1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chuyên đề tốt nghiệp chuyên khoa cấp i thực trạng chăm sóc người bệnh nữ rối loạn lo âu tại bệnh viện tâm thần trung ương i năm 2018

50 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Chăm Sóc Người Bệnh Nữ Rối Loạn Lo Âu Tại Bệnh Viện Tâm Thần Trung Ương I
Tác giả Nguyễn Đức Tiến
Người hướng dẫn TS. Quản Trường Sơn
Trường học Trường Đại Học Điều Dưỡng Nam Định
Chuyên ngành Điều Dưỡng
Thể loại báo cáo chuyên đề tốt nghiệp
Năm xuất bản 2018
Thành phố Nam Định
Định dạng
Số trang 50
Dung lượng 634,29 KB

Cấu trúc

  • 1. Đặt vấn đề (6)
  • 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn (8)
    • 2.1. Cơ sở lý luận (8)
      • 2.1.1. Khái niệm và phân loại rối loạn lo âu (8)
    • 3.1 Nghiên cứu một trường hợp bệnh cụ thể (35)
    • 3.2. Một số ưu điểm và hạn chế ....................................................................... 3 5 1. Ưu điểm ............................................................................................... 3 5 2. Hạn chế ............................................................................................... 3 6 3.3. Nguyên nhân của các tồn tại (40)
      • 3.3.1. Đối với người bệnh (41)
      • 3.3.2. Đối với người nhà người bệnh (41)
  • 4. Đề xuất giải pháp nhằm cải thiện hoạt động chăm sóc người bệnh nữ rối loạn lo âu (43)
    • 4.1. Giải pháp về quản lý (43)
    • 4.2. Giải pháp về kỹ thuật (43)
    • 4.3. Các giải pháp khác .................................................................................... 39 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 4 1 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... PHỤ LỤC (44)

Nội dung

Cơ sở lý luận và thực tiễn

Cơ sở lý luận

2.1.1 Khái niệm và phân loại rối loạn lo âu

2.1.1.1 Các thuật ngữ liên quan đến rối loạn lo âu:

Lo là phản ứng cảm xúc tự nhiên của con người khi đối diện với khó khăn, thử thách hoặc đe dọa từ môi trường xung quanh Nó xuất hiện khi con người nhận thức hoặc dự đoán những tình huống khó khăn, từ đó tìm kiếm các giải pháp để vượt qua và tồn tại.

Lo âu là trạng thái căng thẳng cảm xúc gây khó chịu, kèm theo xung đột nội tâm Nó có thể biểu hiện qua nhiều rối loạn tâm thần và thể chất khác nhau Thêm vào đó, lo âu có thể là một yếu tố trong các bệnh lý khác, thậm chí do bác sĩ gây ra (iatrogene) hoặc xuất phát từ những suy nghĩ tiêu cực về tiên lượng bệnh của chính người bệnh.

Lo âu bình thường là trạng thái tâm lý có chủ đề và nội dung rõ ràng, thường liên quan đến các vấn đề như ốm đau hoặc mất việc làm Tình trạng này thường diễn ra tạm thời, xuất hiện khi có những sự kiện ảnh hưởng đến tâm lý cá nhân Khi các tác động này không còn, lo âu cũng dần giảm bớt, và thường không kèm theo hoặc chỉ có rất ít triệu chứng rối loạn thần kinh tự trị.

Lo âu bệnh lý, hay rối loạn lo âu, thường không có chủ đề cụ thể và mang tính vô lý, mơ hồ, với thời gian kéo dài và lặp đi lặp lại, kèm theo nhiều rối loạn thần kinh tự trị Nếu rối loạn có liên quan rõ ràng đến một nội dung hay chủ đề cụ thể, chẩn đoán sẽ được phân loại khác.

2.1.1.2 Phân loại rồi loạn lo âu

Hiện nay, hai hệ thống tiêu chuẩn chẩn đoán phân loại rối loạn tâm thần phổ biến trên thế giới là ICD-10, được Tổ chức Y tế Thế giới phát hành năm 1992, và DSM-IV, do Hội Tâm thần học Mỹ công bố năm 1994.

