Trong các biểu hiện của TC, rối loạn giấc ngủ RLGN là triệu chứng rất phổ biến.. Với những lý do trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu: “Thực trạng chăm sóc rối loạn giấc ngủ trên người b
CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN
Cơ sở lý luận
2.1.1.1 Khái niệm về trầm cảm và dịch tễ học của trầm cảm
Theo TCYTTG (1992), trầm cảm là một rối loạn cảm xúc bệnh lý, với các triệu chứng như buồn bã, giảm hứng thú, mệt mỏi, khó tập trung, cảm giác tự ti, và thay đổi về giấc ngủ cũng như trọng lượng cơ thể.
Rối loạn trầm cảm chu kỳ, theo Bùi Quang Huy (2016), là một rối loạn cảm xúc đặc trưng bởi sự xuất hiện của một hoặc nhiều giai đoạn trầm cảm Người mắc bệnh không có tiền sử các giai đoạn hưng cảm, hưng cảm nhẹ hoặc giai đoạn hỗn hợp.
Theo DSM-5 (2013), rối loạn trầm cảm (TC) bao gồm các loại như trầm cảm điển hình, loạn khí sắc, trầm cảm do chất và trầm cảm do bệnh thực tổn Trầm cảm điển hình được xác định bởi ít nhất một giai đoạn TC, trong đó bệnh nhân cần có ít nhất 5 triệu chứng chủ yếu, bao gồm giảm khí sắc và mất hứng thú trong các hoạt động Các giai đoạn TC này phải kéo dài ít nhất 2 tuần, và bệnh nhân không có tiền sử lạm dụng chất hay chấn thương sọ não.
Gồm 3 triệu chứng chủ yếu
Cảm xúc bị ức chế thường biểu hiện qua việc giảm khí sắc, cảm giác buồn chán và mất đi mọi sự quan tâm, thích thú Người mắc phải tình trạng này thường cảm thấy không thoải mái, nhìn nhận thế giới xung quanh một cách ảm đạm và bi quan Họ cũng luôn cảm thấy mệt mỏi, và ngay cả khi nghỉ ngơi, cảm giác mệt mỏi vẫn không thuyên giảm.
Tư duy bị ức chế là một triệu chứng phổ biến ở những người mắc trầm cảm, khiến họ khó tập trung, suy nghĩ chậm và gặp khó khăn trong giao tiếp Người bệnh thường có những ý tưởng tiêu cực như sám hối, xấu hổ và bất hạnh, dẫn đến cảm giác tủi nhục Trong nhiều trường hợp, những suy nghĩ này có thể phát triển thành hoang tưởng, khiến họ cảm thấy bị buộc tội hoặc tự buộc tội, từ đó gia tăng nguy cơ tự sát.
Hoạt động bị ức chế là tình trạng mà người bệnh thường giảm thiểu hoạt động, thường xuyên nằm hoặc ngồi một chỗ Họ không có mong muốn và cũng không thích tham gia vào bất kỳ công việc nào, kể cả những hoạt động tự chăm sóc bản thân.
Một số triệu chứng của rối loạn tâm lý bao gồm sự chú ý trì trệ, giảm trí nhớ, và xuất hiện ảo tưởng hoặc ảo giác liên quan đến hoang tưởng tự tội Ngoài ra, lo âu ám ảnh và từ chối ăn uống cũng có thể dẫn đến tình trạng suy kiệt cơ thể nghiêm trọng.
Trầm cảm không điển hình
Suy nhược thể chất và tinh thần là tình trạng giảm khí sắc, gây ra cảm giác mệt mỏi, uể oải và thiếu sinh lực Người mắc phải thường cảm thấy thờ ơ với môi trường xung quanh và không còn hứng thú với những hoạt động thường ngày, bao gồm cả nhu cầu sinh lý.
Rối loạn cơ thể và thực vật có thể gây ra những triệu chứng nổi bật, thường làm lu mờ các rối loạn cảm xúc Các triệu chứng thực vật rất đa dạng, bao gồm cơn vã mồ hôi, đánh trống ngực, cơn đau không xác định, nôn mửa, khô miệng và táo bón.
