Cơ sở lý luận
Tăng huyết áp là khi huyết áp tâm thu (HATT) ≥ 140mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương (HATTr) ≥ 90mmHg [2]
1.1.2 Phân độ tăng huyết áp
Bảng 1.1: Phân độ tăng huyết áp theo Tổ chức Y tế Thế giới 2003 [2]
Phân độ HATT (mmHg) HATTr (mmHg)
HA bình thường cao 130 – 139 và 85 – 89
THA tâm thu đơn độc ≥ 140 và < 90
* THA nguyên phát: chiếm gần 90% trường hợp bị THA không biết nguyên nhân
* Các nguyên nhân THA thứ phát:
- Bệnh thận: Viêm cầu thận cấp, viêm cầu thận mạn, ứ nước bể thận, u thận
+ Bệnh vỏ tuyến thượng thận, hội chứng Cushing, hội chứng tăng aldosteron tiên phát, sai lạc trong sinh tổng hợp Corticosteroid
+ Bệnh tủy thượng thận, u tủy thượng thận
- Bệnh tim mạch: Bệnh hẹp eo động mạch chủ, viêm hẹp động mạch chủ bụng, hở van động mạch chủ
- Tăng huyết áp thai kỳ: Tăng huyết áp thường xuất hiện trên sản phụ mang thai ở tuần thứ 20 của thai kỳ
- Các nguyên nhân khác: Bệnh cường giáp, bệnh đa hồng cầu, toan hô hấp…
1.1.4 Triệu chứng của tăng huyết áp
1.1.4.1 Triệu chứng cơ năng Đa số người bệnh THA không có triệu chứng gì cho đến khi phát hiện bệnh Đau đầu vùng chẩm là triệu chứng thường gặp Các triệu chứng khác có thể gặp là hồi hộp, mệt, đau đầu, khó thở, mờ mắt không đặc hiệu Một số triệu chứng khác của THA tùy vào nguyên nhân hoặc biến chứng THA [2]
Chỉ số HATT ≥ 140 mmHg và/hoặc HATTr ≥ 90 mmHg [2]
1.1.4.3 Các dấu hiệu của bệnh lý kèm theo hoặc biến chứng
- Người bệnh (NB) có thể béo phì, mặt tròn trong hội chứng Cushing, cơ chi trên phát triển hơn cơ chi dưới trong bệnh hẹp eo động mạch chủ
- Khám tim mạch có thể phát hiện sớm dày thất trái hay dấu suy tim trái
Khám bụng có thể giúp phát hiện tiếng thổi tâm thu ở hai bên rốn, điều này có thể chỉ ra hẹp động mạch thận hoặc phồng động mạch chủ Ngoài ra, việc khám cũng có thể phát hiện tình trạng thận to hoặc thận đa nang.
- Khám thần kinh có thể phát hiện các tai biến mạch não cũ hoặc nhẹ
- Biến chứng về tim: Cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, suy tim…
- Biến chứng về não: Xuất huyết não, nhũn não, bệnh não do THA…
- Biến chứng về thận: Đái ra protein, phù, suy thận…
- Biến chứng về mắt: Mờ mắt, xuất huyết, xuất tiết và phù gai thị
- Biến chứng về mạch máu: Phình hoặc phình tách thành động mạch
Hình 1.1: Minh hoạ các biến chứng của tăng huyết áp Nguồn: Chăm sóc người lớn bệnh nội khoa – NXB Y học, 2018
1.1.6 Điều trị tăng huyết áp
Bệnh THA là bệnh mạn tính cần theo dõi và điều trị hàng ngày, với mục tiêu đạt huyết áp mục tiêu và giảm nguy cơ tim mạch Sau khi đạt được huyết áp mục tiêu, cần duy trì phác đồ điều trị lâu dài và theo dõi định kỳ để điều chỉnh kịp thời Để đạt được mục tiêu này, bác sĩ cần điều chỉnh chỉ số huyết áp và các yếu tố nguy cơ liên quan, với trị số huyết áp nên hạ xuống dưới 140/90 mmHg, đặc biệt ở bệnh nhân có tiểu đường.
NB có nguy cơ cao hoặc nguy cơ rất cao thì nên đưa trị số HA xuống dưới mức 130/80 mmHg [16]
1.1.6.1 Điều trị tăng huyết áp không dùng thuốc Điều trị THA không dùng thuốc còn gọi là thay đổi lối sống nhằm đạt được mục tiêu: Phòng ngừa bệnh THA, hạ HA và giảm các yếu tố nguy cơ tim mạch khác như bệnh động mạch vành Tất cả những NB đang dùng thuốc hạ HA đều cần được nhắc nhở thay đổi lối sống mỗi khi tái khám [6] Các biện pháp không dùng thuốc như ngưng hút thuốc lá, giảm cân, giảm natri máu, tăng cường vận động thể lực và một số biện pháp khác như ăn nhiều trái cây, đậu, uống rượu vừa phải, ăn nhiều chất sợi, thư giãn…
1.1.6.2 Điều trị tăng huyết áp bằng thuốc tại tuyến cơ sở
Đối với bệnh nhân tăng huyết áp độ 1, có thể lựa chọn một trong các loại thuốc sau: lợi tiểu thiazide liều thấp, ức chế men chuyển, chẹn kênh canxi loại tác dụng kéo dài, hoặc chẹn beta giao cảm nếu không có chống chỉ định.
Đối với người mắc tăng huyết áp từ độ 2 trở lên, việc điều trị hiệu quả thường yêu cầu phối hợp hai loại thuốc Các lựa chọn thuốc bao gồm lợi tiểu, chẹn kênh canxi, ức chế men chuyển, ức chế thụ thể AT1 của angiotensin II và chẹn beta giao cảm.
Để điều trị huyết áp cao, cần phối hợp từ từ các loại thuốc hạ huyết áp cơ bản, bắt đầu với liều thấp Cụ thể, có thể sử dụng lợi tiểu thiazide như hydrochlorothiazide 12.5mg/ngày, chẹn kênh canxi dạng phóng thích chậm như nifedipine chậm 10-20mg/ngày, và ức chế men chuyển như enalapril 5mg/ngày hoặc perindopril 2,5-5mg/ngày.
Khi điều trị tăng huyết áp (THA), bác sĩ cần hạ huyết áp xuống dưới 140/90 mmHg, hoặc dưới 130/80 mmHg đối với bệnh nhân tiểu đường hoặc suy thận, đồng thời tránh tác dụng phụ của thuốc Nhiều bệnh nhân THA không có triệu chứng rõ ràng nên thường không chú ý đến tình trạng của mình, và có thể tự ý ngưng thuốc khi huyết áp ổn định Do đó, bác sĩ cần chú ý đến các yếu tố để tăng cường sự tuân thủ điều trị và phát hiện sớm các dấu hiệu không tuân thủ Việc quản lý bệnh nhân tại tuyến cơ sở là rất quan trọng để đảm bảo bệnh nhân uống thuốc đầy đủ, đúng cách và thường xuyên, đồng thời giám sát quá trình điều trị, tái khám và phát hiện sớm các biến chứng cũng như tác dụng phụ của thuốc.