Hướng dẫn về rối loạn tâm thần, được biết đến là DSM-IV, tương đồng với ICD-10, cho phép sử dụng một trong hai phân loại này Tại Việt Nam, ICD-10 hiện đang được áp dụng làm tiêu chuẩn chẩn đoán trong lĩnh vực tâm thần học Phân loại rối loạn lo âu theo ICD-10 bao gồm nhiều dạng khác nhau.

+ F40 Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ, bao gồm

 F40.0 Lo âu ám ảnh sợ khoảng trống:

00 Không có rối loạn hoảng sợ

01 Có rối lọa hoảng sợ

 F40.1 Lo âu ám ảnh sợ xã hội

 F40.2 Lo âu ám ảnh sợ đặc biệt (riêng lẻ)

 F40.8 Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ khác

 F40.9 Rối loạn lo âu ám ảnh sợ không biệt định

+ F41 Các rồi loạn lo âu khác, bao gồm:

 F41.0 Rối lọan hoảng sợ (lo âu kịch phát từng giai đoạn)

 F41.1 Rối loạn lo âu lan tỏa

 F41.2 Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm

 F41.3 Các rối loạn lo âu hỗn hợp khác

 F41.8 Các rối loạn lo âu không biệt định khác

 F41.9 Rối loạn lo âu không biệt định

2.1.2.1 Khái niệm rối loạn trầm cảm :

Thuật ngữ “trầm cảm” xuất hiện từ thế kỷ XVIII, nhưng bệnh lý này đã được nghiên cứu từ thời Hippocrate (460-377 TCN) với khái niệm “sầu uất” (melancholie) Bonet (1686) đã mô tả mối liên hệ giữa hưng cảm và sầu uất Đến thế kỷ XVIII, các tác giả nhận thấy hai trạng thái này có thể xuất hiện luân phiên ở một bệnh nhân Năm 1899, E Kraepelin đã tổng hợp các biểu hiện lâm sàng và tính chất tiến triển của các bệnh như “bệnh thao cuồng” và “bệnh sầu uất” thành một bệnh chung gọi là “loạn thần hưng-trầm cảm” (psychose – maniaco – depressive).

Từ những năm 60-70 của thế kỷ XX, trầm cảm đã được phân loại riêng trong bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 8 và 9 Năm 1992, Tổ chức Y tế Thế giới đã công bố bảng phân loại quốc tế lần thứ.

10 Từ nhận thức đúng bản chất về bệnh nguyên bệnh sinh của trầm cảm, cụm từ

“bệnh trầm cảm” được thay bằng cụm từ “rối loạn trầm cảm”

Rối loạn trầm cảm là một dạng rối loạn cảm xúc phổ biến, biểu hiện qua nhiều hình thức khác nhau, chủ yếu là sự ức chế trong hoạt động tâm thần, có thể kèm theo lo âu và triệu chứng cơ thể Các triệu chứng chính bao gồm cảm xúc, tư duy và hành vi bị ức chế, dẫn đến giảm khả năng liên tưởng, phán đoán và suy luận, cũng như giảm năng lượng và dễ mệt mỏi Rối loạn này thường tái diễn và khởi phát liên quan đến các sự kiện gây stress Tỷ lệ mắc rối loạn trầm cảm khác nhau giữa các quốc gia, với Hoa Kỳ, Anh, Đức, Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha có tần suất từ 5-6% dân số, trong khi tại Việt Nam, tỷ lệ hiện mắc dao động từ 2,8% đến 8,35%.

2.1.2.2 Phân loại rối loạn trầm cảm

Trầm cảm, được biết đến từ thời Hippocrate với tên gọi “melancholia”, vẫn đang gây tranh cãi về cách phân loại Nhiều tác giả cho rằng có những khó khăn trong việc xác định rõ ràng các loại rối loạn trầm cảm Dưới đây là một số quan điểm phân loại hiện có.

