CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái niệm về Trầm Cảm
Trầm cảm là một rối loạn cảm xúc nghiêm trọng, thể hiện qua trạng thái buồn rầu và chán nản kéo dài ít nhất hai tuần, ảnh hưởng sâu sắc đến công việc và cuộc sống hàng ngày Người mắc bệnh trầm cảm thường mất hứng thú với những hoạt động từng mang lại niềm vui, cảm thấy tuyệt vọng, có cảm giác tội lỗi và bi quan, dẫn đến cảm giác cuộc sống không còn giá trị.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, được nhận diện bởi các triệu chứng như cảm giác buồn bã, mất hứng thú hoặc khoái cảm, cảm giác tội lỗi, tự hạ thấp giá trị bản thân, rối loạn giấc ngủ, rối loạn ăn uống và khó khăn trong việc tập trung.
Trầm cảm là một rối loạn tâm lý và thể chất, còn được gọi là rối loạn trầm cảm chính, ảnh hưởng đến cảm xúc, suy nghĩ và hành vi của người bệnh Tình trạng này có thể gây ra nhiều vấn đề về cảm xúc và sức khỏe, làm giảm khả năng làm việc, học tập và đối phó với cuộc sống hàng ngày Trong những trường hợp nghiêm trọng, trầm cảm có thể dẫn đến tự tử Đối với mức độ nhẹ, người bệnh có thể được hỗ trợ điều trị mà không cần dùng thuốc, trong khi mức độ vừa và nặng thường yêu cầu điều trị bằng thuốc kết hợp với liệu pháp tâm lý.
Rối loạn trầm cảm có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm bệnh lý nội sinh, triệu chứng của bệnh lý cơ thể, tác động từ việc lạm dụng chất, hoặc là phản ứng trước stress Trầm cảm không phân biệt độ tuổi và có thể xảy ra ở bất kỳ ai, với các biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào từng đối tượng.
2.1.2 Bệnh nguyên, bệnh sinh của trầm cảm
Có nhiều giả thuyết về bệnh sinh trầm cảm
- Các giả thuyết về di truyền
Yếu tố di truyền có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của rối loạn trầm cảm, và nhiều nghiên cứu đã chỉ ra vai trò quan trọng của di truyền trong quá trình hình thành bệnh này.
+ Nghiên cứu về gia đình
Nghiên cứu về gia đình cho thấy rằng những người thân của người bị rối loạn trầm cảm nặng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn so với dân số chung, đặc biệt tỷ lệ này cao nhất ở những người có mối quan hệ gần gũi nhất với bệnh nhân.
+ Nghiên cứu tần xuất bệnh trên các cặp sinh đôi cho thấy: tỉ lệ bệnh ở sinh đôi cùng trứng là 65% - 75% trong khi đó ở sinh đôi khác trứng là 14% - 19% [ 7 ]
- Bất thường trong các chất dẫn truyền thần kinh
Norepinephrine là một chất dẫn truyền thần kinh có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh tâm trạng Nghiên cứu cho thấy nồng độ Norepinephrine giảm ở những người mắc trầm cảm Các loại thuốc như Imipramine và Desipramine hoạt động bằng cách ức chế sự tái hấp thu Norepinephrine tại các tế bào tiền tiếp hợp, từ đó làm tăng nồng độ Norepinephrine trong khe synapse, góp phần vào hiệu quả chống trầm cảm Điều này khẳng định vai trò quan trọng của Norepinephrine trong cơ chế phát triển trầm cảm.
Serotonin đóng vai trò quan trọng trong việc điều trị trầm cảm, như đã chứng minh qua hiệu quả của các thuốc ức chế tái hấp thu Serotonin chọn lọc Sự giảm thiểu nồng độ Serotonin có thể thúc đẩy sự phát triển của trầm cảm, và nghiên cứu cho thấy não của những bệnh nhân tự sát thường có mức Serotonin thấp Đặc biệt, ở những bệnh nhân trầm cảm có ý tưởng tự sát, nồng độ Serotonin cũng bị suy giảm rõ rệt.