1.1.7 Phòng bệnh và biến chứng
Để phòng ngừa tăng huyết áp (THA) và các biến chứng liên quan, đặc biệt ở người cao tuổi, bên cạnh việc tuân thủ sử dụng thuốc, cần thiết phải tích cực thay đổi lối sống.
1.1.8 Tuân thủ điều trị tăng huyết áp
1.1.8.1 Khái niệm tuân thủ điều trị tăng huyết áp
Năm 2013, Tổ chức Y tế thế giới đưa ra định nghĩa tuân thủ điều trị (TTĐT) là
Mức độ hành vi của người bệnh (NB) bao gồm việc sử dụng thuốc, thực hiện chế độ ăn uống và thay đổi lối sống theo hướng dẫn của nhân viên y tế Tuân thủ điều trị (TTĐT) được chia thành hai phần: tuân thủ sử dụng thuốc và tuân thủ các biện pháp không dùng thuốc Trong chuyên đề này, TTĐT được hiểu là việc thực hiện nghiêm túc các khuyến nghị của Bộ Y tế về Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp (THA) năm 2010 Việc tuân thủ thuốc yêu cầu người bệnh uống thuốc đúng, đủ và đều đặn theo đơn của bác sĩ, bao gồm cả việc sử dụng thuốc khi huyết áp bình thường và không tự ý thay đổi thuốc hoặc liều lượng.
1.1.8.2 Thực hiện các biện pháp thay đổi lối sống [2]
Người bệnh THA tích cực thay đổi lối sống để ngăn ngừa tiến triển và giảm được HA, giảm số thuốc cần dùng
- Chế độ ăn hợp lý, đảm bảo đủ kali và các yếu tố vi lượng:
+ Giảm ăn mặn (< 6 gam muối hay 1 thìa cà phê muối mỗi ngày)
+ Tăng cường rau xanh, hoa quả tươi
+ Hạn chế thức ăn có nhiều cholesterol và axít béo no
- Tích cực giảm cân (nếu quá cân), duy trì cân nặng lý tưởng với chỉ số khối cơ thể (BMI: body mass index) từ 18,5 đến 22,9 kg/m2
- Cố gắng duy trì vòng bụng dưới 90cm ở nam và dưới 80cm ở nữ
Để duy trì sức khỏe, hạn chế uống rượu, bia là rất quan trọng Đối với nam giới, nên uống không quá 3 cốc chuẩn mỗi ngày và tổng cộng không vượt quá 14 cốc chuẩn mỗi tuần Đối với nữ giới, lượng tiêu thụ nên ít hơn 2 cốc chuẩn mỗi ngày và không quá 9 cốc chuẩn mỗi tuần Một cốc chuẩn chứa 10g ethanol, tương đương với 330ml bia, 120ml rượu vang hoặc 30ml rượu mạnh.
- Ngừng hoàn toàn việc hút thuốc lá hoặc thuốc lào
- Tăng cường hoạt động thể lực ở mức thích hợp: tập thể dục, đi bộ hoặc vận động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30 - 60 phút mỗi ngày
- Tránh lo âu, căng thẳng thần kinh; cần chú ý đến việc thư giãn, nghỉ ngơi hợp lý
- Tránh bị lạnh đột ngột
1.1.8.3 Tuân thủ sử dụng thuốc
Hiện nay, nhiều nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới sử dụng các khái niệm khác nhau để mô tả việc sử dụng thuốc của bệnh nhân, bao gồm tuân thủ, sử dụng thuốc phù hợp, và tuân thủ trong việc dùng thuốc.
Hội nghị Châu Âu về giám sát tuân thủ sử dụng thuốc năm 2009 định nghĩa tuân thủ thuốc là “quá trình bệnh nhân sử dụng thuốc theo chỉ định” Tuân thủ sử dụng thuốc của bệnh nhân bao gồm ba yếu tố chính: bắt đầu sử dụng thuốc khi được kê đơn, mức độ thực hiện theo chỉ định, và dừng sử dụng thuốc khi cần thiết.
NB uống thuốc điều trị THA cần [2]:
- Phải tuân thủ uống thuốc theo đơn của bác sỹ
- Không tự ý thay đổi thuốc và liều lượng
- Uống thuốc thường xuyên, lâu dài, liên tục ngay cả khi huyết áp bình thường
- Khám bệnh và kiểm tra HA
Như vậy, khi NB THA có một và/hoặc nhiều hành vi sau thì được tính là NB có hành vi nguy cơ trong tuân thủ sử dụng thuốc:
- NB tự ngừng sử dụng thuốc khi chưa hết đợt điều trị
- NB bớt loại thuốc theo chỉ định
- Tái không tái khám định kỳ theo lịch hẹn của bác sỹ
1.1.8.4 Khám bệnh và kiểm tra huyết áp Điều trị đạt kết quả tốt là khi đạt được HA mục tiêu và ngăn ngừa được biến chứng tim mạch và tổn thương cơ quan khác như: thận, não, mắt,…; vì vậy việc theo dõi thường xuyên chỉ số cao HA, khám bệnh định kỳ, theo dõi HA theo chỉ dẫn của bác sỹ, tái khám đúng hẹn thì NB phải đi khám ngay nếu uống thuốc không hiệu quả
NB cần được xét nghiệm định kỳ để phát hiện các tổn thương và đánh giá các yếu tố nguy cơ tim mạch khác [9]
1.1.8.5 Một số yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị tăng huyết áp
Thói quen hút thuốc lá
Nghiên cứu dịch tễ học bệnh tăng huyết áp (THA) tại Việt Nam cho thấy, nhóm người hút thuốc lá nhiều (trên 8 điếu/ngày) có tỷ lệ mắc THA cao hơn đáng kể so với nhóm không hút thuốc Tuy nhiên, đối với những người hút dưới 8 điếu/ngày, tỷ lệ THA giữa hai nhóm này không có sự khác biệt rõ rệt.
Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Thực trạng tuân thủ điều trị tăng huyết áp trên thế giới
Tăng huyết áp (THA) là một yếu tố nguy cơ cao đối với bệnh tim mạch ở các nước phát triển và đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn cầu do gia tăng tuổi thọ và tần suất các yếu tố nguy cơ THA ước tính gây tử vong cho 7,1 triệu người trẻ tuổi và chiếm 4,5% gánh nặng bệnh tật toàn cầu Nhiều thử nghiệm lớn trên thế giới đã chứng minh rằng điều trị THA có tác dụng giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh, biến chứng và tử vong do các vấn đề tim mạch.