- Quan điểm của ông Kendell: Ông phân ra hai loại trầm cảm:

+ Loại A: Trầm cảm có thay đổi khí sắc trong ngày

+ Loại B: Trầm cảm thay đổi khí sắc giữa các ngày

- Quan điểm của Hamilton: đưa ra 5 phân lớp trầm cảm:

+ Phân lớp 1: trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực, tiền sử có giai đoạn hưng cảm

+ Phân lớp 2: trầm cảm trong rồi loạn cảm xúc đơn cực, trong tiền sử có các giai đoạn trầm cảm

+ Phân lớp 3: trầm cảm có hoang tưởng sầu uất

+ Phân lớp 4: giai đoạn trầm cảm điển hình, tiền sử không có rối loạn cảm xúc

+ Phân lớp 5: giai đoạn trầm cảm nhẹ, thường có bệnh lý cơ quan kèm theo

- Quan điểm của Pinel và Kraepelin: hai Ông đã đưa ra ba cách xếp loại chính, hiện nay đang được áp dụng rộng rãi:

Cách một: dựa vào bệnh nguyên người ta chia trầm cảm làm ba loại: trầm cảm nội sinh, trầm cảm tâm sinh, trầm cảm thực tổn

Cách hai: dựa trên đặc điểm triệu chứng học chia ra trầm cảm không có loạn thần và trầm cảm có loạn thần

Trầm cảm có thể được phân loại thành hai loại chính: trầm cảm đơn cực và trầm cảm lưỡng cực, dựa trên giai đoạn, thời gian và đặc điểm mắc bệnh trong cuộc đời của mỗi người.

- Phân loại rối loạn trầm cảm hiện nay: theo ICD 10, rồi loạn trầm cảm được phân theo nhiều khía cạnh khác nhau

+ Phân loại theo mức độ: có ba mức

+ Phân loại theo sự hiện diện của triệu chứng loạn thần: có hai loại

* Giai đoạn trầm cảm không có triệu chứng loạn thần

* Giai đoạn trầm cảm có triệu chứng loạn thần

+ Phân loại dựa vào bệnh lý kết hợp và sự hiện diện theo thời gian

* Trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực

* Trầm cảm đơn cực: bao gồm:

+ Phân loại theo sự hiện diện của các triệu chứng cơ thể:

* Trầm cảm không có các triệu chứng cơ thể

* Trầm cảm có các triệu chứng cơ thể

+ Phân loại theo nguyên nhân:

- Triệu chứng rối loạn trầm cảm:

+ Ba triệu chứng đặc trưng gồm:

* Mất mọi quan tâm thích thú

* Giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động + Bảy triệu chứng khác gồm:

* Giảm sút sự tập trung và sự chú ý

* Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin

* Những ý tưởng bị tội và không xứng đáng

* Nhìn vào tương lai ảm đạm, bi quan

* Những ý tưởng và hành vi tự hủy hoại hoặc tự sát

* Ăn kém ngon miệng, đắng miệng, chán ăn

- Chẩn đoán rối loạn trầm cảm:

+ Tiêu chuẩn triệu chứng: được chia làm 3 mức độ:

* Mức độ nhẹ: ít nhất có 2 trong 3 triệu chứng đặc trưng và ít nhất có 2 trong 7 triệu chứng khác ở trên, không có triệu chứng nào ở mức độ nặng

Mức độ vừa được xác định khi có ít nhất 2 trong 3 triệu chứng đặc trưng và tối thiểu 3 trong 7 triệu chứng khác Nhiều triệu chứng sẽ biểu hiện rõ ràng, và nếu không rõ ràng, thì sẽ có nhiều triệu chứng khác nhau xuất hiện.

Mức độ nặng của bệnh được xác định khi người bệnh có đủ 3 triệu chứng đặc trưng và ít nhất 4 trong số 7 triệu chứng khác Nếu bệnh nhân không thể mô tả đầy đủ triệu chứng do mức độ nặng, vẫn được ghi nhận chuẩn đoán Lưu ý rằng mức độ nặng không xuất hiện trong rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm.

Tiêu chuẩn thời gian cho triệu chứng là kéo dài ít nhất 2 tuần, tuy nhiên, trong những trường hợp triệu chứng đặc biệt nặng và khởi phát nhanh, thời gian có thể ngắn hơn 2 tuần.

