1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chuyên đề tốt nghiệp chuyên khoa cấp i đánh giá chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai tại bệnh viện đa khoa hà đông năm 2018

34 30 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đánh Giá Chăm Sóc Sản Phụ Sau Mổ Lấy Thai Tại Bệnh Viện Đa Khoa Hà Đông Năm 2018
Tác giả Nguyễn Thị Lý
Người hướng dẫn ThS. Nguyễn Công Trình
Trường học Trường Đại Học Điều Dưỡng Nam Định
Chuyên ngành Điều dưỡng Sản phụ khoa
Thể loại báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
Năm xuất bản 2018
Thành phố Nam Định
Định dạng
Số trang 34
Dung lượng 328 KB

Cấu trúc

  • 1. Đặt vấn đề (8)
  • 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn (10)
    • 2.1. Cơ sở lý luận (10)
    • 2.2. Cơ sở thực tiễn (16)
  • 3. Thực trạng (21)
    • 3.1. Đánh giá chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai tại khoa sản – Bệnh viện đa (21)
    • 3.2. Nhận xét (23)
  • 4. Giải pháp (24)
  • PHỤ LỤC (31)

Nội dung

Cơ sở lý luận và thực tiễn

Cơ sở lý luận

Mổ lấy thai là một phẫu thuật nhằm lấy thai và các phần phụ của thai ra khỏi buồng tử cung thông qua rạch ở thành bụng và thành tử cung Định nghĩa này không bao gồm trường hợp mở bụng để lấy thai trong tình huống chửa ngoài tử cung hoặc khi tử cung bị vỡ và thai đã nằm trong ổ bụng.

2.1.2 Sơ lược về lịch sử mổ lấy thai

Theo sử sách của người Ai Cập, mổ lấy thai (MLT) đã được thực hiện từ khoảng 3.000 năm trước công nguyên, chủ yếu trong trường hợp người mẹ đã chết hoặc đang hấp hối để cứu đứa trẻ Đến năm 730 trước Công nguyên, Hoàng đế La Mã Popilus đã ban hành lệnh cấm chôn cất sản phụ nếu chưa thực hiện MLT.

Vào năm 1500, Jacob Nufer, một thợ thiến lợn người Thụy Sỹ, là người đầu tiên thực hiện ca phẫu thuật lấy con ra khỏi bụng vợ khi bà đỡ không thể giúp đỡ Đến năm 1610, Tractmann J từ Đức đã thực hiện phẫu thuật rạch dọc tử cung nhưng không khâu phục hồi, dẫn đến cái chết của người mẹ sau 25 ngày Phẫu thuật này lan rộng khắp châu Âu với tỷ lệ tử vong của mẹ lên tới 100% Tuy nhiên, vào năm 1794, trường hợp mổ lấy thai đầu tiên thành công đã diễn ra tại bang Virginia, Hoa Kỳ, cứu sống cả mẹ và con.

Vào năm 1882, Max Sanger từ Đức đã phát triển phương pháp mổ dọc thân tử cung để lấy thai, với kỹ thuật khâu phục hồi cơ tử cung hai lớp, được gọi là MLT theo phương pháp cổ điển Mặc dù phương pháp này đã được giới thiệu, tỷ lệ tử vong mẹ vẫn cao do viêm phúc mạc Ông đã công bố cuốn sách "Kỹ thuật mổ lấy thai", trong đó mô tả kỹ thuật Sanger.

Năm 1805, Osiander đưa ra phương pháp phẫu thuật rạch dọc đoạn dưới TC để lấy thai ra nhưng không được chú ý đến [3], [16]

Vào năm 1926, Beek, Kerr và De Lee đã đề xuất kỹ thuật rạch ngang đoạn dưới tử cung (TC) và khâu phủ phúc mạc sau khi khâu cơ TC Kỹ thuật này nhanh chóng trở nên phổ biến và được áp dụng rộng rãi cho đến nửa đầu thế kỷ XX Tuy nhiên, việc thực hiện mổ lấy thai (MLT) vẫn gặp nhiều hạn chế do tình trạng nhiễm khuẩn và sự yếu kém trong gây mê hồi sức.