Tuân thủ điều trị là yếu tố quan trọng trong quản lý tăng huyết áp (THA), nhưng không phải bệnh nhân nào cũng thực hiện đúng cách Nghiên cứu của Ezulier và Hussain (2000) cho thấy 92% bệnh nhân tuân thủ điều trị (TTĐT) đã kiểm soát huyết áp, so với chỉ 18% ở nhóm không tuân thủ Ngoài ra, tỷ lệ biến chứng ở bệnh nhân TTĐT là 30,1%, trong khi ở nhóm không TTĐT lên tới 46,3% Một trong những lý do chính khiến 36,8% bệnh nhân không tuân thủ là do họ không đủ khả năng chi trả cho thuốc hạ huyết áp.
Năm 2013, một nghiên cứu mô tả cắt ngang đã được thực hiện với 170 bệnh nhân điều trị tăng huyết áp trong chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Serbia Kết quả cho thấy các yếu tố quan trọng dẫn đến việc không tuân thủ điều trị bao gồm: không tuân thủ liều dùng (27,27%), hay quên (22,73%) và không thường xuyên kiểm tra sức khỏe (11,36%) Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tác dụng phụ xảy ra ở nhóm không tuân thủ chế độ điều trị cao hơn nhiều so với nhóm tuân thủ.
Hình 1.2: Biểu đồ minh hoạ nguyên nhân của ít tuân thủ thuốc [24]
Nghiên cứu năm 2011 của Osamor Pauline và Owumi Bernard tại Tây Nam Nigeria cho thấy chỉ 51% đối tượng đạt được kiểm soát huyết áp hiệu quả, với các yếu tố tuân thủ như thường xuyên đi khám và nhận sự hỗ trợ từ gia đình hoặc bạn bè trong việc nhắc nhở uống thuốc Biểu đồ minh họa các tác dụng phụ của điều trị hạ huyết áp cũng phản ánh những thách thức trong việc duy trì tuân thủ điều trị.
Một nghiên cứu tại Brazil của Daniel và Eugenia (2013) cho thấy tỷ lệ bệnh nhân (NB) bỏ trị trong năm đầu điều trị dao động từ 16-50% Hầu hết bệnh nhân cần ít nhất hai loại thuốc chống tăng huyết áp (THA), với khoảng 30% cần ba loại thuốc hoặc nhiều hơn Một nửa số bệnh nhân ngừng điều trị trong vòng một năm sau chẩn đoán, và chỉ có một nửa tuân thủ điều trị Sự tuân thủ này bị ảnh hưởng bởi lựa chọn thuốc, bệnh kết hợp và việc sử dụng dịch vụ sức khỏe Nhiều khảo sát chỉ ra rằng khoảng 75% bệnh nhân THA không đạt được huyết áp tối ưu Nguyên nhân của sự thất bại này rất phức tạp, bao gồm việc không phát hiện sớm THA, sự tuân thủ điều trị không đầy đủ, thiếu hướng dẫn từ bác sĩ và các liệu pháp chưa đầy đủ.
Nghiên cứu quốc tế cho thấy tỷ lệ người bệnh điều trị tăng huyết áp (TTĐT) cao giúp kiểm soát huyết áp hiệu quả và giảm thiểu biến chứng Ngược lại, một tỷ lệ không nhỏ bệnh nhân không điều trị do khó khăn về kinh tế, dẫn đến việc không đủ khả năng mua thuốc.
1.2.2 Thực trạng tuân thủ điều trị tăng huyết áp ở Việt Nam
Nghiên cứu của Trần Thị Loan tại bệnh viện C tỉnh Thái Nguyên (2012) trên 210 bệnh nhân THA cho thấy tỷ lệ tuân thủ thuốc chỉ đạt 51,4%, trong khi tuân thủ thay đổi lối sống là 47,1%, và tổng tỷ lệ tuân thủ điều trị THA chỉ đạt 35,7% Mức độ kiến thức của bệnh nhân về bệnh và chế độ điều trị đạt 57,6% Phân tích hồi quy đa biến chỉ ra rằng giới tính, trình độ học vấn, sự hướng dẫn của cán bộ y tế, mức độ nhắc nhở về tuân thủ điều trị, biến chứng của bệnh và mức độ THA là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tuân thủ chế độ điều trị.
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Đức (2012) tại bệnh viện Bạch Mai cho thấy trong số 194 hội viên Câu lạc bộ NB THA, nữ giới chiếm 63,4% và nhóm tuổi trên 60 chiếm 72,27% Đặc biệt, 86,6% đối tượng nghiên cứu đã nghỉ hưu, trong khi 77,8% mắc bệnh THA ở mức độ vừa và nặng Tỷ lệ bệnh nhân có biến chứng là 80,4%, và 84,5% đạt kiến thức về bệnh cũng như tuân thủ điều trị Các kiến thức về chế độ ăn, tập luyện và sử dụng thuốc huyết áp đều trên 90% Tuy nhiên, 33% bệnh nhân vẫn hiểu sai rằng THA có thể chữa khỏi Tỷ lệ tuân thủ điều trị của bệnh nhân đạt 85,6%, với tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc, chế độ ăn nhạt và không hút thuốc lần lượt là 75,8%, 92,8% và 97,45%.
Nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Khanh (2013) về sự thỏa mãn điều trị tại Khoa Nội Tim mạch Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang đã khảo sát các yếu tố liên quan đến sự thỏa mãn của bệnh nhân trong quá trình điều trị Kết quả cho thấy mức độ thỏa mãn của bệnh nhân ảnh hưởng lớn đến hiệu quả điều trị và sự tuân thủ y tế Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện chất lượng dịch vụ y tế nhằm nâng cao trải nghiệm của bệnh nhân.
Trong nghiên cứu, 86,9% bệnh nhân (BN) uống thuốc mỗi ngày và 87,4% tuân thủ theo toa bác sĩ Tỷ lệ BN tái khám đều đặn đạt 78,1%, trong khi 73,2% BN bỏ thuốc lá và 71% hạn chế uống rượu Nguyên nhân chính khiến BN không tuân thủ điều trị là lo ngại về hạ huyết áp (65%), tác dụng phụ của thuốc (53%) và khó khăn tài chính (48,6%) Tỷ lệ BN quên uống thuốc chỉ chiếm 19,7% Tổng cộng, tỷ lệ BN tuân thủ điều trị tăng huyết áp (THA) chỉ đạt 26,3%.