2.1.3 Rồi loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm

2.1.3.1 Các quan niệm về mối liên quan giữa lo âu và trầm cảm

Trước đây, lo âu và trầm cảm được xem là hai biểu hiện khác nhau của cùng một rối loạn Nhiều tác giả đã đề xuất khái niệm rằng hai trạng thái này có thể tồn tại song song và ảnh hưởng lẫn nhau.

Nghiên cứu một trường hợp bệnh cụ thể

1 Họ và tên bệnh nhân: PHẠM THỊ VIÊM

6 Địa chỉ: Cẩm Văn – Cẩm Giàng – Hải Dương

8 Lý do vào viện: Mất ngủ,buồn chán

9 Chẩn đoán: Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm

Theo gia đình bệnh nhân cho biết, bệnh nhân là con thứ 1/6 trong gia đình

Sự phát triển thể chất, tinh thần từ nhỏ đến lớn hoàn toàn bình thường lấy chồng và có 2 con khỏe mạnh

Bệnh nhân đã trải qua tình trạng buồn bã và ít nói trong hơn một tháng, kèm theo cảm giác mệt mỏi và giảm sút sự quan tâm đến mọi hoạt động Họ không còn hứng thú với việc đi chơi hay tham gia bất kỳ hoạt động nào, dẫn đến mất năng lượng và ăn uống kém Bệnh nhân gặp khó khăn trong giấc ngủ, thường xuyên thức dậy vào ban đêm và có nhịp tim nhanh, đặc biệt khi lo lắng Trước tình trạng này, gia đình đã quyết định đưa bệnh nhân đến Bệnh Viện Tâm Thần Trung ương để được điều trị.

I, xin khám và điều trị

- Bệnh nhân có biểu hiện bệnh khoảng hơn 1 tháng nay,bây giờ gia đình mới cho đi viện điều trị

- Gia đình không ai mắc bệnh tâm thần, động kinh

Tuần hoàn: Nhịp tim đều, nghe tiếng T1, T2 rõ

Hô hấp : Lồng ngực hai bên cân đối, nhịp thở đều

Tiêu hóa : Bụng mềm, không u cục, gan lách không sờ thấy

Thận, tiết niệu, sinh dục : Bình thường

Cơ – Xương - Khớp : Bình thường

Tai, mũi, họng : Bình thường

Răng, hàm, mặt : Bình thường

Các bệnh lý khác : Chưa thấy có biểu hiện bệnh lý b Thần kinh :

- Không có tổn thương liệt khu trú

- Vận động tứ chi : Không hạn chế vận động tứ chi

- Trương lực cơ : Bình thường

- Cảm giác ( nông, sâu ) : Không rối loạn

- Phản xạ : Phản xạ gân xương đáp ứng đều hai bên c Tâm thần :

-Biểu hiện chung : Tiếp xúc được

-Ý thức định hướng : Không gian, thời gian, bản thân : Xác định đúng

-Tình cảm, cảm xúc : Khí sắc giảm, khuôn mặt buồn bã, ít nói, lo lắng nhiều về bệnh

-Tri giác : Không có ảo tưởng, ảo giác

+ Hình thức : Nhịp chậm rời rạc

+ Nội dung : Không có hoang tưởng

+ Hành động ý trí : Chậm chạp, nằm nhiều, giảm quan tâm thích thú

+ Hoạt động bản năng : Ăn, ngủ kém

-Chú ý : Độ tập trung giảm d Các thuốc đang dùng cho người bệnh :

+ Zoloft 50mg × 3 viên ( uống 3 viên 20h )

+ Sedusen 5mg × 4 viên ( uống 2 viên 10h và 2 viên 20h )

* Chăm sóc : a Chăm sóc triệu chứng rối loạn lo âu, trầm cảm của người bệnh:

- Người bệnh được dùng thuốc theo chỉ định

- Điều dưỡng đã tiếp xúc với người bệnh, phổ biến nội quy, quy định của bệnh viện và khuyên người bệnh cũng như người nhà yên tâm điều trị

Điều dưỡng đã nhắc nhở người nhà cần cất hết các vật sắc nhọn để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân và người thân Đồng thời, việc cung cấp dinh dưỡng phù hợp với nhu cầu của bệnh nhân cũng rất quan trọng để hỗ trợ quá trình hồi phục.