Dopamine có vai trò quan trọng trong tâm trạng, và nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng hoạt động của nó giảm đi trong tình trạng trầm cảm Các loại thuốc như Reserpin, làm giảm nồng độ Dopamine, cũng như các bệnh như Parkinson, thường liên quan đến triệu chứng trầm cảm.
- Giả thuyết về rối loạn nội tiết
+ Trục tuyến thượng thận: Mối liên quan giữa tăng tiết Cortisol và trầm cảm đã được ghi nhận từ lâu Khoảng 50% bệnh nhân trầm cảm được ghi nhận
Cortisol không giảm khi được trích với một liều Dexamethasone
Rối loạn tuyến giáp có mối liên hệ với các triệu chứng cảm xúc, đặc biệt là ở những bệnh nhân trầm cảm nặng Khoảng 1/3 trong số họ, mặc dù có kết quả xét nghiệm trục tuyến giáp bình thường, vẫn cho thấy sự giảm phóng thích hormone kích thích tuyến giáp (TSH) sau khi được tiêm hormone giải phóng thyrotropin (TRH).
Có nhiều nguyên nhân gây ra trầm cảm, có thể tập trung vào 4 nhóm:
Sang chấn tâm lý là một trong những nguyên nhân phổ biến gây ra trầm cảm, có thể xuất phát từ các yếu tố bên ngoài như mâu thuẫn gia đình, bạn bè, công việc, hoặc từ bên trong cơ thể như các bệnh nặng và nan y Việc đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng của những yếu tố stress này là rất quan trọng trong chẩn đoán trầm cảm, bởi có những stress nặng, cấp tính như mất mát người thân hay thiên tai có thể gây ra trầm cảm nghiêm trọng, trong khi những stress kéo dài như áp lực công việc hay mệt mỏi trong quan hệ gia đình có thể tạo ra nền tảng cho sự phát triển của bệnh Ngoài ra, cũng có những stress không đủ mạnh để gây bệnh nhưng lại góp phần làm nặng thêm tình trạng tâm lý đã có sẵn.
* Do bệnh thực thể ở não:
Chấn thương sọ não, viêm não và u não là những tổn thương nghiêm trọng ảnh hưởng đến cấu trúc não, làm giảm khả năng chịu đựng stress của cơ thể Ngay cả một áp lực nhỏ cũng có thể dẫn đến rối loạn cảm xúc, đặc biệt là trầm cảm Việc xác định chính xác nguyên nhân và điều trị triệt để là chìa khóa để khắc phục tình trạng trầm cảm hiệu quả.
Việc sử dụng các chất gây nghiện như heroin, amphetamin, rượu và thuốc lá thường mang lại cảm giác hưng phấn ban đầu, nhưng sau đó lại dẫn đến trạng thái trầm cảm, mệt mỏi và ức chế tâm thần Nhiều người lầm tưởng rằng uống rượu có thể giúp giải tỏa buồn phiền, nhưng thực tế, việc này chỉ làm tình trạng buồn chán trở nên nghiêm trọng hơn.
Khi đã loại trừ các nguyên nhân khác, trầm cảm nặng thường do rối loạn hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh như Serotonin và Noradrenalin, dẫn đến ý tưởng và hành vi tự sát, cùng với các rối loạn tâm thần như hoang tưởng tội lỗi và ảo thanh khuyến khích tự sát Loại trầm cảm này rất khó điều trị và dễ tái phát.
2.1.3 Triệu chứng lâm sàng trầm cảm
2.1.3.1 Rối loạn trầm cảm điển hình theo ICD – 10 (1992)
Gồm 3 triệu chứng đặc trưng và 7 triệu chứng phổ biến
- Các triệu chứng đặc trưng:
+ Mất quan tâm thích thú
+Giảm sút năng lượng đén mệt mỏi và giảm hoạt động
- Các triệu chứng phổ biến hay gặp:
+ Giảm tính tự trọng và lòng tin
+ Những ý tưởng buộc tội, không xứng đáng
+ Nhìn tương lai ảm đạm và bi quan
+ Có ý tưởng và hành vi tự sát
- Các triệu chứng cơ thể ( sinh học, sầu uất) của trầm cảm:
Mất đi sự quan tâm và ham thích trong các hoạt động hàng ngày có thể dẫn đến cảm giác chán nản Điều này thể hiện qua việc không còn có phản ứng cảm xúc với những sự kiện và môi trường xung quanh, những thứ mà trước đây vẫn mang lại niềm vui và sự thích thú.