Vào năm 1940, Flemming đã phát minh ra kháng sinh, giúp giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn Đến những năm 1950, sự tiến bộ trong gây mê hồi sức với các phương tiện và thuốc mới đã làm cho phẫu thuật mổ lấy thai (MLT) trở nên an toàn hơn cho mẹ và con Trước năm 1950, do nguy cơ nhiễm khuẩn cao và sự hạn chế của gây mê, MLT chỉ được áp dụng rất hạn chế tại Việt Nam Chỉ sau khi kháng sinh ra đời, MLT mới được triển khai rộng rãi Năm 1956, phẫu thuật mổ dọc đoạn dưới tử cung để lấy thai được thực hiện lần đầu tại khoa sản Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), sau đó Đinh Văn Thắng đã thực hiện mổ ngang đoạn dưới tử cung tại bệnh viện này, và phương pháp này hiện nay đã trở nên phổ biến trên toàn quốc.

2.1.3 Giải phẫu của tử cung liên quan đến Mổ lấy thai

2.1.3.1 Giải phẫu tử cung khi chưa có thai

Tử cung được chia thành ba phần chính: thân, eo và cổ tử cung Thân tử cung có hình thang, với đáy lớn ở trên và hai sừng ở hai bên, nơi mà vòi tử cung chạy vào và là điểm bám của dây chằng tròn cũng như dây chằng tử cung - buồng trứng Kích thước của thân tử cung là 4cm chiều dài và 4,5cm chiều rộng; eo tử cung có chiều dài 0,5cm; trong khi cổ tử cung dài 2,5cm và rộng 2,5cm.

TC là một khối cơ trơn, rỗng ở giữa tạo thành một khoang ảo gọi là buồng

TC, khoang này dẹt và thắt lại ở eo Cấu trúc của TC gồm 3 lớp: lớp phúc mạc, lớp cơ và lớp niêm mạc:

Lớp phúc mạc có đặc điểm là dính vào thân tử cung ở phía trên, trong khi phía dưới tạo thành túi cùng bàng quang - tử cung, cho phép việc bóc tách diễn ra dễ dàng Phía sau lớp phúc mạc hình thành túi cùng Douglas.

Lớp cơ ở thân tử cung và cổ tử cung có sự khác biệt rõ rệt Thân tử cung bao gồm ba lớp cơ: lớp ngoài với thớ dọc, lớp trong với thớ vòng, và lớp giữa gọi là lớp cơ đan, dày nhất và phát triển mạnh nhất, chứa nhiều mạch máu Sau khi sổ thai và rau, lớp cơ này co lại để tạo thành khối an toàn của tử cung và thít chặt các mạch máu Eo tử cung phát triển thành đoạn dưới chỉ với hai lớp cơ dọc và vòng, không có lớp cơ đan, dẫn đến nguy cơ chảy máu nhiều trong trường hợp rau tiền đạo Động mạch tử cung, một nhánh của động mạch hạ vị, dài từ 13 đến 15cm, chạy từ thành bên chậu hông qua dây chằng rộng, tiếp theo là ngang tới eo tử cung và sau đó chạy dọc bờ ngoài tử cung, có các nhánh nối với động mạch buồng trứng.

2.1.3.2 Thay đổi giải phẫu và sinh lý tử cung khi có thai

Trong quá trình mang thai và chuyển dạ, thân tử cung là bộ phận có sự thay đổi lớn nhất Khi trứng làm tổ ở niêm mạc tử cung, niêm mạc này sẽ chuyển hóa thành ngoại sản mạc, nơi hình thành bánh rau, màng rau và buồng ối để bảo vệ và nuôi dưỡng thai nhi Đến giai đoạn chuyển dạ, tử cung tiếp tục thay đổi để tạo thành ống đẻ, giúp thai nhi ra ngoài một cách an toàn.

Khi chưa mang thai, tử cung nặng từ 50 - 60g, nhưng sau khi thai và rau sổ ra, trọng lượng tử cung có thể tăng lên trung bình 1000g, dao động từ 900 - 1200g Sự tăng trưởng này chủ yếu diễn ra trong nửa đầu của thai kỳ Trước khi có thai, cơ tử cung dày khoảng 1cm, nhưng đến tháng thứ 4 - 5 của thai kỳ, lớp cơ này có thể dày lên tới 2,5cm Các sợi cơ tử cung có khả năng phát triển theo chiều rộng gấp 3 - 5 lần và theo chiều dài có thể tăng lên tới 40 lần.

Trong những tuần đầu của thai kỳ, sự gia tăng kích thước tử cung chủ yếu là do tác động của estrogen và progesteron Tuy nhiên, sau 12 tuần, kích thước tử cung tăng lên chủ yếu do sự phát triển của thai nhi và các phần phụ, khiến tử cung phải mở rộng theo.