Rối loạn tâm thần mất cảm giác khiến người bệnh không còn cảm nhận được đau buồn hay vui sướng, dẫn đến sự khổ sở vì tình trạng này.
Bệnh nhân thường cảm thấy khó chịu khi khí sắc giảm, dẫn đến niềm tin rằng họ mắc phải một bệnh nặng không thể chữa trị.
TC sững sờ là tình trạng có khí sắc trầm, kèm theo ức chế vận động nghiêm trọng, đôi khi dẫn đến sự bất động hoàn toàn Tình trạng này dễ bị nhầm lẫn với sững sờ căng trương lực.
TC Paranoid là một trạng thái tâm lý trong đó người bệnh trải qua nhiều hoang tưởng đa dạng, bao gồm cảm giác bị theo dõi, bị truy hại, bị đầu độc hoặc bị buộc tội Tình trạng này có thể đi kèm với các ảo giác, cả thật lẫn giả, thường liên quan đến việc chê bai, bình phẩm hoặc nói xấu về người bệnh.
Trong trạng thái TC vật vã, bệnh nhân có khí sắc giảm nhưng không bị ức chế vận động; thay vào đó, họ thường đứng ngồi không yên, rên rỉ, và thể hiện sự sợ hãi, hoảng loạn Bệnh nhân thường than vãn về tình trạng khó chịu của mình và cầu cứu sự giúp đỡ để tránh những tai họa sắp xảy ra cho bản thân và gia đình Nếu không được can thiệp kịp thời, trong cơn xung động, bệnh nhân có thể tự sát.
Tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn TC theo phân loại bệnh tật quốc tế lần thứ 10 (ICD-10, 1992) của TCYTTG[8]
Tại Việt Nam, trầm cảm (TC) hiện đang được sử dụng rộng rãi trong cả nghiên cứu và thực hành lâm sàng tâm thần Trong bảng phân loại, giai đoạn trầm cảm được mã hóa là F32.X cho trầm cảm cấp tính và F33.X cho trầm cảm tái diễn, với các tiêu chuẩn cụ thể đi kèm.
Trong đó phải có các triệu chứng đặc trưng sau:
* Có 3 triệu chứng chủ yếu:
2 Mất quan tâm thích thú
3 Giảm năng lượng, dẫn đến mệt mỏi và giảm hoạt động
2 Giảm tự trọng và lòng tin
3 Những ý tưởng bị tội và không xứng đáng
4 Nhìn tương lai ảm đạm và bi quan
7 Có ý tưởng và hành vi tự sát
Thời gian tồn tại ít nhất 2 tuần
Trong lâm sàng còn sử dụng test Beck để hỗ trợ chẩn đoán
Về thể lâm sàng của TC, bảng Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 của TCYTTG (ICD-10, 1992)[6], phân loại cụ thể như sau:
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Giới thiệu về Bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam Định
Bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam Định, tọa lạc trên diện tích 1 ha trong khu vực nội thành, có quy mô 700 giường bệnh Bệnh viện bao gồm 5 phòng chức năng, 8 khoa lâm sàng và 1 khoa cận lâm sàng, với đội ngũ 117 nhân viên y tế chuyên nghiệp.
Bệnh viện gồm 2 khu : Khu Điều trị và Khu Hành chính
- Khu Điều trị: Địa chỉ: Đường Đệ Tứ - Lộc Hạ - Nam Định
- Khu Hành chính: Địa chỉ: Đường Đệ Tứ - Lộc Hạ - Nam Định ( Cách khu Điều trị 50m về phía Đông)
Bệnh viện tại tỉnh Nam Định chuyên điều trị và chăm sóc sức khỏe tâm thần, nhưng số lượng bệnh nhân đến khám tại đây không nhiều do chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng Phần lớn bệnh nhân nhập viện trong tình trạng bệnh cấp tính, với mất ngủ kéo dài là nguyên nhân chính Tỷ lệ người bệnh trầm cảm trong cộng đồng chiếm từ 3-5% dân số, điều này cho thấy cần thiết phải nâng cao chất lượng chăm sóc giấc ngủ cho bệnh nhân trầm cảm.