+ Thức giấc sớm ít nhất 2 giờ so với bình thường
+ Trầm cảm nặng nề hơn về buổi sáng
+ Chậm chạp tâm lý vận động hoặc kích động
+ Mất khẩu vị rõ rệt
+ Sút cân ( thường giảm ≥ 5% so với trọng lượng cơ thể tháng trước)
+ Mất dục năng rõ rệt, rối loạn kinh nguyệt ở nữ
THỰC TRẠNG CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH TRẦM CẢM TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN YÊN BÁI
Vài nét tổng quát về bệnh viện Tâm thần Yên Bái
Bệnh viện Tâm thần Yên Bái, được thành lập vào ngày 15/12/2004, là bệnh viện chuyên khoa hạng III, được nâng cấp từ Trung tâm Bảo vệ sức khỏe tâm thần theo Quyết định số 675/QĐ-UBND của UBND tỉnh Yên Bái.
Bệnh viện được tổ chức với 4 phòng chức năng và 6 khoa, bao gồm 2 khoa lâm sàng: Khoa điều trị Nam cấp và mãn tính, cùng với Khoa điều trị nữ cấp và mãn tính.
Bệnh viện có nhiệm vụ chuyên môn khám chữa bệnh trong các lĩnh vực chuyên khoa, đồng thời triển khai dự án chăm sóc sức khỏe tâm thần cộng đồng và trẻ em.
Bảng 3.1 trình bày sự so sánh giữa nhân lực của bệnh viện và Thông tư 08/2007/TTLT-BYT-BNV, liên quan đến định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế nhà nước Đồng thời, bảng cũng nêu rõ kế hoạch cán bộ viên chức theo quy định của Thông tư 08.
Tổng số cán bộ viên chức hiện có
Nhận xét: Tổng số viên chức của bệnh viện còn thiếu theo quy định
Bảng 3.2 Cơ cấu nhân lực hiện tại của bệnh viện
Bác sĩ Điều dưỡng Dược
TH ĐH CĐ TH ĐH Khác
Nhận xét: Tổng số cán bộ viên chức bệnh viện là 58 trong đó làm chuyên môn chỉ chiếm hơn một nửa 40/58 = 68%
Bảng 3.3 Cơ cấu, trình độ chuyên môn của Điều dưỡng với Bác sĩ
Theo TT 08 Thực trạng của Bệnh viện Điều dưỡng Bác sĩ Tỷ lệ Điều dưỡng Bác sĩ Tỷ lệ
Nhận xét: Tỷ lệ Điều dưỡng/ Bác sỹ thấp hơn nhiều so với quy định
Bảng 3.4 Trình độ chuyên môn của Điều dưỡng
Tổng số Trình độ chuyên môn Đào tạo chuyên ngành
CN TH ĐD chuyên khoa Tâm thần
Tâm lý; Kích hoạt hành vi
Nhận xét: Trình độ chuyên môn của Điều dưỡng đa số là trung cấp và phần lớn chưa được đào tạo về chuyên khoa Tâm thần và tâm lý
3.1.4 Một vài chỉ số hoạt động chuyên môn của bệnh viện trong 6 tháng đầu năm 2018
Trong 6 tháng đầu năm bệnh viện đã điều tri ổn định cho và cho xuất viện
619 ca bệnh các loại trong đó có 54 ca liên quan đến trầm cảm gồm:
+ 12 ca giai đoạn trầm cảm (F32);
+ 9 ca rối loạn trầm cảm tái diễn(F33);
+ 5 ca rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng không có triệu chứng loạn thần (F31.4);
+ 3 ca rối loạn phân liệt cảm xúc , loại trầm cảm(F25.1);
+ 25 ca rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm (F41.2)
Tại Bệnh viện Tâm thần Yên Bái, bệnh nhân trầm cảm được chăm sóc thông qua sự hợp tác chặt chẽ giữa nhân viên y tế và gia đình Một trường hợp cụ thể về việc chăm sóc bệnh nhân trầm cảm tại đây sẽ được trình bày để minh họa cho quy trình này.