Tỷ lệ tuân thủ với các khuyến cáo về điều trị thuốc, chế độ ăn uống, không hút thuốc, hạn chế uống rượu/bia, tập thể dục và theo dõi huyết áp thường xuyên lần lượt là 61,5%, 40,4%, 95,4%, 21,9%, 20% Đặc biệt, tỷ lệ tuân thủ cả 6 khuyến cáo chỉ đạt 1,9% Đây là kết quả từ nghiên cứu cắt ngang có phân tích của Nguyễn Hải Yến trên 260 bệnh nhân.
NB THA đến khám và điều trị ngoại trú tại khoa Khám bệnh, bệnh viện E, năm 2011[18]
Theo nghiên cứu của Đỗ Thị Bích Hạnh (2013) về thực trạng tuân thủ điều trị tăng huyết áp (THA) tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước, tỷ lệ tuân thủ điều trị chung chỉ đạt 33,3%, trong đó tuân thủ thuốc đạt 56,3%, chế độ ăn 27,4%, đo huyết áp và tái khám định kỳ 31,3%, và chế độ tập luyện 29,8% Đặc biệt, tỷ lệ không hút thuốc lá đạt 84,7% và hạn chế uống bia/rượu là 82,6% Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc tuân thủ điều trị có liên quan đến việc được cán bộ y tế giải thích rõ về chế độ điều trị, với những người được giải thích có xu hướng tuân thủ thuốc cao hơn 3,5 lần Thời gian điều trị, kiến thức về bệnh và chế độ điều trị cũng ảnh hưởng đến tuân thủ chế độ ăn Các yếu tố như tuổi tác, nghề nghiệp, tiền sử bệnh, trình độ cán bộ y tế và sự hỗ trợ từ xã hội đều có mối liên quan thống kê với tuân thủ điều trị Ngoài ra, nghiên cứu của Lý Huy Khanh tại bệnh viện Trưng Vương cho thấy 79% bệnh nhân THA ngừng điều trị sau 6 tháng.
Năm 2017, nghiên cứu của Kiên Sóc Kha về tình hình tuân thủ điều trị tăng huyết áp (THA) của bệnh nhân ngoại trú tại Trà Vinh cho thấy tỷ lệ tuân thủ chung đạt 48,57% Cụ thể, 72,57% bệnh nhân giảm ăn mặn, 95,4% hạn chế rượu bia, và 74,3% bỏ thuốc lá hoặc không hút thuốc trong quá trình điều trị Tỷ lệ tuân thủ chế độ tập luyện hàng ngày từ 30-60 phút đạt 89,71% Hầu hết bệnh nhân được quản lý và điều trị tại Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh với tỷ lệ tái khám hàng tháng đạt 99,10% Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ dùng thuốc điều trị THA là 94,86%, tuy nhiên, tỷ lệ theo dõi huyết áp tại nhà chỉ đạt 28%.
NB được khám, theo dõi và điều trị THA đạt được trị số huyết áp mục tiêu [11]
Nghiên cứu trong nước cho thấy tỷ lệ người bệnh không tuân thủ điều trị tăng huyết áp (THA) vẫn còn cao, bao gồm việc không tuân thủ chế độ thuốc, chế độ ăn uống, không hút thuốc, hạn chế uống rượu/bia, tập thể dục, và không theo dõi huyết áp thường xuyên tại nhà Các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tuân thủ chế độ điều trị THA bao gồm giới tính, trình độ học vấn, sự hướng dẫn của cán bộ y tế về chế độ điều trị, mức độ nhắc nhở từ cán bộ y tế, biến chứng của bệnh THA, và mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh THA tại Phòng khám khoa Nội A, bệnh viện 19-8 năm 2019
2.1.1 Giới thiệu sơ lược về Bệnh viện 19-8
Bệnh viện 19-8, thuộc Bộ Công an, được thành lập vào ngày 14/9/1961, tọa lạc tại số 9, Trần Bình, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội Bệnh viện thực hiện đầy đủ các chức năng như khám chữa bệnh, phát triển kỹ thuật mới, đào tạo, nghiên cứu khoa học, kiểm soát nhiễm khuẩn và hợp tác quốc tế Đặc biệt, bệnh viện cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ Công an tại các tỉnh phía Bắc và tiếp nhận bệnh nhân từ Hà Nội và các tỉnh lân cận để điều trị tại khoa Khám chữa bệnh.
Với 58 năm trưởng thành và phát triển, Bệnh viện 19-8 đã được xây dựng khang trang, hiện đại, tương đối hoàn chỉnh (do tính chất đặc thù nên bệnh viện không có khoa Nhi), với 39 khoa phòng, trung tâm Giường kế hoạch là 600 giường, giường thực kê 790 Tổng số cán bộ và công nhân viên 949 PGS Tiến sỹ y 01, Tiến sỹ y 07, Thạc sỹ y 58, BSCKII 12, BSCKI 39, bác sỹ 108 Số Điều dưỡng đại học 111, cao đẳng điều dưỡng 23, trung cấp điều dưỡng là 240 nhưng hiện nay 100% đang theo học cao đẳng và liên thông Các chuyên nghành khác như KTV, dược, tài chính tổng số 23 thạc sỹ, đại học 99, cao đẳng 22, trung cấp 61 Còn lại là công nhân viên và hợp đồng lao động sàng, tuy nhiên phân bố theo số lượng NB của từng khoa khác nhau Các đơn vị Dược lâm sàng, đơn vị giảm đau điện quang can thiệp được thành lập góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và điều trị NB Bệnh viện đã trang bị nhiều máy móc hiện đại điển hình như máy chụp cắt lớp 256 dãy, máy MRI, máy chụp và can thiệp mạch, máy xét nghiệm miễn dịch tự động, máy tán sỏi ngoài cơ thể, hệ thống mạng Land, …), triển khai và phát triển nhiều kỹ thuật mới, tiên tiến, chuyên sâu (mổ tim hở, thay khớp, đổ xi măng cột sống, can thiệp tim mạch điều trị nhồi máu cơ tim, bệnh mạch vành, mạch não, điều trị tiêu sợi huyết/hút huyết khối cho NB tai biến mạch máu não, nút mạch gan,can thiệp giảm đau ) Hoạt động chuyên môn khám chữa bệnh Bệnh viện ngày càng tiến bộ vượt bậc, tính chuyên nghiệp ngày càng cao để đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng cao trong khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của NB theo tiêu chuẩn và nhân dân trên địa bàn Hà Nội cũng như nhân dân khu vực lân cận
Bệnh viện 19-8 không chỉ chú trọng đến việc điều trị cho bệnh nhân mà còn đặc biệt quan tâm đến giáo dục sức khỏe cho cả bệnh nhân và người nhà Mỗi tháng, các khoa trong bệnh viện tổ chức ít nhất một buổi tuyên truyền giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân nội trú Ngoài ra, một số khoa chuyên khoa đã thành lập các câu lạc bộ như Câu lạc bộ Bệnh nhân Tăng huyết áp, Câu lạc bộ Bệnh nhân Đái tháo đường và Câu lạc bộ Bệnh nhân Suy thận mạn, tổ chức các hoạt động định kỳ hàng quý để tư vấn và giáo dục sức khỏe, được bệnh nhân đánh giá cao và tham gia tích cực.