Dung tích buồng tử cung khi chưa có thai dao động từ 2 - 4ml, nhưng khi mang thai, dung tích này có thể tăng lên tới 4.000 - 5.000ml Trong trường hợp mang đa thai hoặc đa ối, dung tích buồng tử cung có thể gia tăng hơn nữa Kích thước buồng tử cung trung bình là 7cm khi chưa có thai, và vào cuối thai kỳ, kích thước này có thể đạt tới 32cm.

Trong ba tháng đầu thai kỳ, tử cung có hình tròn do đường kính trước sau phát triển nhanh hơn đường kính ngang, với phần dưới phình to có thể cảm nhận qua túi cùng bên âm đạo Tử cung không đối xứng do thai nhi không chiếm toàn bộ buồng tử cung, dẫn đến hình thể không đều Đến ba tháng giữa, tử cung chuyển sang hình trứng, với phần trên lớn hơn và phần dưới nhỏ hơn Trong ba tháng cuối, hình dáng tử cung phụ thuộc vào tư thế của thai nhi trong buồng tử cung.

Phúc mạc ở thân tử cung gắn chặt vào lớp cơ tử cung và phì đại khi có thai Tại eo tử cung, phúc mạc có thể dễ dàng bóc tách khỏi lớp cơ tử cung, tạo thành ranh giới phân biệt giữa thân tử cung và đoạn dưới tử cung Phẫu thuật lấy thai thường được thực hiện ở đoạn dưới tử cung để có thể phủ phúc mạc sau khi đã khâu kín vết mổ ở lớp cơ tử cung.

Cơ sở thực tiễn

Năm 1998, Tổ chức Y tế Thế giới đã phát hành Hướng dẫn thực hành Chăm sóc sau sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, dựa trên bằng chứng và ý kiến chuyên gia Tuy nhiên, hướng dẫn này còn nhiều hạn chế, không đề cập đến thời gian nằm ở phòng sau đẻ, số lượng và thời điểm tiếp xúc giữa mẹ, con và cán bộ y tế, cũng như nội dung của các lần tiếp xúc Hơn nữa, hướng dẫn cũng thiếu thông tin về các vấn đề liên quan đến nhiễm HIV, mang thai vị thành niên và sức khỏe tâm thần.

Sơ đồ 2.1 Các giai đoạn chăm sóc y tế của bà mẹ và trẻ sơ sinh

Năm 2003, Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) đã công bố Hướng dẫn thực hành thiết yếu về mang thai, sinh nở, chăm sóc sau sinh và chăm sóc sơ sinh, nhằm bổ sung các hướng dẫn cho các can thiệp dựa trên bằng chứng tại cấp độ chăm sóc ban đầu, tiếp nối theo hướng dẫn năm 1998.

Tài liệu tư vấn kỹ thuật của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) về chăm sóc sau sinh và chăm sóc thời kỳ hậu sản năm 2008 được phát triển bởi nhóm chuyên gia quốc tế, dựa trên cập nhật từ hai hướng dẫn trước đó năm 1998 và 2003 Hướng dẫn này mang đến những thay đổi, tiến bộ và sự hữu ích hơn trong việc quy định nội dung và thời điểm chăm sóc cho bà mẹ và sơ sinh trong giai đoạn sau sinh Tại Việt Nam, Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ Chăm sóc sức khỏe sinh sản cũng đã được áp dụng từ năm.

2009) cũng đã quy định rõ các nội dung chăm sóc sau sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh

* Thời điểm chăm sóc sau sinh:

Hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới năm 1998 đề xuất mô hình chăm sóc sau sinh 6-6-6-6, bao gồm 3-6 giờ, 3-6 ngày, 6 tuần và 6 tháng sau sinh Tuy nhiên, việc chăm sóc cần được thực hiện sớm để khuyến khích các hành vi và thực hành kịp thời như cho trẻ bú ngay, giữ ấm, giữ sạch rốn và nhận biết dấu hiệu nguy hiểm Đối với bà mẹ, các thực hành quan trọng bao gồm kiểm soát chảy máu, đau, nhiễm khuẩn, tư vấn chăm sóc vú và dinh dưỡng Ở những nơi không có điều kiện chăm sóc y tế, có thể tổ chức chăm sóc tại nhà Hướng dẫn năm 2008 nhấn mạnh 24-48 giờ đầu tiên là thời điểm nhạy cảm nhất cho sức khỏe bà mẹ và trẻ em, do đó cần có sự chăm sóc y tế kịp thời.