Nghiên cứu một trường hợp bệnh cụ thể
- Họ và tên người bệnh: Hoàng Thị Mùi
- Địa chỉ: Nặm Trọ - Lâm Thượng – Lục Yên – Yên Bái
- Lý do vào viện: Đau đầu,mất ngủ, buồn chán
- Chẩn đoán: Giai đoạn trầm cảm vừa
Theo chồng người bệnh, cô đã phát triển tâm thần và thể chất bình thường, học hết lớp 7 rồi lấy chồng và sinh được hai con, một trai và một gái, hiện tại các con đã lập gia đình Người bệnh luôn chăm chỉ làm ăn và quan tâm đến con cháu cũng như bà con trong làng.
Cách đây khoảng 1 năm, người bệnh gặp phải tình trạng ngủ không đều và khó vào giấc, thường xuyên cảm thấy mệt mỏi ngay cả với những công việc đơn giản, dẫn đến việc bỏ dở công việc và ít quan tâm đến các cháu Người bệnh ít giao tiếp, có hành vi chậm chạp, thường xuyên ngồi lâu hoặc nằm trên giường, thỉnh thoảng kêu đau đầu và đau ngực, đồng thời cảm giác thèm ăn giảm sút Gia đình đã đưa người bệnh đi khám tại bệnh viện huyện, nhưng tình trạng chỉ thuyên giảm ít Về nhà, người bệnh thường cáu gắt với những lý do bình thường và sau đó lại khóc Cuối cùng, gia đình quyết định đưa người bệnh đến bệnh viện Tâm thần, nơi được chẩn đoán mắc trầm cảm và kê đơn thuốc điều trị Tuy nhiên, sau những ngày đầu uống thuốc đều đặn, người bệnh đã ngừng tái khám và không tiếp tục sử dụng thuốc.
Khoảng 3 tháng nay bệnh tái phát trở lại, người bệnh đêm mất ngủ, có đêm thức trắng, luôn cảm thấy mệt mỏi nên không muốn tham gia công việc trước đây, chỉ vận động một chút đã thấy mệt dã rời, ngay cả vệ sinh cá nhân buổi sáng cũng làm cho người bệnh thấy rất mệt không thể thực hiện được nên hầu như không tham gia lao động được, người bệnh luôn trong trạng thái buồn bã, không quan tâm đến bất cứ thứ gì, kèm theo có cơn tức ngực, khó thở, mủi lòng dễ khóc mỗi khi có người hỏi thăm, ăn kém ăn không có cảm giác ngon miệng nên ăn rất ít, gầy sút cân giảm gần 10kg trong 3 tháng.Thấy vậy, gia đình đưa người bệnh trở lại Bệnh viện tâm thần Yên Bái để khám và điều trị
+ Thể trạng: Gầy (cao: 158 cm, nặng: 42 kg)
+ Dấu hiệu sinh tồn: Mạch: 76 lần/phút
- Tuần hoàn: Nhịp tim đều, nghe tiếng T1, T2 rõ
- Hô hấp : Lồng ngực hai bên cân đối, nhịp thở đều
- Tiêu hóa : Bụng mềm, không chướng, gan lách không sờ thấy
- Thận, tiết niệu, sinh dục : Bình thường
- Cơ, xương, khớp : Bình thường
- Tai, mũi, họng : Bình thường
- Răng, hàm, mặt : Bình thường
- Các bệnh lý khác : Chưa thấy có biểu hiện bệnh lý
- Các xét nghiệm cận lâm sàng đã được làm:
+ Test Beck: kết quả trầm cảm vừa
+ Không có tổn thương liệt khu trú
+Vận động tứ chi : Không hạn chế vận động tứ chi
+Trương lực cơ : Bình thường
+Cảm giác ( nông, sâu ): Không rối loạn
+Phản xạ : Phản xạ gân xương đáp ứng đều hai bên
+ Biểu hiện chung : Tiếp xúc được, ăn mặc gọn gàng