Người bệnh tại bệnh viện được cung cấp suất ăn gồm bữa sáng với 1 bát cháo, bữa trưa có 1 bát cơm kèm rau và thịt, và bữa tối bao gồm 1 bát cơm, canh và đậu Tuy nhiên, người bệnh không có nhu cầu ăn thêm, mặc dù thỉnh thoảng người nhà có mua thêm trái cây hoặc sữa cho họ.

Điều dưỡng khuyến khích người bệnh ăn uống, nhưng nhiều bệnh nhân không có nhu cầu ăn uống đầy đủ Qua quan sát, nhận thấy rằng chế độ dinh dưỡng hàng ngày của họ chưa đáp ứng đủ nhu cầu Do đó, cần cải thiện khả năng tự chăm sóc cho người bệnh để đảm bảo họ nhận được dinh dưỡng cần thiết cho sức khỏe.

Người bệnh thường không chú trọng đến việc vệ sinh cá nhân, trong khi người nhà cũng ít quan tâm do không thường xuyên có mặt và cảm thấy chán nản Mặc dù điều dưỡng đã nhắc nhở, nhưng người bệnh vẫn không tuân thủ việc giữ gìn vệ sinh.

Người bệnh gặp khó khăn trong giấc ngủ, chỉ ngủ khoảng 4 giờ mỗi ngày do bị ảo thanh, với những tiếng nói trong đầu làm họ không thể ngủ được Dù điều dưỡng đã tư vấn rằng những tiếng nói này không có thật và khuyên người bệnh tập thể dục trước khi ngủ, tình trạng giấc ngủ của họ vẫn không được cải thiện nhiều.

Người bệnh người vận động, nằm một chỗ không chịu giao tiếp

Chán ăn: Cho bệnh nhân ăn những thức ăn dễ tiêu, giàu năng lượng, hợp khẩu vị với bệnh nhân

- Nếu có thể thì cho bệnh nhân ăn theo chế độ tự chọn trong thời gian đầu điều trị

Mất ngủ là vấn đề nghiêm trọng, do đó, người bệnh không nên ngủ trưa và cũng không nên đi ngủ quá sớm Việc nằm trên giường suốt cả ngày sẽ làm tình trạng mất ngủ trở nên nghiêm trọng hơn Khuyến khích người bệnh đi lại và vận động trong suốt cả ngày, nhưng cần tránh hoạt động quá nhiều vào buổi tối để không gây khó khăn khi ngủ.

Người bệnh rối loạn lo âu thường cảm thấy mệt mỏi suốt cả ngày, đặc biệt là vào buổi sáng Để hỗ trợ họ, cần khuyến khích việc vận động nhẹ nhàng, bắt đầu từ việc ngồi dậy, đứng lên và đi lại trong nhà Khi đã quen, có thể yêu cầu họ thực hiện các công việc đơn giản như nhặt rau, nấu cơm và quét nhà Ngoài ra, nên khuyến khích người bệnh tham gia các môn thể thao mà họ từng yêu thích như cầu lông, bóng bàn hay bơi lội để cải thiện sức khỏe và tinh thần.

Để cải thiện trí nhớ cho người bệnh, hãy đọc cho họ nghe những câu chuyện ngắn hoặc bài thơ mà họ yêu thích Sau đó, khuyến khích họ đọc báo, xem tivi hoặc nghe đài, nhưng cần tăng dần thời gian hoạt động để tránh gây mệt mỏi và chán nản.

Để đảm bảo hiệu quả điều trị, bệnh nhân cần tuân thủ đúng chỉ dẫn của bác sĩ khi sử dụng thuốc uống Trong giai đoạn đầu, bệnh nhân có thể gặp một số tác dụng phụ như khô miệng, đắng miệng, đầy bụng và mệt mỏi, nhưng đây là hiện tượng bình thường và cần tiếp tục sử dụng thuốc Nhiều bệnh nhân thường tự ý ngừng thuốc do những tác dụng phụ này, hoặc quên uống thuốc đúng giờ Do đó, người thân cần nhắc nhở và hỗ trợ bệnh nhân uống thuốc hàng ngày, kiểm tra xem họ có thực sự uống thuốc hay không và đảm bảo uống đủ liều lượng Việc giao nhiệm vụ quản lý thuốc cho một thành viên trong gia đình là rất quan trọng, chỉ nên thay đổi người quản lý trong các tình huống bất khả kháng.