Hướng dẫn quốc gia về Chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2009 của Việt Nam quy định các thời điểm chăm sóc sau sinh cần thiết nhất là:

1 Trong ngày đầu sau đẻ;

2 Tuần đầu tiên sau đẻ;

3 Sáu (6) tuần đầu tiên sau đẻ [2]

* Nội dung chăm sóc sau sinh theo hướng dẫn quốc gia:

Trong Hướng dẫn quốc gia về sức khỏe sinh sản, việc theo dõi sức khỏe của các bà mẹ và sơ sinh được thực hiện nghiêm ngặt trong ngày đầu tiên Từ ngày thứ hai đến hết sáu tuần, nếu bà mẹ đã xuất viện, các cán bộ y tế cần thực hiện quy trình chăm sóc sau sinh một cách đầy đủ và chuyên nghiệp.

(1) Hỏi mẹ về sức khỏe mẹ và con;

(2) Khám (kiểm tra sự co hồi tử cung, tầng sinh môn, sự tiết sữa, vết mổ);

(3) Hướng dẫn chăm sóc mẹ và con (theo bảng hướng dẫn chăm sóc của hướng dẫn quốc gia);

(4) Cảnh báo về các bất thường có thể xảy ra

+ Ngủ màn, nằm chung với mẹ;

+ Nuôi con bằng sữa mẹ;

+ Vệ sinh thân thể và chăm sóc da;

* Các nội dung chăm sóc chính: a) Nhận định:

- Tình trạng người mẹ: da, niêm mạc, sắc mặt, nhịp thở, dấu hiệu sinh tồn

- Tinh thần của sản phụ, xem sản phụ đã tỉnh chưa (nếu gây mê nội khí quản)

- Sự co hồi tử cung, ra huyết âm đạo

- Số lượng, màu sắc nước tiểu

- Các kết quả cận lâm sàng b) Chẩn đoán chăm sóc/các vấn đề cần chăm sóc:

- Nguy cơ chảy máu sau mổ lấy thai

- Thiếu hụt tuần hoàn, thiếu hụt năng lượng sau cuộc mổ

- Chưa tự đi tiểu, làm vệ sinh

- Thiếu kiến thức về cách chăm sóc bản thân, chăm sóc con c) Lập kế hoạch:

+ Giảm nguy cơ chảy máu sau mổ:

- Tư thế nằm cho sản phụ: nằm đầu thấp, kê một gối mỏng dưới vai, theo dõi vết mổ

- Theo dõi sự co hồi tử cung (nếu trong 2 giờ đầu: theo dõi khối cầu an toàn)

- Theo dõi lượng huyết ra âm đạo

- Theo dõi lượng huyết ra âm đạo

- Theo dõi toàn trạng: 30 phút/lần

+ Cho sản phụ đi tiểu tại giường

+ Rửa bộ phận sinh dục ngoài, thay áo váy cho sản phụ

+ Theo dõi tiếp nhận thuốc của sản phụ d) Thực hiện kế hoạch:

Thực hiện theo kế hoạch chăm sóc đã lập Trong quá trình thực hiện kế hoạch cần chú ý:

Tư thế nằm cho sản phụ sau phẫu thuật nên là nằm đầu thấp, với một gối mỏng kê dưới vai để hỗ trợ Đồng thời, cần theo dõi vết mổ để kiểm tra xem có dịch hoặc máu thấm vào băng không, và thực hiện thay băng vết mổ kịp thời.

- Theo dõi sự co hồi tử cung về mật độ, chiều cao (nếu trong 2 giờ đầu: theo dõi khối cầu an toàn) ghi phiếu chăm sóc

- Theo dõi lượng huyết ra âm đạo, màu sắc ghi phiếu chăm sóc

- Theo dõi toàn trạng: da, niêm mạc, sắc mặt, nhịp thở, dấu hiệu sinh tồn và ghi vào phiếu chăm sóc

- Cho sản phụ đi tiểu tại giường

- Làm thuốc âm đạo, thay váy áo cho sản phụ

- Theo dõi tiếp nhận thuốc của sản phụ

- Thực hiện y lệnh đầy đủ, chính xác và kịp thời e) Đánh giá:

Quá trình theo dõi và chăm sóc sản phụ, người hộ sinh cần đánh giá tình trạng sản phụ sau khi phẫu thuật