Thông tin chung
Khảo sát 37 NB trầm cảm điều trị nội trú tại bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định Chúng tôi thu được kết quả sau
Nhóm nghiên cứu có 14 bệnh nhân (37.8%) ở độ tuổi từ 40-49, 12 bệnh nhân (32.4%) trên 60 tuổi, 6 bệnh nhân (16.2%) từ 50-59 tuổi, và thấp nhất là 2 bệnh nhân (5.4%) ở độ tuổi 20-29.
37 NB thuộc nhóm nghiên cứu: có 14 NB nam (chiếm 37.8%), 31 NB nữ (chiếm 62.2%) Tỉ lệ NB nữ gấp 1.7 lần bệnh nhân nam
Trong nhóm nghiên cứu, công nhân chiếm 45.9% tổng số người lao động, trong khi nhóm lao động tự do, tức là những người không có nghề nghiệp ổn định, là nhóm tiếp theo.
35.1%, là công-viên chức, hưu trí chiếm 16.2%, nông dân chiếm 2.7% Không có học sinh-sinh viên
Có 51.4% NB cư trú tại thành thị, 48.6% BN cư trú ở nông thôn Đa số NB trong nhóm nghiên cứu có trình độ học vấn THCS và THPT (70,2%) 100% NB điều trị lần 1 có thời gian mang bệnh dưới 6 tháng; nhóm NB mang bệnh trong 6 tháng đầu tiên và điều trị lần 1 chiếm tỉ lệ cao nhất 16/37 NB (43.2%); tiếp theo là nhóm NB điều trị lần 2 có 13 NB trong đó có 5/13 NB có thời gian mang bệnh từ 6 tháng - 2 năm, 8 NB có thời gian mang bệnh từ 2-10 năm Có 8 NB điều trị nhiều lần có thời gian mang bệnh lớn hơn 10 năm có người tới 20 năm.
Thực trạng về rối loạn giấc ngủ ở người bệnh trầm cảm điều trị tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam Định
Biểu đồ 3.1: Các mức độ trầm cảm
Theo nghiên cứu, tỉ lệ bệnh nhân có mức độ trầm cảm vừa chiếm 81.1%, trong khi tỉ lệ trầm cảm nhẹ là 8.1% Chúng tôi cho rằng con số này hợp lý do sự hiểu biết về rối loạn trầm cảm vẫn còn hạn chế, dẫn đến việc nhiều bệnh nhân chỉ được chẩn đoán với mức độ trầm cảm nhẹ.
Trầm cảm nhẹTrầm cảm vừaTrầm cảm nặng
Nhiều người vẫn còn chủ quan về sức khỏe tâm thần, dẫn đến việc họ khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế không phù hợp hoặc không được chẩn đoán chính xác Thường thì họ chỉ được chuyển đến bệnh viện tâm thần khi các triệu chứng đã trở nên rõ ràng.
3.3.2 Trầm cảm với triệu chứng loạn thần
Biểu đồ 3.2 cho thấy tỷ lệ trầm cảm kèm theo triệu chứng loạn thần, với 10.8% số bệnh nhân (NB) có biểu hiện này Cụ thể, 5.4% bệnh nhân gặp hoang tưởng, trong khi đó, một tỷ lệ tương tự cũng ghi nhận cả hoang tưởng và ảo giác.
3.3.3 Rối loạn thời lượng ngủ trong trầm cảm
Bảng 3.1: Rối loạn thời lượng ngủ Giới
Nam Nữ Tổng n Tỉ lệ
Kết quả nghiên cứu cho thấy 100% bệnh nhân gặp rối loạn giấc ngủ, với 36/37 bệnh nhân (chiếm 97,3%) có thời gian ngủ giảm và 1 bệnh nhân (chiếm 2,7%) ngủ nhiều Những phát hiện này phù hợp với nhận xét và kết quả nghiên cứu của Cao Tiến Đức (2016) và Trần Viết Nghị (1994).