+Ý thức định hướng : Không gian, thời gian, bản thân : Xác định đúng
+Tình cảm, cảm xúc : Khí sắc trầm buồn,xu hướng ít nói, ít giao tiếp, đang nói lại khóc
+Tri giác : Không có ảo tưởng, ảo giác
+Tư duy : Hình thức : Ngôn ngữ chậm rời rạc, giọng nói thiếu lực
Nội dung : Không có hoang tưởng, ám ảnh + Hành vi tác phong : Không rối loạn
+ Hành động ý trí : Suy giảm (Chậm chạp, nằm nhiều, giảm quan tâm thích thú)
+Hoạt động bản năng : Ăn ngủ kém
+Chú ý : Giảm tập trung chú ý
+ Hoàn cảnh gia đình : Trung bình
+ Bản thân: Sự phát triển thể chất, tâm thần hoàn toàn bình thường
Bị bệnh lần đầu cách đây 1 năm
+ Gia đình: Không có ai mắc bệnh tâm thần
- Các thuốc đang dùng cho người bệnh:
+Asentra 50mg x 02 viên ( uống 1 viên 9h và 1 viên 20h)
+ Dogtapine 50mg x 02 viên (uống 1 viên 9h và 1 viên 20h )
+ Savi Urso 300mg x 02 viên (uống 1 viên 9h và 1 viên 20h )
+Lilonton 3g/15ml x 02 ống ( tiêm tĩnh mạch 1 ống 9h và 1 ống 15h)
Trong thời gian người bệnh nằm viện tôi đánh giá hoạt động hàng ngày của người bệnh như sau (Từ ngày 22/5/2018 đến ngày 10/6/2018):
Bệnh nhân tỉnh táo và có khả năng tiếp xúc, nhưng gặp khó khăn trong việc trả lời các câu hỏi đơn giản, thường mất thời gian để phản ứng Họ cũng có biểu hiện ngủ ít vào ban đêm và giọng nói thiếu sức sống.
- Khí sắc người bệnh trầm buồn, không biểu lộ cảm xúc, nét mặt không thay đổi khi giao tiếp, dễ khóc
- Người bệnh ngủ ít, ăn kém không có cảm giác ngon miệng, gia đình động viên mỗi bữa cũng chỉ ăn được chút ít
Người bệnh cần sự động viên và hướng dẫn từ gia đình và điều dưỡng để thực hiện vệ sinh cá nhân mỗi buổi sáng Tuy nhiên, việc này thường gặp khó khăn và người bệnh thường cảm thấy mệt mỏi sau khi hoàn thành.
* Các hoạt động chăm sóc người bệnh
Người bệnh khi vào viện sẽ được điều dưỡng hướng dẫn về các nội quy và quy định của bệnh viện, đồng thời động viên họ yên tâm trong quá trình điều trị Việc này không chỉ giúp người bệnh hiểu rõ hơn về môi trường bệnh viện mà còn tạo tâm lý thoải mái, góp phần vào quá trình hồi phục sức khỏe.
- Thực hiện y lệnh thuốc hàng ngày:
+ Savi Urso 300mg x 1 viên ( uống )
- Theo dõi sát diễn biến bệnh
Hiện tại, bệnh nhân tỉnh táo nhưng giao tiếp chậm và giọng nói yếu Bệnh nhân chưa tham gia vào các hoạt động vệ sinh buồng bệnh, đi bộ, tập thể dục và các liệu pháp khác.
+ Các dấu hiệu bệnh lý khác chưa có vấn đề gì đặc biệt
- Cung cấp dinh dưỡng cho người bệnh:
Điều dưỡng hướng dẫn gia đình xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý cho người bệnh, bao gồm việc cung cấp thực phẩm mềm, dễ tiêu hóa và giàu chất xơ Bữa ăn cần đảm bảo đủ chất dinh dưỡng, cân đối về thành phần và cung cấp năng lượng đầy đủ để hỗ trợ quá trình hồi phục sức khỏe.