2.1.2 Giới thiệu sơ lược về khoa Nội A, Bệnh viện 19-8
Khoa Nội A Bệnh viện 19-8 là một trong 39 khoa và trung tâm của bệnh viện, chuyên khám và điều trị cho cán bộ cao cấp của ngành Nhà nước, bao gồm các cán bộ lão thành cách mạng và từ thượng tá trở lên Ngoài ra, bác sĩ và điều dưỡng trong khoa còn tham gia phục vụ các hội nghị lớn của Đảng và Nhà nước, như họp Quốc hội và đón tiếp đoàn khách quốc tế.
Hiện tại, khoa có tổng cộng 31 cán bộ viên chức, bao gồm 9 bác sĩ, trong đó có 8 bác sĩ đã được đào tạo sau đại học và chuyên sâu về các bệnh lý tim mạch, đặc biệt là tăng huyết áp Ngoài ra, khoa còn có 18 điều dưỡng, trong đó có 6 cử nhân đại học điều dưỡng và 4 hộ lý Khoa được tổ chức thành 2 bộ phận riêng biệt.
Bộ phận điều trị nội trú có 40 giường kế hoạch và 51 giường thực kê, với cơ sở vật chất hiện đại và tiện nghi Các buồng bệnh được trang bị đầy đủ tivi, tủ lạnh và điều hòa trung tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh nhân Trung bình mỗi năm, bệnh nhân điều trị khoảng 12 ngày, với công suất sử dụng giường đạt 90%.
Bộ phận khám, điều trị ngoại trú của bệnh viện có 03 phòng khám, bao gồm 01 phòng dành riêng cho cán bộ cấp cao, được trang bị đầy đủ điều hòa và hệ thống công nghệ thông tin kết nối toàn bệnh viện Tuy nhiên, khu khám bệnh khoa Nội A còn hạn chế về không gian, thiếu các thiết bị như tivi, pano, bảng thông tin y tế, và phòng truyền thông Các bác sĩ phụ trách đều có trình độ sau đại học và thường xuyên tham gia các buổi sinh hoạt khoa học về tim mạch và tiểu đường Người bệnh lần đầu được kiểm tra huyết áp, làm xét nghiệm máu, nước tiểu, siêu âm, và điện tim để đánh giá tình trạng sức khỏe Khoa có giám sát quá trình điều trị và tái khám, mỗi bệnh nhân đều có hồ sơ bệnh án lâu dài và sổ theo dõi tại nhà Điều dưỡng thường xuyên gọi điện hỏi thăm và nhắc nhở lịch khám hàng tháng, giúp bác sĩ có thời gian tư vấn cho bệnh nhân Trung bình mỗi năm, khoa khám cho hơn 22.000 lượt bệnh nhân, với khoảng 90 bệnh nhân mỗi ngày, tuy nhiên, số lượng bệnh nhân khám vào buổi chiều rất ít do thói quen, dẫn đến tình trạng quá tải vào buổi sáng.
Khoa được trang bị đầy đủ trang thiết bị hiện đại như máy thở, máy siêu âm khớp, máy nội soi phế quản, máy Holter mạch, máy Holter huyết áp và máy Fibrocan, nhằm đảm bảo hiệu quả trong việc khám, điều trị và chẩn đoán bệnh.
Thực trạng tuân thủ điều trị của NB THA tại Phòng khám khoa Nội A, Bệnh viện 19.8 năm 2019
Để đánh giá khách quan tình hình tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp (THA) đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 90 bệnh nhân.
2.2.1 Đối tượng khảo sát và phương pháp thu thập số liệu Đối tượng khảo sát (ĐTKS): Khảo sát được thực hiện ở NB THA đến khám và điều trị ngoại trú tại khoa Nội A Bệnh viện 19.8 trong thời gian từ 01/10/2019 đến hết 31/10/2019
NB đã được chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp (THA) ít nhất 06 tháng trước thời điểm phỏng vấn Bệnh nhân đã khám và điều trị ngoại trú tại Phòng khám khoa Nội A của Bệnh viện 19-8 trong khoảng thời gian từ 01/10/2019 đến 31/10/2019.
- Đủ sức khỏe tham gia trả lời các câu hỏi phỏng vấn trong bộ câu hỏi
- Người bệnh đồng ý tham gia
- NB không đủ sức khỏe tham gia trả lời các câu hỏi phỏng vấn
- NB khi đến tái khám phải vào điều trị nội trú
Để thu thập số liệu, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp nhóm bệnh nhân (NB) bằng bộ câu hỏi phỏng vấn (Phụ lục 1) Mục tiêu của việc này là mô tả thực trạng tuân thủ điều trị tăng huyết áp (THA), bao gồm hai phần chính.
- Phần I: Thông tin chung của ĐTKS (gồm 10 câu hỏi)
- Phần II: Thông tin về tuân thủ điều trị THA của ĐTKS (gồm 06 mục):
Mục A: Thông tin về tuân thủ thuốc điều trị THA: gồm 9 câu hỏi từ A1 đến A9, trả lời có hoặc không
Trong Mục B, chúng tôi cung cấp thông tin về việc tuân thủ chế độ ăn trong điều trị tăng huyết áp (THA) Các câu hỏi từ B1 đến B8 sẽ đánh giá chế độ ăn của bệnh nhân trong một tuần trước khi đến khám, nhằm xác định xem họ có tuân thủ các tiêu chí như hạn chế ăn mặn và đồ xào rán hay không.
Mục C của bài viết đề cập đến việc tuân thủ không hút thuốc lá hoặc thuốc lào và hạn chế uống bia rượu trong thời gian điều trị tăng huyết áp (THA) Hai câu hỏi C1 và C2 sẽ đánh giá xem trong tuần qua, bệnh nhân có sử dụng thuốc lá, thuốc lào hay bia, rượu không Nếu bệnh nhân vẫn còn uống bia, rượu, cần ghi rõ loại bia hoặc rượu (bia, rượu mạnh, rượu vang) và lượng tiêu thụ trung bình mỗi ngày Trường hợp bệnh nhân đã ngừng uống bia, rượu hoặc chưa bao giờ uống, sẽ chuyển ngay sang mục D.
Mục D cung cấp thông tin về việc tuân thủ hoạt động thể lực trong điều trị tăng huyết áp (THA) Bài viết bao gồm hai câu hỏi nhỏ D1 và D2, nhằm đánh giá tần suất hoạt động thể lực hàng tuần của bệnh nhân.