- Nếu toàn trạng sản phụ ổn định, không có nguy cơ chảy máu sau mổ là tốt

- Nếu toàn trạng không ổn định, có nguy cơ chảy máu sau mổ phải báo ngay cho bác sỹ và tiến hành lập kế hoạch chăm sóc tiếp theo

* Nội dung chăm sóc sản phụ những ngày sau mổ lấy thai: a) Nhận định:

- Toàn trạng: da, niêm mạc, sắc mặt, nhịp thở, dấu hiệu sinh tồn

- Tinh thần của sản phụ

- Vấn đề xuống sữa và đã cho con bú

- Sự co hồi tử cung, ra huyết âm đạo

- Số lượng, màu sắc nước tiểu, đã trung tiện chưa

- Vệ sinh, nghỉ ngơi, vận động, ăn ngủ của sản phụ

- Các kết quả cận lâm sàng b) Chẩn đoán chăm sóc/các vấn đề cần chăm sóc:

- Nguy cơ nhiễm khuẩn sau mổ lấy thai

- Mệt mỏi, vận động kém do đau vết mổ

- Thiếu kiến thức về cách chăm sóc bản thân, chăm sóc con c) Lập kế hoạch:

+ Giảm nguy cơ nhiễm khuẩn sau mổ:

- Theo dõi sự co hồi tử cung

- Theo dõi sản dịch ra âm đạo

- Theo dõi toàn trạng: 2 lần/ngày

- Vệ sinh bộ phận sinh dục ngoài, vệ sinh thân thể, vệ sinh răng miệng, thay váy áo hàng ngày

+ Động viên, hướng dẫn chế độ ăn sau mổ

+ Cung cấp kiến thức, giáo dục sức khỏe d) Thực hiện kế hoạch:

Thực hiện kế hoạch chăm sóc đã lập Trong quá trình thực hiện kế hoạch cần chú ý:

- Theo dõi vết mổ xem có dịch thấm băng không, thay băng vết mổ hàng ngày

- Theo dõi sản dịch ra âm đạo, số lượng, màu sắc, mùi và ghi phiếu chăm sóc

- Theo dõi toàn trạng: da, niêm mạc, sắc mặt, nhịp thở, dấu hiệu sinh tồn và ghi vào phiếu chăm sóc

- Rửa vệ sinh bộ phận sinh dục ngoài, thay váy áo cho sản phụ

- Giúp sản phụ tập vận động sau mổ tránh bế sản dịch, ứ đọng tuần hoàn

- Hướng dẫn chăm sóc bầu vú, cách cho con bú đúng và cách nuôi con bằng sữa mẹ

- Thực hiện y lệnh đầy đủ, chính xác, kịp thời e) Đánh giá:

Qua quá trình theo dõi và chăm sóc sản phụ, người hộ sinh cần đánh giá tình trạng sản phụ sau khi phẫu thuật:

- Nếu toàn trạng sản phụ ổn định, không có nguy cơ nhiễm khuẩn sau mổ là tốt

- Nếu toàn trạng không ổn định, có nguy cơ nhiễm khuẩn sau mổ phải báo cáo cho bác sỹ và tiến hành lập kế hoạch chăm sóc tiếp theo

* Chính sách nghỉ sau sinh của bà mẹ:

Phần lớn các nước trên thế giới áp dụng thời gian nghỉ sinh cho các bà mẹ từ

10 đến 20 tuần Ở Việt Nam, theo Luật Lao động thời gian nghỉ sinh của bà mẹ là 6 tháng.

Thực trạng

Đánh giá chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai tại khoa sản – Bệnh viện đa

đa khoa Hà Đông 6 tháng đầu năm 2018 [7]

Trong một nghiên cứu được thực hiện trên 2564 bà mẹ sinh con tại khoa Sản của bệnh viện Đa khoa Hà Đông từ tháng 1/2018 đến tháng 6/2018, kết quả thống kê đã được ghi nhận.

* Tỷ lệ mổ lấy thai là ; đẻ thường là

Bảng 2.1 Tỷ lệ mổ lấy thai Đặc điểm sinh Số lượng Tỷ lệ (%) Đẻ thường 1089 42,5% Đẻ mổ 1475 57,5%

* Một số kết quả khảo sát riêng đối với nhóm mổ lấy thai cho thấy:

Ngoài sự hỗ trợ từ cán bộ y tế, việc chăm sóc bà mẹ và trẻ sau mổ lấy thai cần sự phối hợp của tất cả các thành viên trong gia đình Thường có từ 2 đến 3 người cùng tham gia chăm sóc để đảm bảo sức khỏe và sự phục hồi tốt nhất cho cả mẹ và bé.