3.3.4 Rối loạn chất lượng giấc ngủ trong trầm cảm
Bảng 3.2: Rối loạn chất lượng giấc ngủ Giới
Khó ngủ lại khi thức giấc 12 32.4 22 59.4
Theo bảng 05, tỷ lệ người bệnh nam có biểu hiện mất ngủ đầu giấc là 37.8%, trong khi đó tỷ lệ này ở nữ giới là 54% Ngoài ra, 32.4% nam và 64.7% nữ gặp khó khăn trong việc ngủ lại hoặc không thể ngủ lại khi tỉnh giấc Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Bùi Quang Huy và cộng sự (2017).
Có 14 NB nam (chiếm 37.8%) và 21 NB nữ (chiếm 56.7%) có biểu hiện ngủ không sâu giấc Bùi Quang Huy và cộng sự (2017) thấy 52,54% NB trầm cảm có biểu hiện rối loạn ngủ không sâu giấc
Trong một nghiên cứu về giấc ngủ, có 51.3% bệnh nhân (19/37) cho biết họ có trải nghiệm mơ trong khi ngủ, trong đó 26.3% (5/19) thường xuyên gặp ác mộng Những triệu chứng này gây ra cảm giác khó chịu và mệt mỏi cho bệnh nhân trong quá trình diễn biến bệnh Việc hiểu biết về rối loạn giấc ngủ là rất quan trọng để cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Biểu đồ 3.3: Hiểu biết của người bệnh khi có rối loạn giấc ngủ
Nghiên cứu cho thấy, trong số các bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ (RLGN), 62.2% (23 bệnh nhân) chọn cách nằm chờ giấc ngủ đến, trong khi 29.7% (11 bệnh nhân) dậy đi lại, trong đó có 4 bệnh nhân thường xuyên đi lại do hoang tưởng ảo giác Chỉ có 8.1% (3 bệnh nhân) áp dụng các biện pháp thư giãn như tập thể dục, nghe đài và xoa bóp.
Kết quả cho thấy phần lớn người bệnh còn thiếu hiểu biết về chăm sóc giấc ngủ Do đó, cần tăng cường giáo dục để nâng cao nhận thức và hướng dẫn mọi người cách cải thiện chất lượng giấc ngủ.
3.3.6 Hiểu biết của người bệnh khi có cảm giác buồn chán mệt mỏi
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng 81.1% số bệnh nhân (30/37) chọn tìm chỗ yên tĩnh để nằm nghỉ, trong khi 10.8% (4 bệnh nhân) tham gia vào các hoạt động giải trí mà họ từng yêu thích, và 8.1% (3 bệnh nhân) lựa chọn làm việc nhẹ nhàng hoặc chơi với bạn bè, hàng xóm Điều này cho thấy phần lớn bệnh nhân còn thiếu kiến thức về tự chăm sóc bản thân, dẫn đến việc họ chỉ nằm im một chỗ thay vì tham gia vào các hoạt động cộng đồng Hành động này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng sức khỏe của họ, vì vậy cần có sự hướng dẫn và can thiệp để nâng cao hiểu biết và cải thiện khả năng hoạt động cho bệnh nhân.
Sử dụng các biện pháp thư giãnKhông làm gì,nằm yên
Nguyên nhân của những việc đã làm được và chưa làm được
3.3.7 Kế hoạch chăm sóc giấc ngủ cho NB của điều dưỡng
Bảng 3.3: Chăm sóc giấc ngủ cho NB của điều dưỡng Mức độ trầm cảm
KHCS chung cho người bệnh trầm cảm 3 29 0 32
CS chi tiết từng biểu hiện trên mỗi người bệnh
Theo kết quả khảo sát, 86,5% bệnh nhân có kế hoạch chăm sóc chung về rối loạn giấc ngủ, nhưng chỉ 13,5% được chăm sóc chi tiết theo triệu chứng và diễn biến của bệnh Hầu hết bệnh nhân có kế hoạch chăm sóc đầy đủ và chi tiết là những người được theo dõi sát sao.