NB và hình thức hoạt động thể lực cụ thể (nếu có)
Mục E cung cấp thông tin về cách tự theo dõi huyết áp (THA) tại nhà của người bệnh (NB) Trong đó, có ba câu hỏi E1, E2 và E3 nhằm đánh giá xem NB có thực hiện việc đo huyết áp tại nhà hay không Nếu có, các câu hỏi này cũng sẽ xác định tần suất đo huyết áp mỗi ngày và số ngày trong tuần mà NB thực hiện việc này.
Mục F cung cấp thông tin về việc tuân thủ lịch tái khám của bệnh nhân Hai câu hỏi F1 và F2 sẽ đánh giá xem bệnh nhân có đến khám lại theo lịch hẹn hàng tháng hay không Nếu bệnh nhân không đến khám, cần ghi nhận lý do và xem xét liệu họ có tự ý thay đổi thuốc hoặc mua thuốc khác để thay thế hay không.
Dữ liệu từ phỏng vấn 90 bệnh nhân tăng huyết áp đang điều trị ngoại trú tại Khoa Nội A, Bệnh viện 19-8 đã được nhập và phân tích bằng phần mềm SPSS 20.0 Kết quả phân tích được trình bày thông qua các bảng và biểu đồ dưới đây.
2.2.2.1 Thông tin chung của đối tượng khảo sát
Bảng 2.1: Thông tin chung của người bệnh tham gai phỏng vấn (n)
Thông tin Số lượng Tỷ lệ %
Thông tin Số lượng Tỷ lệ % Tuổi
Trình độ học vấn cao nhất
Người thường xuyên quan tâm nhắc nhở thực hiện chế độ điều trị
- Không có ai nhắc nhở 35 38,9
Trị số HA mục tiêu
- Đạt trị số HA mục tiêu 65 72,2
- Không đạt trị số HA mục tiêu 25 27,8
Trong nghiên cứu tại Phòng khám khoa Điều trị cán bộ cao cấp A11, trong số 90 bệnh nhân (NB) đến khám và điều trị ngoại trú, có 81 NB nam (90%) và 9 NB nữ (10%) Kết quả cho thấy phần lớn bệnh nhân là người từ 60 tuổi trở lên.
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là những người từ 70 tuổi trở lên, chiếm 63,3%, trong khi 26,7% có độ tuổi dưới 60 và chỉ 10% trên 70 tuổi Tỷ lệ cán bộ đương chức rất thấp, chỉ đạt 7,8%, phần lớn là cán bộ đã nghỉ hưu, chiếm 92,2% Đáng chú ý, chỉ có 5,6% số người tham gia nghiên cứu sống ở nông thôn, trong khi 94,4% còn lại sinh sống tại khu vực thành thị Hơn nữa, 84% người tham gia có trình độ học vấn từ đại học trở lên.
NB có người thân quan tâm nhắc nhở thực hiện chế độ điều trị chiếm tỷ lệ khá cao (61,1%)
Có 72,2% THA được khảo sát có số đo HA đạt được trị số HA mục tiêu (dưới 140/90 mmHg)
2.2.2.2 Thông tin về bệnh THA của người bệnh
Bảng 2.2: Thông tin về bệnh THA của người bệnh tham gia khảo sát (n)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ %
Thời gian NB phát hiện mình bị THA
Nhắc nhở điều trị THA
Trong khảo sát của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân (NB) phát hiện tăng huyết áp (THA) từ 1 năm trở lên chiếm tới 97,8%, trong khi chỉ có 2,2% được phát hiện sớm trước 1 năm Điều này cho thấy sự chủ quan của NB đối với THA, dẫn đến việc họ không nhận thức đúng về hậu quả của bệnh, từ đó thiếu quan tâm đến việc chẩn đoán sớm Tỷ lệ NB THA được phát hiện trong các khoảng thời gian 1-5 năm, 5-10 năm và trên 10 năm lần lượt là 37,8%; 33,3% và 26,7% Đáng chú ý, 72,2% NB THA có biến chứng kèm theo, trong đó biến chứng tim mạch chiếm 50%, 16,25% gặp biến chứng xuất huyết não, và 13,75% mắc bệnh thận, chỉ có 27,8% NB không có biến chứng.
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ bị biến chứng của NB THA đến khám
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ từng nhóm biến chứng THA (n) 2.2.2.3 Kiến thức về bệnh và chế độ điều trị THA của người bệnh
Căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá cho phần phỏng vấn về bệnh và chế độ điều trị tăng huyết áp của người bệnh, chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
Trong số 90 bệnh nhân tham gia phỏng vấn, phần lớn có kiến thức về bệnh và chế độ điều trị tăng huyết áp (THA) Biểu đồ 2.4 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân trả lời đúng cả hai phần I và II trong bộ câu hỏi phỏng vấn là cao, điều này phản ánh sự quan tâm của nhóm đối tượng là cán bộ cao cấp Tuy nhiên, vẫn còn 18,9% bệnh nhân chưa hiểu đúng về cách uống thuốc điều trị THA; 5% không biết theo dõi huyết áp tại nhà; 10% chưa nắm vững chế độ ăn uống; 3,75% chưa hiểu đúng về hoạt động thể lực; và 8,75% cho rằng không cần bỏ thuốc lá khi điều trị THA.
Biểu đồ 2.4: Kiến thức về bệnh và chế độ điều trị THA của NB (n)
2.2.2.4 Thông tin tuân thủ điều trị thuốc
Các ưu điểm và tồn tại
2.2.1.1 Về phía Bệnh viện và khoa
Bệnh viện 19-8 trong đó có khoa Nội A đã luôn luôn thực hiện quản lý, điều trị cho người bệnh THA theo đúng quy trình, hướng dẫn của Bộ y tế
Mỗi tháng, các khoa trong bệnh viện tổ chức ít nhất một buổi tuyên truyền giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân điều trị nội trú Khoa Tim mạch đã thành lập Câu lạc bộ Bệnh nhân Tăng huyết áp, với các hoạt động sinh hoạt hàng quý đa dạng và thu hút sự tham gia đông đảo của bệnh nhân Tăng huyết áp trong toàn bệnh viện.
Khoa Nội A sở hữu đội ngũ y tế hùng hậu với 9 bác sĩ, trong đó có 8 bác sĩ sau đại học, cùng 18 điều dưỡng, trong đó có 7 cử nhân đại học điều dưỡng Tất cả nhân viên đều được đào tạo và tập huấn chuyên sâu về các bệnh lý tim mạch, đặc biệt là tăng huyết áp.