Bữa sáng nên bao gồm một bát cháo hoặc phở, bữa trưa ăn hai bát cơm kèm canh rau và thịt, trong khi bữa tối chỉ cần hai bát cơm với rau và đậu Gia đình nên bổ sung sữa tươi và hoa quả cho người bệnh giữa các bữa ăn, đồng thời đảm bảo họ uống đủ nước trong suốt cả ngày Khuyến khích người bệnh tham gia vào bữa ăn tập thể tại bếp để tạo không khí vui vẻ, động viên họ hoàn thành khẩu phần ăn.
Điều dưỡng đã khuyến khích gia đình người bệnh tham gia vào bữa ăn, tạo không khí vui vẻ và thoải mái tại bếp ăn tập thể Tuy nhiên, qua quan sát, người bệnh vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng hàng ngày.
-Thực hiện chế độ vệ sinh cá nhân cho người bệnh
Người bệnh lười vệ sinh cá nhân, gia đình cũng ít chú ý đến vệ sinh cá nhân cho người bệnh do họ cũng mệt mỏi chán nản
Điều dưỡng hướng dẫn người nhà giúp người bệnh thực hiện vệ sinh cá nhân, bao gồm đưa ra phòng tắm để gội đầu và tắm, cũng như thay quần áo sạch vào lúc 15h hàng ngày Ngoài ra, cần đánh răng cho người bệnh hai lần mỗi ngày, trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy vào buổi sáng.
+ Cùng với người nhà động viên nhắc nhở và hỗ trợ người bệnh về sinh cá nhân
Để đảm bảo giấc ngủ cho người bệnh, điều dưỡng cần hướng dẫn người bệnh không ngủ trưa và tránh đi ngủ quá sớm Cần hạn chế thời gian nằm trên giường trong suốt cả ngày, khuyến khích người bệnh vận động nhiều trong ngày, nhưng cần tránh hoạt động quá sức vào buổi tối để không gây khó khăn trong giấc ngủ.
Người bệnh thường ít giao tiếp và vận động, do đó điều dưỡng cần tích cực trò chuyện và động viên để nắm bắt tâm tư, tình cảm của họ Qua đó, điều dưỡng có thể hỗ trợ tinh thần và tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự buồn chán của người bệnh.
+ Gần gũi, hướng dẫn người bệnh làm một số công việc như : dọn dẹp đồ của mình trong phòng, quét phòng, đi bộ quoanh khuân viên bệnh viện
+ Động viên người bệnh ngồi dậy tham gia nói chuyện với những người cùng phòng, đi lại ra phòng xem ti vi, ra sân xem đánh bóng truyền
+ Sắp xếp người bệnh trầm cảm vào buồng bệnh cùng với người bệnh ổn định để theo dõi
+ Loại bỏ vật dụng nguy hại đến đến tính mạng người bệnh như ( dao kéo, dây, vật sắc nhọn )
Cần thường xuyên giám sát người bệnh trong quá trình giao ca, đặc biệt vào thời điểm đêm khuya khi bệnh nhân có thể tỉnh táo và đủ sức khỏe để thực hiện hành vi tự sát Việc thực hiện nghiêm túc quy định về bàn giao người bệnh là rất quan trọng để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân.
+ Đi tua buồng bệnh 30 phút/ lần
+ Thông báo kịp thời cho bác sĩ và nhân viên trong khoa về diễn biến của người bệnh để cùng phối hợp
- Khi bệnh đang nằm viện: Điều dưỡng tư vấn cho người bệnh và gia đình
+ Hướng dẫn người bệnh tham gia lao động liệu pháp, vui chơi giải trí
+ Động viên, giải thích, khuyên giải người bệnh loại bỏ ý nghĩ buồn phiền, chán nản cùng hòa đồng với mọi người xung quanh
+ Nên đi lại vận động, không nên ủ rũ buồn phiền ngồi một chỗ Đối với gia đình:
+ Gia đình phải thường xuyên gần gũi, động viên an ủi người bệnh
+ Biết động viên chuyên giải người bệnh yên tâm, tin tưởng vào điều trị + Biết tạo không khí vui tươi, tránh sang chấn tâm lý người bệnh
Cùng người bệnh tham gia các hoạt động như đi dạo, xem ti vi hay xem các chương trình giải trí sẽ giúp họ cảm thấy vui vẻ hơn, từ đó quên đi những nỗi buồn và những suy nghĩ tiêu cực về bệnh tật.