Để đảm bảo quá trình điều trị hiệu quả, bệnh nhân cần tái khám thường xuyên và giữ liên lạc với bác sĩ, thông báo về tình trạng sức khỏe của mình Sau 1-2 tháng điều trị, khi bệnh nhân cảm thấy ổn định, họ thường có tâm lý chủ quan và ngừng tái khám, dẫn đến việc bỏ qua điều trị củng cố Điều này rất nguy hiểm vì có thể khiến bệnh tái phát, đòi hỏi nhiều công sức và thời gian điều trị hơn so với trước.

- Người bệnh cần được sự trợ giúp đỡ của mọi thành viên trong gia đình d Giáo dục sức khỏe cho người bệnh và người nhà:

- Người nhà và người bệnh đã được điều dưỡng phổ biến về nội quy khoa phòng và bệnh viện

Điều dưỡng đã tương tác với người nhà và bệnh nhân nhằm ổn định tâm lý cho người bệnh, đồng thời giải thích về tình trạng bệnh, phương pháp chăm sóc, và cách thức cho bệnh nhân uống thuốc.

Tại khoa, có một phòng giáo dục sức khỏe nhưng hầu như không được sử dụng, dẫn đến việc điều dưỡng chỉ cung cấp thông tin ngắn gọn cho bệnh nhân mà không đi sâu vào chi tiết Điều này khiến cho cả người bệnh và người nhà không hiểu rõ về bệnh tật cũng như nguyên nhân gây ra bệnh.

Một số ưu điểm và hạn chế 3 5 1 Ưu điểm 3 5 2 Hạn chế 3 6 3.3 Nguyên nhân của các tồn tại

3.2.1 Ưu điểm Điều dưỡng đã chăm sóc người bệnh theo quy định của Bộ Y Tế gồm:

Nghiêm túc thực hiện Quy chế bệnh viện là rất quan trọng, đặc biệt là trong việc áp dụng quy chế chăm sóc người bệnh toàn diện và quy chế quản lý buồng bệnh cũng như buồng thủ thuật.

- Nghiêm chỉnh thực hiện đầy đủ y lệnh của thầy thuốc

Chăm sóc người bệnh cần tuân thủ đúng quy định kỹ thuật của bệnh viện, trong đó điều dưỡng trung cấp và điều dưỡng chính có khả năng thực hiện các kỹ thuật cơ bản như lập kế hoạch chăm sóc, uống thuốc, tiêm thuốc, truyền dịch, thay băng, đặt thông, và thực hiện các kỹ thuật cấp cứu Họ cũng có trách nhiệm vận hành và bảo quản các thiết bị y tế trong khoa theo sự phân công.

Điều dưỡng cao cấp (cử nhân điều dưỡng) không chỉ thực hiện các nhiệm vụ của điều dưỡng chính mà còn đảm nhận các kỹ thuật chăm sóc phức tạp khi cần thiết Họ cũng tham gia vào công tác đào tạo, quản lý và sử dụng thành thạo các thiết bị y tế trong khoa.

Đối với bệnh nhân nặng, việc chăm sóc theo chỉ định y tế là rất quan trọng Cần báo cáo kịp thời mọi diễn biến bất thường cho bác sĩ điều trị để có biện pháp xử lý thích hợp.

- Ghi những thông số, dấu hiệu, triệu chứng bất thường của người bệnh và cách xử lí vào phiếu theo dõi và phiếu chăm sóc theo quy định

Cuối mỗi ngày làm việc, nhân viên y tế cần bàn giao bệnh nhân cho điều dưỡng trực, đồng thời ghi chép lại những y lệnh còn lại trong ngày và các yêu cầu theo dõi, chăm sóc cho từng bệnh nhân, đặc biệt là những trường hợp nặng.