Phòng khám tim mạch do thạc sĩ tim mạch phụ trách, cung cấp dịch vụ chuyên sâu về các bệnh lý tim mạch Hàng tháng, khoa tổ chức các buổi sinh hoạt khoa học nhằm nâng cao kiến thức cho bác sĩ và điều dưỡng, đặc biệt tập trung vào bệnh tăng huyết áp (THA).
Nhân viên trong khoa thường xuyên cập nhật kiến thức từ các khóa tập huấn ngắn hạn tại bệnh viện, cũng như các hội thảo trong và ngoài nước
NB đến khám lần đầu tiên đều được kiểm tra HA, làm các xét nghiệm máu, nước tiểu, siêu âm, điện tim để đánh giá toàn trạng NB
Khoa giám sát quá trình điều trị và tái khám cho bệnh nhân nhằm phát hiện sớm biến chứng và tác dụng phụ của thuốc Mỗi bệnh nhân được cấp một bộ hồ sơ bệnh án theo dõi lâu dài và một sổ để tự theo dõi tại nhà Trong mỗi lần khám bệnh, bác sĩ sẽ ghi nhận đầy đủ nhận xét và chỉ định vào hồ sơ bệnh án cũng như sổ theo dõi của bệnh nhân.
Hàng tháng NB đến khám bệnh theo hẹn của bác sỹ một lần để lấy thuốc điều trị cho tháng tiếp theo, NB được đo HA trước khi khám
Phòng khám huyết áp, phòng điện tim và phòng xét nghiệm được bố trí gần nhau để giảm thiểu việc di chuyển của bệnh nhân Khoa được trang bị đầy đủ thiết bị hiện đại, bao gồm máy Holter mạch và máy Holter huyết áp, nhằm đảm bảo hiệu quả trong khám, điều trị và chẩn đoán bệnh.
Điều dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ bác sĩ trong quá trình khám bệnh, giúp bác sĩ có thêm thời gian để tư vấn và chăm sóc bệnh nhân Sự phối hợp này không chỉ nâng cao chất lượng khám chữa bệnh mà còn giảm thiểu thời gian chờ đợi của bệnh nhân cho cả khám và xét nghiệm.
Trình độ học vấn của bệnh nhân (NB) rất cao, với 93,4% có trình độ đại học trở lên Hầu hết bệnh nhân đều có kiến thức vững về bệnh và chế độ điều trị tăng huyết áp (THA), với tỷ lệ trả lời đúng các câu hỏi đạt tới 90% Phần lớn bệnh nhân cho biết kiến thức này chủ yếu đến từ cán bộ y tế (CBYT) Điều này phù hợp với đặc điểm của nhóm bệnh nhân là cán bộ cao cấp, những người rất quan tâm đến sức khỏe của mình Ngoài ra, do đa số bệnh nhân sống cùng gia đình, tỷ lệ bệnh nhân có người thân nhắc nhở thực hiện chế độ điều trị cũng khá cao, đạt 61,1%, trong đó vợ/chồng là người nhắc nhở chính, góp phần tích cực vào thái độ và việc tuân thủ điều trị THA.
NB không quên uống thuốc hạ HA từ lúc bắt đầu điều trị đạt 86,25%; 61,1 %
Trong một khảo sát về việc tuân thủ sử dụng thuốc hạ huyết áp, có 86,25% bệnh nhân (NB) cho biết họ không tự ý ngừng hoặc thay đổi thuốc khi cảm thấy khó chịu Đặc biệt, 77,5% NB nhớ mang theo thuốc khi đi xa nhà, và 97,5% luôn nhớ uống thuốc hạ huyết áp trước ngày đi khám Ngoài ra, 88,75% số bệnh nhân không tự ý ngừng thuốc khi thấy huyết áp đã được kiểm soát.
Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ các biện pháp thay đổi lối sống rất cao, với 90,0% thực hiện chế độ ăn kiêng; tiếp theo là việc nghỉ ngơi hợp lý.
NB đã nhận thức được tác hại của thuốc lá với bệnh THA nên số NB bỏ hút thuốc chiếm tỷ lệ cao 81.4%
Theo khảo sát, 72,56% bệnh nhân (NB) đến khám, theo dõi và điều trị tăng huyết áp (THA) đã đạt được chỉ số huyết áp mục tiêu, cụ thể là dưới 140/90 mmHg đối với người không có biến chứng, và dưới 130/80 mmHg đối với bệnh nhân tiểu đường và có nguy cơ cao.
Khu khám bệnh khoa Nội A hiện đang kết hợp với khu Điều trị, dẫn đến một số hạn chế như thiếu không gian treo tivi, pano và bảng thông tin y tế Ngoài ra, khu vực này cũng chưa được bố trí phòng truyền thông và tư vấn giáo dục sức khỏe, ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh.
Nhiều bệnh nhân (NB) có thói quen khám vào buổi sáng, khiến số lượng khám vào buổi chiều rất ít Điều này dẫn đến tình trạng quá tải vào những thời điểm nhất định, do nhu cầu làm xét nghiệm và hoàn tất khám trong cùng một buổi Đối tượng chủ yếu đến khám và điều trị là người trên 60 tuổi, chiếm 63,3%.
Tỷ lệ bệnh nhân (NB) có thời gian điều trị tăng huyết áp (THA) tại bệnh viện trên 10 năm là 36,25% Trong khi đó, 13,7% bệnh nhân không có người thân quan tâm nhắc nhở thực hiện chế độ điều trị.
Tỷ lệ bệnh nhân gặp biến chứng do tăng huyết áp (THA) khá cao, trong đó biến chứng tim mạch chiếm 50% Ngoài ra, 16,25% bệnh nhân gặp biến chứng xuất huyết não hoặc tai biến mạch máu não, trong khi tỷ lệ bệnh thận thấp nhất, chỉ đạt 13,75%.
Chỉ có 8,75% bệnh nhân cho rằng bệnh tăng huyết áp (THA) không cần điều trị suốt đời và không cần từ bỏ thuốc lá hoặc thuốc lào Tỷ lệ này cũng phản ánh số lượng bệnh nhân không thường xuyên đo và ghi lại số đo huyết áp vào sổ theo dõi.
Nguyên nhân
Khu khám bệnh khoa Nội A hiện đang thiếu các thiết bị như tivi, pano và bảng thông tin y tế, đồng thời chưa có phòng truyền thông và tư vấn giáo dục sức khỏe riêng Đối tượng bệnh nhân chủ yếu là người cao tuổi, thường gặp nhiều biến chứng do tăng huyết áp, kèm theo sự lão hóa và suy giảm trí nhớ, dẫn đến nhận thức về bệnh tật và kiến thức tự chăm sóc của họ cũng bị hạn chế.
