh giá cao sự quan tâm và chia sẻ từ đội ngũ y tế, với 76,6% cho biết họ thường xuyên được hỏi thăm sức khỏe và động viên yên tâm trong quá trình điều trị Đội ngũ y tế cũng thực hiện tốt việc tạo động lực cho bệnh nhân trong quá trình chăm sóc và làm thủ thuật, đồng thời luôn tôn trọng và thể hiện thái độ ân cần, thông cảm, đạt tỷ lệ 76,6%.
Bảng 2.10: Công tác chăm sóc theo dõi, đánh giá người bệnh (n = 30)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ
Nội dung Số lượng Tỷ lệ
(%) Điều dưỡng thực hiện đo mạch, nhiệt độ, huyết áp,3 lần/ngàycho
NB trong thời gian nằm viện
Thực hiện nhưng không đầy đủ 10 33,4
Điều dưỡng theo dõi tình trạng sức khỏe của bệnh nhân hàng ngày, hỏi thăm về diễn biến bệnh để phát hiện sớm các biến chứng trong thời gian điều trị tại bệnh viện.
Thực hiện chưa đầy đủ
Không thực hiện 3 10,1 Điều dưỡngcó đến ngay và xử trí kịp thời khi NB có dấu hiệu bấtthường
Người bệnh đánh giá cao sự chăm sóc của điều dưỡng, với 66,6% cho rằng điều dưỡng thực hiện tốt việc đo mạch, nhiệt độ và huyết áp hàng ngày Ngoài ra, 66,6% điều dưỡng cũng thường xuyên hỏi thăm tình trạng bệnh tật của người bệnh Đặc biệt, 60% người bệnh nhận xét rằng điều dưỡng đã đến ngay và xử trí kịp thời khi có dấu hiệu bất thường, trong khi chỉ có 10% phản ánh rằng điều dưỡng chưa đến ngay khi cần thiết.
Bảng 2.11 Hỗ trợ điều trị và phối hợp thực hiện y lệnh của bác sĩ
Tỷ lệ (%) ĐD thực hiện thông báo, giải thích công việc sắp làm trước khi thực hiện y lệnh của bác sĩ
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 4 13,4
Không thực hiện 0 0 ĐD thực hiện kiểm tra tên, tuổi của NB, giải thích đầy đủ trước mỗi lần thực hiện y lệnh thuốc cho NB
Thực hiện chưa đầy đủ 6 20
Không thực hiện 0 0 ĐD động viên, giải thích rõ ràng trước mỗi lần thực hiện thủ thuật tiêm, truyền, chăm sóc vết mổ…cho NB
Có, thực hiện đầy đủ 24 80 Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 6 20
Không thực hiện 0 0 ĐD hướng dẫn NB những việc cần chuẩn bị trước mỗi lần làm xét nghiệm, siêu âm
Có, thực hiện hiện hướng dẫn đầy đủ 27 90
Thực hiện nhưng chưa đầy đủ 3 10
Công tác hỗ trợ điều trị và phối hợp thực hiện y lệnh của bác sĩ nhận được đánh giá tích cực từ người bệnh, với hơn 80% ý kiến cho rằng các nội dung này được thực hiện tốt.
BÀN LUẬN
Các ưu điểm và tồn tại trong chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai
mổ sau mổ lấy thai
- Điều dưỡng đã thực hiện đúng và đầy đủ quy trình chăm sóc theo quy định
- Bác sỹ và điều dưỡng phối hợp tốt trong quá trình điều trị và chăm sóc người bệnh
- Người bệnh được chăm sóc đúng quy trình
- Người bệnh được hướng dẫn chế độ tập luyện hợp lý theo thời gian và tình trạng sức của người bệnh
- Trang thiết bị cơ sở hạ tầng của bệnh viện đầy đủ, sạch sẽ đảm bảo cho quá trình chăm sóc sản phụ
Điều dưỡng và hộ sinh đôi khi chưa chú trọng đúng mức đến việc chăm sóc sản phụ, dẫn đến việc họ dành ít thời gian tư vấn cho bệnh nhân Sự thiếu cụ thể trong hướng dẫn tư vấn khiến sản phụ gặp khó khăn trong việc thực hiện các chỉ dẫn.