- Bảo quản tài sản, thuốc, dụng cụ y tế; trật tự và vệ sinh buồng bệnh, buồng thủ thuật trong phạm vi được phân công

Tham gia nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực chăm sóc người bệnh là nhiệm vụ quan trọng, đồng thời hướng dẫn thực hành cho học viên về công tác chăm sóc người bệnh khi được điều dưỡng trưởng khoa phân công.

- Tham gia thường trực theo sự phân công của điều dưỡng trưởng khoa

- Động viên người bệnh an tâm điều trị Bản thân phải thực hiện tốt quy định y đức

- Thường xuyên tự học, cập nhật kiến thức

- Điều dưỡng lập kế hoạch chăm sóc cho người bệnh còn sơ sài, chưa đáp ứng hết nhu cầu chăm sóc của người bệnh

- Điều dưỡng chưa thực sự lắng nghe tâm tư nguyện vọng của người bệnh để giúp đỡ họ về mặt tâm lý

Điều dưỡng chưa thực hiện hiệu quả việc giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân, dẫn đến việc thiếu kiến thức về bệnh trầm cảm cho cả người bệnh và gia đình họ.

- Hoạt động giám sát, đánh giá của điều dưỡng Trưởng chưa thường xuyên, chưa hiệu quả

- Điều dưỡng làm việc theo mô hình nhóm/ca, họ phụ trách 2 đến 3 buồng bệnh nên không có thời gian nhiều dành cho người bệnh

- Việc tổ chức các hoạt động tập thể tại các khoa như thể dục thể thao, lao động làm vườn gần như là không có

3.3 Nguyên nhân của các tồn tại

- Bố trí nhân lực theo mô hình chưa hợp lý

- Năng lực điều dưỡng còn hạn chế do chưa yên tâm công tác

- Nhân viên y tế nói chung và điều dưỡng nói riêng chưa phát huy hết các liệu pháp tâm lý dùng cho người bệnh

- Thiếu các văn bản pháp quy hoặc chế tài chưa đủ mạnh nên việc giám sát, đánh giá chưa hiệu quả

- Bệnh viện chưa có đủ cơ sở vật chất cho người bệnh tập luyện và lao động

3.3.2 Đối với người nhà người bệnh

Nhiều gia đình có người bệnh thường cảm thấy chán nản và mệt mỏi, dẫn đến sự thiếu quan tâm cần thiết đối với người bệnh Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, họ thường bỏ mặc người bệnh, không đưa đi viện hoặc nếu có đưa đi thì lại để người bệnh một mình tại bệnh viện mà không chăm sóc.

Gia đình người bệnh thường thiếu kiến thức về bệnh tật và cách chăm sóc người bệnh, dẫn đến quan niệm sai lầm rằng bệnh là do ma quỷ gây ra, nên họ thường đưa bệnh nhân đi cúng bái tại các phủ, đền, chùa Chỉ khi kinh tế kiệt quệ mà bệnh tình không thuyên giảm, họ mới quyết định đưa bệnh nhân đến bệnh viện để khám và điều trị.

Chế độ lao động, làm việc và dinh dưỡng của người bệnh rối loạn lo âu cần được gia đình chú trọng hơn, bao gồm việc cung cấp thực phẩm dễ tiêu, giàu năng lượng và nhiều rau xanh phù hợp với khẩu vị của bệnh nhân Bên cạnh đó, khuyến khích bệnh nhân thực hiện các hoạt động nhẹ nhàng như ngồi dậy, đứng lên, đi lại trong phòng, nhặt rau, nấu cơm, quét nhà và tham gia các môn thể thao mà họ từng yêu thích.

Việc không động viên và giao cho bệnh nhân những công việc nhẹ nhàng phù hợp với khả năng lao động của họ có thể dẫn đến áp lực quá mức Khi bệnh nhân bị áp đặt công việc quá sức, họ có thể không hoàn thành nhiệm vụ, gây ra cảm giác tự ti, bi quan và chán nản.

Đề xuất giải pháp nhằm cải thiện hoạt động chăm sóc người bệnh nữ rối loạn lo âu

Ngày đăng: 03/09/2021, 10:24

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w