+ Thường xuyên gân gũi theo dõi người bệnh để phát hiện kịp thời những ý tưởng và hành vi tự sát ( nếu có )
Một số ưu điểm và tồn tại
1 Nghiêm chỉnh thực hiện quy chế quản lý buồng bệnh và buồng thủ thuật Điều dưỡng đã hướng dẫn người bệnh và người nhà người bệnh cụ thể các nội quy khoa phòng và bệnh viện
2 Tham gia thường trực theo đúng quy chế thường trực dưới sự phân công của Điều dưỡng trưởng khoa
3 Thực hiện bàn giao người bệnh giữa giờ hành chính và giờ trực cho điều dưỡng trực và ghi vào sổ những y lệnh còn lại trong ngày, những yêu cầu theo dõi, chăm sóc đối với từng người bệnh nhất là những người bệnh nặng
4 Nghiêm chỉnh thực hiện đầy đủ y lệnh của thầy thuốc
5 Thực hiện chăm sóc người bệnh theo đúng quy định kỹ thuật bệnh viện
6 Chăm sóc theo đúng phân cấp chăm sóc: phân công chăm sóc cụ thể và báo cáo kịp thời những diễn biến bất thường cho bác sỹ điều trị sử lý kịp thời
7.Ghi những thông số, dấu hiệu, triệu chứng bất thường của người bệnh và cách xử lý và phiếu theo dõi chăm sóc theo đúng quy định
8 Đã hướng dẫn cho người bệnh và gia đình thực hiện chế độ sinh dưỡng phù hợp với tình trạng bệnh, tạo không khí vui vẻ thân thiện trong bữa ăn
Tham gia vào công tác truyền thông và giáo dục sức khỏe, đồng thời hướng dẫn thực hành về chăm sóc người bệnh theo sự phân công của điều dưỡng trưởng khoa là nhiệm vụ quan trọng.
10 Động viên người bệnh yên tâm điều trị, bản thân thực hiện tốt quy định y đức và chuẩn đạo đức nghề nghiệp
* Đối với nhân viên y tế:
- Điều dưỡng lập kế hoạch chăm sóc cho người bệnh còn sơ sài, chưa đầy đủ nhu cầu được chăm sóc của người bệnh
Điều dưỡng chưa chú trọng lắng nghe tâm tư và nguyện vọng của người bệnh, dẫn đến việc hỗ trợ tâm lý chưa hiệu quả Thời gian tiếp xúc và trò chuyện với bệnh nhân vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc.
Điều dưỡng chưa thực hiện hiệu quả việc giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân, chủ yếu chỉ tập trung vào việc hướng dẫn chăm sóc, ăn uống và vệ sinh Việc giải thích về bệnh tật và nguyên nhân gây bệnh hầu như chưa được thực hiện, dẫn đến việc bệnh nhân và gia đình không hiểu rõ về tình trạng sức khỏe của mình.
Điều dưỡng cần nâng cao tính chủ động trong việc chăm sóc người bệnh, không chỉ dừng lại ở việc cho bệnh nhân uống thuốc hay tiêm truyền theo y lệnh Họ nên phát huy hết khả năng và trách nhiệm của mình bằng cách khuyến khích bệnh nhân tự vệ sinh cá nhân, đồng thời hướng dẫn người nhà tham gia vào quá trình chăm sóc.
Sau khi bệnh nhân sử dụng thuốc, nhân viên y tế thường không theo dõi thường xuyên để phát hiện tác dụng phụ, mà chủ yếu dựa vào báo cáo từ người nhà.