- Kỹ năng tư vấn giáo dục sức khỏe của Hộ Sinh/ Điều dưỡng tốt nhưng do khối lượng công việc nhiều nên làm chưa đầy đủ
- Ghi chép hồ sơ đôi lúc chưa cập nhật kịp thời hoặc quên
- Khoa phòng còn chật hẹp, bệnh nhân quá tải nên vẫn còn bệnh nhân phải nằm giường bạt
- Số lượng phòng vệ sinh ít nên chưa đạt được tối đa sự hài lòng của người bệnh
3.1.3 Nguyên nhân của những hạn chế
- Nguyên nhân có thể do khối lượng công việc quá nhiều
- Hộ sinh/ Điều dưỡng còn chưa chuyên tâm vào công việc
- Hộ sinh/ Điều dưỡng cần được cập nhật kiến thức kỹ năng tư vấn
- Sản phụ và gia đình sản phụ yêu cầu cao.
Thuận lợi và khó khăn trong chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai
mổ sau mổ lấy thai
Bệnh viện và các khoa phòng cam kết cung cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế đầy đủ, nhằm đảm bảo chất lượng chăm sóc cho bệnh nhân.
- Về phí nhân viên y tế: Được trang bị đầy đủ các quy trình chuẩn về chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn vết mổ
- Về phía người bệnh:Luôn hợp tác với các nhân viên y tế trong công tác chăm sóc và điều trị
- Bệnh nhân quá tải so với điều kiện cơ sở vật chất và đội ngũ y tế
- Nhiều nhân viên trẻ còn thiếu kinh nghiệm trong công tác chăm sóc bệnh nhân.
Giải pháp để khắc phục những tồn tại
- Tăng cường các chương tình đào tạo chuyên sâu về các quy trình chăm sóc người bệnh
- Xây dựng các quy trình chăm sóc chuẩn, phù hợp
- Nâng cao năng lực tư vấn sức khỏe cho điều dưỡng
- Xây dựng cơ sở vật chất, phối hợp với khoa dinh dưỡng cung cấp chế độ dinh dưỡng phù hợp cho bệnh nhân
Để đáp ứng nhu cầu chăm sóc ngày càng tăng của sản phụ, cần phải tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và buồng bệnh Việc này giúp tránh tình trạng cung không đủ cầu về cơ sở vật chất trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cho mẹ và bé.
- Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra
Bệnh viện thực hiện kiểm tra và giám sát quy trình chăm sóc sản phụ sau sinh, đảm bảo đầy đủ nội dung như một tiêu chuẩn quan trọng trong việc đánh giá năng lực của điều dưỡng và nữ hộ sinh.
- Tăng cường thêm nguồn lực y tế để giảm bớt khối lượng công việc, áp lực công việc cho cán bộ điều dưỡng, hộ sinh
- Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho điều dưỡng, hộ sinh được tập huấn, học tập nâng cao trình độ chuyên môn và nghiên cứu khoa học
Để nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh, việc thu thập ý kiến phản hồi từ sản phụ và gia đình là rất quan trọng Chúng tôi sử dụng phiếu đánh giá sự hài lòng và hòm thư góp ý để ghi nhận những ý kiến này, từ đó đưa vào tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ y tế.
- Áp dụng đúng và đầy đủ quy trình chăm sóc thiết yếu cho bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và sau đẻ
- Người điều dưỡng, hộ sinh cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao kỹ năng chăm sóc sản phụ
Tăng cường mối quan hệ với đồng nghiệp là cách hiệu quả để học hỏi kiến thức chuyên sâu, đồng thời cải thiện sự phối hợp trong khoa và bệnh viện, từ đó nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân.
- Sản phụ tham gia cùng với điều dưỡng, hộ sinh lập kế hoạch chăm sóc và thực hiện kế hoạch chăm sóc đạt hiệu quả cao nhất
- Sửa chữa các phòng bệnh do cũ.