Bảng 2.2 Tỷ lệ người chăm sóc chính, giúp đỡ các bà mẹ sau mổ lấy thai

Người chăm sóc, giúp đỡ bà mẹ Số lượng Tỷ lệ (%)

Sau khi mổ lấy thai, bà mẹ thường gặp phải một số vấn đề bất thường, trong đó có 39,1% gặp vấn đề về tuyến vú, 22,5% bị đau bụng và ra máu âm đạo, và 10,9% có dấu hiệu nhiễm khuẩn tại cộng đồng Đặc biệt, hầu hết các bà mẹ đều trải qua sự thay đổi về cảm xúc, với 69,9% cảm thấy vui hơn, 17,4% cảm thấy mệt, 6,6% cảm thấy bị quá sức và chỉ 3% không có sự thay đổi nào.

Sau mổ lấy thai, có tới 57,8% trẻ gặp phải các vấn đề bất thường Những vấn đề thường gặp bao gồm quấy khóc (22,0%), vàng da (10,6%), sốt (8,3%) và không bú mẹ (6,8%).

Tỷ lệ bà mẹ mổ lấy thai có kiến thức đầy đủ về chăm sóc sau sinh chỉ đạt 32,3%, trong khi đó, 67,7% bà mẹ không có đủ kiến thức cần thiết về vấn đề này.

Kiến thức chung về CSSS của bà mẹ

Tỷ lệ % Đạt Không đạt

Biểu đồ 2.1 Kiến thức chung về chăm sóc sau sinh của các bà mẹ

Tỷ lệ bà mẹ mổ lấy thai thực hành chăm sóc sau sinh đạt chỉ 29,2%, trong khi đó, 70,8% bà mẹ không tuân thủ đúng các hướng dẫn chăm sóc sau sinh.

Biểu đồ 2.2 Thực hành chung về chăm sóc sau mổ lấy thai của bà mẹ

Các yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức chăm sóc sau sinh của bà mẹ bao gồm trình độ học vấn, khu vực sinh sống và điều kiện kinh tế gia đình Cụ thể, tỷ lệ bà mẹ có đủ kiến thức chăm sóc sau sinh cao hơn ở khu vực thành thị (37,8%) so với khu vực nông thôn, ở nhóm bà mẹ có trình độ học vấn từ trung cấp trở lên (41,5%), và ở những gia đình không thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo (35,5%).

Thực hành chăm sóc sau sinh của các bà mẹ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi điều kiện kinh tế gia đình và kiến thức chăm sóc sau sinh Cụ thể, nhóm bà mẹ không thuộc diện hộ nghèo hoặc cận nghèo có tỷ lệ thực hành chăm sóc sau sinh đạt 32,1%, trong khi nhóm bà mẹ có đủ kiến thức về chăm sóc sau sinh có tỷ lệ này lên tới 89,9% Sự khác biệt này cho thấy tầm quan trọng của kiến thức trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc sau sinh (p < 0,01).

Nhận xét

- Ưu điểm :Sản phụ được chăm sóc theo quy trình, theo dõi sát các chỉ số theo chỉ định của thầy thuốc

 Chưa được tư vấn về nuôi con bằng sữa mẹ và cách chăm sóc em bé sau đẻ

 Chưa tư vấn cho sản phụ biết cách chăm sóc vết mổ và chăm sóc thời kỳ hậu sản.

Giải pháp

Tăng cường các hoạt động truyền thông và giáo dục sức khỏe nhằm nâng cao nhận thức và thực hành chăm sóc sau sinh, đặc biệt là sau mổ lấy thai, cho các bà mẹ và gia đình trong cộng đồng Cần chú trọng đến những bà mẹ có học vấn thấp, sống ở nông thôn, thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo, cũng như các cặp vợ chồng có con lần đầu và những đối tượng có ảnh hưởng đến kiến thức và thực hành của bà mẹ về chăm sóc sau sinh.

Truyền thông và TV-GDSK đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn bà mẹ và gia đình đảm bảo trẻ được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin cần thiết, bao gồm vắc xin viêm gan B sơ sinh và lao Đồng thời, gia đình cũng cần nắm rõ lịch tiêm chủng phòng bệnh cho trẻ ở các giai đoạn tiếp theo để bảo vệ sức khỏe cho trẻ.