Tỉ lệ bệnh nhân NB mắc rối loạn TC ở mức độ vừa và nặng là rất thấp, điều này cho thấy cần cải thiện kế hoạch chăm sóc để đáp ứng đầy đủ yêu cầu.
3.3.8 Chăm sóc các biểu hiện kèm theo mất ngủ trong trầm cảm
Kết quả cho thấy 100% bệnh nhân (NB) được chăm sóc có các biểu hiện kèm theo của tình trạng tâm lý (TC) Tuy nhiên, chỉ có 2 bệnh nhân (chiếm 5,4%) được chăm sóc chi tiết cho từng biểu hiện kèm theo, và cả hai bệnh nhân này đều có ý tưởng và hành vi tự sát.
3.3.9 Chăm sóc dinh dưỡng NB mất ngủ trong trầm cảm
Chỉ có 29,7% bệnh nhân (NB) được cung cấp bữa ăn có chất lượng tốt, bao gồm đầy đủ dinh dưỡng, hợp vệ sinh và hợp khẩu vị, trong khi 70,3% chỉ đạt mức độ đảm bảo bữa ăn đủ dinh dưỡng và hợp vệ sinh Những bệnh nhân có chất lượng bữa ăn tốt thường đến từ gia đình có điều kiện kinh tế khá và có khả năng phối hợp tốt với bệnh viện trong quá trình chăm sóc.
3.4 Nguyên nhân của các việc đã làm được và chưa làm được
- Internet, công nghệ phát triển dễ dàng cho việc tìm hiểu các thông tin về bệnh cũng như thông tin về chăm sóc giấc ngủ
- Các phương pháp chăm sóc giấc ngủ dễ dàng thực hiện
- Các công cụ chăm sóc giấc ngủ dễ dàng tìm mua và giá thành không đắt
- Các thuốc điều trị trầm cảm và vấn đề giấc ngủ được Nhà nước hỗ trợ điều trị, cấp phát từ tuyến y tế cơ sở
Đội ngũ nhân viên y tế từ cơ sở đến tuyến trên được đào tạo chuyên môn bài bản và nhiệt tình trong việc chăm sóc, hỗ trợ bệnh nhân.
Nhiều bệnh nhân có trình độ học vấn thấp, chủ yếu là tốt nghiệp trung học cơ sở, và thường có độ tuổi cao, dẫn đến việc họ thiếu kinh nghiệm trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông để tìm kiếm thông tin và kiến thức về bệnh tật.
Bệnh nhân cần được điều trị lâu dài, tuy nhiên, người chăm sóc không thể ở bên cạnh liên tục để hỗ trợ Do đó, mọi hoạt động chăm sóc chủ yếu phụ thuộc vào nhân viên y tế.
Người mắc bệnh TC thường gặp khó khăn trong việc giao tiếp và chia sẻ thông tin với nhân viên y tế, điều này gây cản trở cho việc nắm bắt tình trạng sức khỏe của họ.
Nhiều loại thuốc điều trị bệnh thường đi kèm với tác dụng phụ, và hầu hết bệnh nhân đều phải đối mặt với những tác động này Do đó, bên cạnh việc chăm sóc các triệu chứng bệnh lý, nhân viên y tế cũng cần chú trọng đến việc quản lý và hỗ trợ các tác dụng phụ từ thuốc để cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
- Nguồn nhân lực từ các cơ sở khám chữa bệnh còn hạn chế so với số lượng NB ngày càng tăng
Điều dưỡng cần xây dựng kế hoạch chăm sóc chi tiết cho từng triệu chứng bệnh, bao gồm giấc ngủ, các biểu hiện trầm cảm và vấn đề dinh dưỡng của người bệnh.
Nhà ăn của bệnh viện chỉ có 5 nhân viên, dẫn đến việc không thể phục vụ đầy đủ và hiệu quả bữa ăn chất lượng cho bệnh nhân Với tiêu chuẩn 10.000đ/bữa ăn, việc đảm bảo dinh dưỡng và đáp ứng nhu cầu, khẩu vị của người bệnh trở nên khó khăn.
KHUYẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẢ THI
Dựa trên nghiên cứu về thực trạng và chăm sóc rối loạn tâm thần ở bệnh nhân trầm cảm điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam Định, chúng tôi xin đưa ra một số đề xuất và kiến nghị quan trọng cho Bộ Y tế và Sở Y tế.
Để nâng cao chất lượng điều trị và chăm sóc cho bệnh nhân tâm thần, cần xây dựng cơ sở vật chất và trang bị đầy đủ thiết bị cho bệnh viện Tâm thần Đồng thời, cần đẩy nhanh tiến độ quản lý bệnh nhân trầm cảm tại cộng đồng theo chương trình Mục tiêu Y tế - Dân số Theo Quyết định 1125/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đến năm 2020, 40% số xã, phường, thị trấn sẽ triển khai quản lý và phục hồi chức năng cho bệnh nhân rối loạn tâm lý.
Kế hoạch phối hợp giữa các bệnh viện và viện y tế là cần thiết để phát hiện, quản lý, điều trị và chăm sóc bệnh nhân tâm thần Ngành Tâm thần cần tăng cường nghiên cứu khoa học và ứng dụng các tiến bộ trong quản lý, điều trị và chăm sóc bệnh nhân rối loạn tâm trí.
Bệnh viện Tâm thần tỉnh Nam Định cần tăng cường mở các lớp đào tạo chuyên sâu về chăm sóc bệnh nhân tâm thần, đặc biệt là cho những bệnh nhân rối loạn tâm trạng, nhằm nâng cao kỹ năng và kiến thức cho đội ngũ điều dưỡng viên tâm thần.
Để nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân tâm thần, đặc biệt là bệnh nhân trầm cảm, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và bình phiếu chăm sóc.
Tổ chức đào tạo và cập nhật kiến thức định kỳ nhằm nâng cao kỹ năng, trình độ và kinh nghiệm cho điều dưỡng viên trong lĩnh vực tâm lý, giao tiếp và chăm sóc bệnh nhân.
Tổ chức đào tạo và chuyển giao kỹ thuật cho y tế cơ sở nhằm nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ y tế, giúp họ phát hiện, quản lý và điều trị bệnh nhân trầm cảm hiệu quả trong cộng đồng Cần đẩy mạnh công tác truyền thông và giáo dục về sức khỏe tâm thần, giúp người dân hiểu biết về bệnh trầm cảm, từ đó đến đúng nơi điều trị và tránh tình trạng giấu bệnh hoặc áp dụng các phương pháp điều trị không khoa học Điều này đặc biệt quan trọng tại vùng nông thôn, nơi tỷ lệ bệnh nhân đến khám bệnh còn thấp so với thực tế.
Xây dựng bệnh viện và mua sắm trang thiết bị y tế là những bước quan trọng để nâng cao chất lượng điều trị Đồng thời, tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí và phục hồi chức năng cho bệnh nhân trong quá trình điều trị cũng góp phần cải thiện tâm lý và sức khỏe của họ.
Có giải pháp phục vụ bữa ăn cho NB đảm bảo đủ dinh dưỡng, hợp vệ sinh, hợp khẩu vị cho NB Đối với điều dưỡng viên tâm thần
- Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao chất lượng chăm sóc NB
- Đi sâu, đi sát NB để nắm vững diễn biến bệnh, tâm tư, nguyện vọng, tâm lý, trình độ hiểu biết của NB để có KHCS phù hợp
Trước khi sử dụng thuốc điều trị, việc nắm rõ các tác dụng phụ là rất quan trọng để giải thích cho bệnh nhân Điều này giúp bệnh nhân hiểu rõ hơn về những phản ứng có thể xảy ra và có kế hoạch chăm sóc sức khỏe phù hợp khi gặp phải tác dụng phụ.
- Tư vấn cho NB, người thân NB để họ có đủ kiến thức, kỹ năng tự chăm sóc, trợ giúp
NB khi bệnh ổn định và khi bệnh tái phát