Tỷ lệ bệnh nhân (NB) có thời gian điều trị tăng huyết áp (THA) tại bệnh viện trên 10 năm chiếm đến 26,70%, cho thấy nhiều bệnh nhân vẫn còn chủ quan và chưa nhận thức đầy đủ về vai trò quan trọng của việc tuân thủ sử dụng thuốc theo chỉ định.
Nhiều bệnh nhân (NB) không nhận được sự quan tâm và nhắc nhở từ người thân về việc tuân thủ chế độ điều trị, đồng thời cũng thiếu hệ thống nhắc nhở và cảnh báo thường xuyên.
CBYT nhấn mạnh rằng việc tuân thủ chế độ điều trị tăng huyết áp (THA) chưa được thực hiện thường xuyên, chủ yếu do sự chủ quan của bệnh nhân Nhiều người cho rằng những bệnh nhân có trình độ hiểu biết cao, đã mắc bệnh lâu năm và đã trải qua điều trị sẽ tự nắm rõ thông tin về bệnh và yêu cầu điều trị.
Công tác tư vấn giáo dục sức khỏe cho người bệnh của bác sĩ và điều dưỡng trong khoa chưa đạt hiệu quả cao do tình trạng quá tải vào những thời điểm nhất định Đội ngũ điều dưỡng chủ yếu có trình độ cao đẳng và trung học, dẫn đến thiếu kinh nghiệm và khả năng truyền đạt chưa thuyết phục Điều này khiến họ thiếu tự tin khi thực hiện tư vấn cho người bệnh là cán bộ cao cấp.
Hình thức tư vấn và giáo dục sức khỏe hiện tại còn mang tính một chiều và hình thức, thiếu thời gian thảo luận và hướng dẫn cụ thể cho từng cá nhân Mặc dù các buổi hoạt động tư vấn của Câu lạc bộ NB THA có đông người tham gia, nhưng chưa tạo ra môi trường tương tác hiệu quả cho người tham gia.
NB chia sẻ kinh nghiệm với nhau.
Đối với bệnh viện, khoa và nhân viên y tế
Khu Khám bệnh khoa Nội A cần trang bị ti vi với các thông tin tư vấn về bệnh tăng huyết áp (THA), cùng với pano, tài liệu và tờ rơi in màu để bệnh nhân dễ dàng tiếp cận thông tin trong phòng chờ khám.
Xây dựng tài liệu truyền thông và giáo dục sức khỏe chất lượng về việc tuân thủ sử dụng thuốc điều trị cho bệnh nhân tăng huyết áp (THA) là rất quan trọng Nội dung tài liệu cần nhấn mạnh vai trò của việc tuân thủ dùng thuốc cũng như hậu quả nghiêm trọng của việc không tuân thủ Điều này sẽ giúp nâng cao nhận thức và cải thiện hiệu quả điều trị cho bệnh nhân thông qua các hoạt động tư vấn và truyền thông hiệu quả.
Nâng cao kiến thức và kỹ năng thực hành trong truyền thông, tư vấn, giáo dục sức khỏe cho điều dưỡng về bệnh tăng huyết áp (THA) là rất quan trọng Điều này được thực hiện thông qua các lớp tập huấn thường xuyên, giúp cập nhật kiến thức mới, cải thiện kỹ năng giao tiếp và ứng xử, đặc biệt là kỹ năng tư vấn giáo dục sức khỏe hàng năm.
- Định kỳ tổ chức sinh hoạt chuyên môn điều dưỡng tại khoa 1 tháng/lần
Để nâng cao hiệu quả tư vấn và giáo dục sức khỏe cho người bệnh, cần đa dạng hóa các hình thức tổ chức, bao gồm cá nhân hóa các đối tượng chưa tuân thủ nhằm thuyết phục họ tuân theo, cũng như tổ chức các buổi chia sẻ kinh nghiệm giữa các bệnh nhân với nhau.
Để nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân, cần tăng cường kiểm tra và nhắc nhở đội ngũ điều dưỡng tuân thủ quy định về tư vấn giáo dục sức khỏe Việc thực hiện tư vấn và giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân nên diễn ra từ khi bệnh nhân đến khám, trong quá trình điều trị nội trú, và tiếp tục cho đến trước khi ra viện.
NB ra viện để giúp NB THA, đặc biệt là NB cao tuổi có thể nhớ được
Tăng cường thời gian tư vấn giáo dục sức khỏe cho người bệnh, đồng thời chú trọng lắng nghe ý kiến phản hồi từ họ để điều chỉnh thông tin một cách phù hợp và kịp thời.
Nghiên cứu giải pháp phần mềm theo dõi và quản lý bệnh nhân THA nhằm cung cấp cảnh báo định kỳ cho từng bệnh nhân Điều này giúp đội ngũ điều dưỡng tại phòng khám chủ động liên lạc, hỏi thăm sức khỏe và nhắc nhở lịch tái khám cho bệnh nhân, từ đó nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe.
Đối với người bệnh THA
Người bệnh cần nghiêm túc tuân thủ các hướng dẫn của cán bộ y tế về việc sử dụng thuốc điều trị tăng huyết áp Không được tự ý ngừng, giảm liều hoặc thêm thuốc khác mà chưa có sự đồng ý của bác sĩ điều trị.
Khuyến khích bệnh nhân mua máy đo huyết áp điện tử để dễ dàng theo dõi huyết áp tại nhà Hướng dẫn bệnh nhân cách sử dụng máy đo và ghi lại chỉ số huyết áp hàng ngày, hoặc đến Trạm Y tế phường gần nhất để đo Việc này không chỉ giúp bệnh nhân theo dõi sức khỏe mà còn nhắc nhở họ về việc uống thuốc đúng giờ.
Để tránh quên uống thuốc và hình thành thói quen, hãy đặt đồng hồ báo thức hoặc lịch nhắc trên điện thoại thông minh vào một thời điểm cố định trong ngày, hoặc nhờ người thân nhắc nhở bạn.
Việc tuân thủ điều trị thuốc đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe và ngăn ngừa các biến chứng Nếu không tuân thủ, bệnh nhân có thể đối mặt với hậu quả nghiêm trọng, làm giảm hiệu quả điều trị Do đó, cần thay đổi nhận thức về tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị và áp dụng lối sống lành mạnh để hỗ trợ quá trình phục hồi.
Khuyến khích người bệnh tham gia các hoạt động do Câu lạc bộ Người bệnh THA tổ chức tại bệnh viện, nhằm tạo cơ hội để chia sẻ kinh nghiệm tự chăm sóc lẫn nhau.
- Ghi lại các tác dụng phụ thuốc HA và thông báo kịp thời cho bác sỹ để điều chỉnh thuốc phù hợp và không được tự ý bỏ thuốc
- Tái khám định kỳ theo hẹn của bác sỹ.