Xây dựng mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà do cán bộ y tế từ các bệnh viện tuyến huyện trở lên đảm nhiệm, nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ theo Hướng dẫn quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản Mô hình này sẽ giúp cải thiện sức khỏe của mẹ và bé, đồng thời nâng cao hiệu quả chăm sóc sau sinh trong cộng đồng.

4) Cần tập trung đầu tư nhiều hơn cho các trạm y tế cả về trang thiết bị và nhân lực;

5) Chú ý đưa ra chỉ định mổ lấy thai sát sao hơn để làm giảm hay ít nhất không làm tăng chỉ định mổ lấy thai;

Để nâng cao chất lượng chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh sau mổ, cần tăng cường đào tạo chuyên môn và cập nhật kiến thức cho nhân viên y tế Đồng thời, cần đảm bảo cơ sở vật chất và trang thiết bị đầy đủ cho mỗi ca mổ lấy thai, nhằm phục vụ tốt nhất cho công tác chăm sóc.

Chăm sóc sau sinh, đặc biệt là sau mổ lấy thai, đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện sớm và xử trí kịp thời các bất thường ở mẹ và trẻ sơ sinh, từ đó giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong Việc nâng cao kiến thức về các dấu hiệu nguy hiểm trong thai kỳ, khi chuyển dạ và sau sinh, cũng như các triệu chứng bệnh lý của trẻ sơ sinh là cần thiết để mẹ có thể chủ động đi khám Hướng dẫn xử trí ban đầu đơn giản nhưng hiệu quả sẽ giúp giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh ở trẻ sơ sinh Hơn nữa, việc phân loại bệnh nặng và nhẹ giúp mẹ có phương án xử trí phù hợp, đồng thời thực hành chăm sóc bản thân và con một cách khoa học Do đó, cần tăng cường hoạt động truyền thông và giáo dục sức khỏe để nâng cao nhận thức cho các bà mẹ.

Để nâng cao nhận thức và thực hành chăm sóc sau sinh, đặc biệt cho các bà mẹ có học vấn thấp, sống ở nông thôn và thuộc diện hộ nghèo, cần xây dựng mô hình chăm sóc sau sinh tại nhà với sự tham gia của cán bộ y tế từ bệnh viện tuyến huyện trở lên Chương trình này bao gồm thăm khám y tế và tư vấn theo hướng dẫn của Bộ Y tế Đầu tư vào trạm y tế về trang thiết bị và nhân lực là cần thiết để phát hiện sớm các trường hợp cần mổ lấy thai Hoạt động của mạng lưới y tế thôn bản và cộng tác viên dân số cũng cần được phát huy để giáo dục kiến thức chăm sóc sức khỏe thai sản và trẻ sơ sinh Cán bộ y tế địa phương cần tìm hiểu phong tục tập quán và bài thuốc dân gian để hạn chế những cách xử trí sai lầm Kiến thức chăm sóc sau sinh chủ yếu đến từ cán bộ y tế, trong khi thông tin không chính thống từ internet, gia đình và bạn bè vẫn chiếm tỷ lệ lớn Do đó, cần xây dựng chiến lược giáo dục và truyền thông hiệu quả trong cộng đồng, đặc biệt nhắm đến những đối tượng có ảnh hưởng đến nhận thức của bà mẹ về chăm sóc sau sinh.

Sự phát triển của ngành công nghiệp vắc xin và hoạt động tiêm chủng đã bảo vệ nhiều thế hệ trẻ em khỏi các bệnh dịch nguy hiểm Tiêm chủng không chỉ mang lại hiệu quả to lớn mà còn mở ra hy vọng mới với các loại vắc xin đang được nghiên cứu Nhờ vào vắc xin, mô hình bệnh tật toàn cầu đã có những thay đổi tích cực, trở thành một biện pháp hiệu quả và tiết kiệm để nâng cao sức khỏe Tại Việt Nam, đặc biệt là TP Hà Nội, trẻ em được tiêm chủng thường xuyên để phòng ngừa các bệnh chính, điều này đã trở thành chính sách trung tâm trong các nỗ lực y tế công cộng toàn cầu Các chiến dịch truyền thông cần chú trọng đến việc tiêm chủng cho trẻ sơ sinh, đặc biệt là những trẻ sau mổ lấy thai, với các loại vắc xin như viêm gan B sơ sinh và lao, đồng thời cần cung cấp thông tin và tư vấn sức khỏe cho bà mẹ và gia đình về lịch tiêm chủng trong các giai đoạn tiếp theo.