- Hoạt động giám sát, đánh giá của điều dưỡng trưởng chưa thường xuyên và hiệu quả
Bếp ăn tập thể của bệnh viện hiện chưa hoạt động hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu cung cấp suất ăn và chế độ dinh dưỡng cần thiết cho bệnh nhân Hiện tại, công tác dinh dưỡng chỉ dừng lại ở việc điều dưỡng hướng dẫn thực hiện chế độ ăn mà chưa có sự triển khai cụ thể trong việc cung cấp thực phẩm.
NVYT chưa khai thác tối đa các liệu pháp tâm lý và bổ trợ cho bệnh nhân, như tâm lý, thư giãn và thể dục Thời gian tiếp xúc với bệnh nhân còn hạn chế, và hầu như không có hoạt động tập thể tại khoa, như thể dục thể thao hay lao động làm vườn.
- Kỹ năng mềm ( Kỹ năng hỏi, lắng nghe, chia sẻ…) của điều dưỡng còn rất hạn chế
* Đối với người nhà người bệnh:
Chế độ lao động, làm việc và dinh dưỡng của người bệnh trầm cảm thường chưa được gia đình chú trọng đúng mức Cần đảm bảo người bệnh ăn những thực phẩm dễ tiêu, giàu năng lượng và phù hợp với khẩu vị của họ Ngoài ra, khuyến khích người bệnh ngồi dậy, đứng lên, đi lại nhẹ nhàng trong phòng, tham gia vào các hoạt động như nhặt rau, nấu cơm, quét nhà, và chơi các môn thể thao mà họ từng yêu thích.
- Chưa thực sự phối hợp với NVYT để động viên và giao cho người bệnh những công việc nhẹ nhàng phù hợp với khả năng của người bệnh.
Nguyên nhân của các tồn tại
- Nguồn nhân lực làm chuyên môn thiếu so với yêu cầu
Đội ngũ điều dưỡng hiện tại chưa được đào tạo chuyên sâu về điều dưỡng chuyên ngành cũng như thiếu kiến thức bổ trợ về tâm lý và các liệu pháp tâm thần Bệnh viện chỉ có một viên chức có trình độ chuyên ngành tâm lý, và chưa có cán bộ nào được đào tạo chuyên sâu về giáo dục chuyên biệt.
Cơ sở hạ tầng hiện tại còn nhiều hạn chế, thiếu khoa tâm lý phục hồi chức năng dành cho người bệnh Khuôn viên chật hẹp không có đủ không gian cho các hoạt động vui chơi và thực hiện liệu pháp lao động cho bệnh nhân.
Việc giám sát và đánh giá trong lĩnh vực y tế gặp khó khăn do thiếu các văn bản pháp quy và chế tài chưa đủ mạnh, dẫn đến sự tuân thủ công vụ của một số điều dưỡng chưa đạt yêu cầu.
- Trong điều trị mới chỉ chú trong đến liệu pháp hóa dược mà chưa có sự kết hợp của trị liệu tâm lý
* Đối với đội ngũ điều dưỡng:
- Đa số điều dưỡng viên còn thụ động thực hiện theo chỉ định của bác sỹ, sự chỉ đạo hướng dẫn của điều dưỡng trưởng khoa
- Năng lực điều dưỡng còn hạn chế, chưa phát huy được vai trò chủ động trong chăm sóc
- NVYT nói chung và điều dưỡng nói riêng chưa chủ động học tập để vận dụng các liệu pháp tâm lý đối với người bệnh
* Đối với người nhà người bệnh:
Nhiều gia đình có người bệnh thường rơi vào trạng thái chán nản và mệt mỏi, dẫn đến việc thiếu sự quan tâm cần thiết đối với người bệnh Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, họ thường bỏ mặc người bệnh, không đưa đi viện hoặc nếu có đưa đi thì lại bỏ rơi tại bệnh viện mà không chăm sóc.
Nhiều gia đình khi đưa bệnh nhân đến viện lần đầu vẫn thiếu kiến thức về bệnh tật và cách chăm sóc, dẫn đến quan niệm sai lầm rằng bệnh do ma quỷ gây ra Họ thường không chú trọng vào việc hợp tác với nhân viên y tế trong quá trình điều trị, mà lại đưa bệnh nhân đi cúng bái tại các phủ, đền.