Tỷ lệ mổ lấy thai đang gia tăng, vì vậy cần có sự chỉ định chính xác hơn để giảm thiểu tình trạng này Thai phụ có bệnh lý hoặc có nguy cơ mổ cần được chuyển đến cơ sở sản khoa có khả năng theo dõi và điều trị Các nguyên nhân mổ vì lý do xã hội cần được xem xét cẩn thận và chỉ thực hiện khi có yếu tố y học đi kèm Đồng thời, đội ngũ nữ hộ sinh và điều dưỡng cần thường xuyên được đào tạo nâng cao chuyên môn và cập nhật kiến thức về chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh sau mổ Các bệnh viện cũng cần đảm bảo cơ sở vật chất và trang thiết bị đầy đủ để phục vụ cho các ca mổ lấy thai và chăm sóc sản phụ, trẻ sơ sinh sau mổ.

1 Làm mẹ an toàn là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ - trẻ em của Bộ Y tế;

Cuộc đẻ an toàn đảm bảo sức khoẻ cho cả mẹ và trẻ sơ sinh, thông qua việc lựa chọn phương pháp sinh đẻ phù hợp, bao gồm đẻ thường hoặc mổ đẻ.

Đẻ thường là sự lựa chọn ưu tiên của hầu hết các bác sĩ và các bà mẹ, trong khi đẻ mổ chỉ được thực hiện khi cần thiết cho những sản phụ không thể sinh thường.

Tỷ lệ mổ đẻ tại bệnh viện đa khoa Hà Đông và trên toàn quốc có thể tiếp tục tăng trong thời gian tới Do đó, việc chăm sóc bà mẹ sau mổ lấy thai trở nên vô cùng quan trọng và cần được chú trọng.

Lãnh đạo bệnh viện đa khoa và phòng Điều dưỡng cần xây dựng kế hoạch phù hợp để đáp ứng nguồn lực và đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ hộ sinh, điều dưỡng trong việc chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh sau mổ lấy thai.

6 Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ; phục vụ sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân

1 Bộ Y tế (2001), Chăm sóc sức khỏe sinh sản - Tài liệu dùng cho cán bộ y tế cơ sở, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội

2 Bộ Y tế (2010), Tài liệu Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội

3 Phan Trường Duyệt (1998), “Lịch sử mổ lấy thai”, Phẫu thuật sản phụ khoa, Nhà xuất bản Y học Hà Nội, Tr 679 - 704

4 Đỗ Quang Mai (2007) “Nghiên cứu tình hình mổ lấy thai ở sản phụ con so tại bệnh viện Phụ sản Trung ương 2 năm 1996 và 2006”

5 Võ Thị Thu Hà (2004), “Nghiên cứu tình hình phẫu thuật lấy thai tại Bệnh viện Phụ sản tiền Giang từ 01/09/2003 đến 30/08/2004”, nội san

Nguyễn Đức Hinh (2006) trong bài giảng sản phụ khoa dành cho sau đại học đã trình bày về chỉ định, kỹ thuật và tai biến của mổ lấy thai, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Y học Hà Nội, trang 100 - 111.

Nghiên cứu của Nguyễn Anh Hùng (2014) về thực trạng kiến thức và thực hành chăm sóc sau sinh của các bà mẹ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình vào năm 2015 đã chỉ ra nhiều vấn đề cần cải thiện trong lĩnh vực này Đề tài khoa học cấp ngành Y tế Hoa Bình nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức và kỹ năng chăm sóc sau sinh cho các bà mẹ, nhằm đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và bé.

8 Nguyễn Việt Hùng (2004), “Thay đổi giải phẫu và sinh lý của người phụ nữ khi có thai” - Bài giảng sản phụ khoa tập I, tái bản lần thứ

III, Nhà xuất bản Y học Hà Nội, Tr 33 - 51

Nguyễn Thị Thu Hương (2006) đã thực hiện nghiên cứu về tình hình tim sản ở thai phụ có tuổi thai từ 32 tuần trở lên tại Bệnh viện Bạch Mai trong khoảng thời gian từ tháng 1/2003 đến tháng 12/2005 Luận văn tốt nghiệp bác sĩ của cô được trình bày tại Trường Đại học Y Hà Nội.

10 Phạm Văn Oánh (2002), Nghiên cứu tình hình mổ lấy thai tại

Viện bảo vệ bà mẹ trẻ sơ sinh, năm 2000, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y khoa Hà Nội

Ngày đăng: 03/09/2021, 10:24

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w