1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bằng chứng mới về truyền dẫn lãi suất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam Luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng

112 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 112
Dung lượng 1,59 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (13)
    • 1.1. Lý do chọn đề tài (13)
    • 1.2. Mục tiêu của đề tài (15)
      • 1.2.1 Mục tiêu tổng quát (15)
      • 1.2.2 Mục tiêu cụ thể (15)
    • 1.3. Câu hỏi nghiên cứu (16)
    • 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (16)
    • 1.5. Phương pháp nghiên cứu (16)
    • 1.6. Kết cấu của đề tài (17)
  • CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TRUYỀN DẪN LÃI SUẤT (18)
    • 2.1. Các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ (18)
      • 2.1.1. Kênh lãi suất (19)
      • 2.1.2. Kênh tín dụng (20)
      • 2.1.3. Kênh tỷ giá hối đoái (21)
      • 2.1.4. Kênh giá tài sản (22)
      • 2.1.5. Kênh kỳ vọng (23)
    • 2.2. Các lý thuyết liên quan truyền dẫn lãi suất (24)
      • 2.2.1 Khái niệm truyền dẫn lãi suất (24)
      • 2.2.2 Khái niệm bám dính lãi suất (27)
        • 2.2.2.1 Định mức tín dụng cân bằng và lựa chọn bất lợi (29)
        • 2.2.2.2 Chi phí chuyển đổi (29)
        • 2.2.2.3 Chia sẻ rủi ro (30)
        • 2.2.2.4 Tính phi lý của người tiêu dùng (31)
    • 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng sự truyền dẫn lãi suất (32)
      • 2.3.1 Cấu trúc hệ thống tài chính (32)
        • 2.2.1.1. Mức độ cạnh tranh và sự tập trung ngân hàng (32)
        • 2.3.1.2 Cấu trúc sở hữu của ngân hàng (33)
        • 2.3.1.3 Mức độ phát triển và độ mở thị trường tài chính (34)
      • 2.3.2 Chi phí thực đơn (35)
      • 2.3.3 Thanh khoản dư thừa của hệ thống ngân hàng (36)
      • 2.3.4 Thông tin bất cân xứng (36)
      • 2.3.5 Chế độ chính sách tiền tệ (37)
      • 2.3.6 Tính bất ổn thị trường tiền tệ, lạm phát và các điều kiện vĩ mô (37)
    • 2.4. Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan (37)
      • 2.4.1 Các nghiên cứu truyền dẫn lãi suất tại Việt Nam (37)
      • 2.4.2 Các nghiên cứu truyền dẫn lãi suất trên thế giới (38)
  • CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (57)
    • 3.1. Phương pháp ARDL (57)
    • 3.2. Phương pháp ARDL phi tuyến (60)
    • 3.3. Mô tả dữ liệu (63)
  • CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỀN DẪN TỪ LÃI SUẤT CHÍNH SÁCH ĐẾN LÃI SUẤT BÁN LẺ (66)
    • 4.1. Chính sách lãi suất của Việt Nam giai đoạn 2009-2018 (66)
      • 4.1.1. Giai đoạn 2009 – 2012 (66)
      • 4.1.2. Giai đoạn 2012 – 2018 (67)
    • 4.2. Kiểm định tính dừng (69)
    • 4.3. Truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất cho vay (70)
    • 4.4. Truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất huy động (73)
  • CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ TRUYỀN DẪN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ (77)
    • 5.1. Tóm tắt các phát hiện của nghiên cứu (77)
    • 5.2. Đề xuất chính sách (78)
  • KẾT LUẬN (56)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (83)
  • PHỤ LỤC (87)

Nội dung

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Lý do chọn đề tài

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng như một tổ chức tài chính trung gian Lãi suất của NHTM không chỉ ảnh hưởng đến cung và cầu trên thị trường cho vay và huy động, mà còn tác động mạnh mẽ đến các hoạt động kinh tế, bao gồm chu kỳ kinh tế, đầu tư, mức lạm phát và tăng trưởng GDP.

Chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và kiểm soát lạm phát Để đạt được hiệu quả, cần thiết phải có mối quan hệ lâu dài giữa lãi suất của Ngân hàng Trung ương và ngân hàng bán lẻ, bất kể quá trình truyền dẫn là hoàn toàn, một phần hay quá mức (Zhang và cộng sự, 2017).

Việc theo dõi sự biến động của lãi suất bán lẻ so với lãi suất chính sách của Ngân hàng Trung ương là rất quan trọng để đánh giá hiệu quả của chính sách tiền tệ, từ đó góp phần duy trì sự ổn định cho nền kinh tế.

Nghiên cứu về truyền dẫn lãi suất tại Việt Nam còn hạn chế, với các tác giả như Đinh Thị Thu Hồng và Phan Đình Mạnh (2013) sử dụng mô hình ECM-EGARCH (1,1) để kiểm tra tính đối xứng và bất đối xứng trong truyền dẫn lãi suất, phát hiện rằng sự truyền dẫn từ lãi suất thị trường sang lãi suất bán lẻ không hoàn toàn Nghiên cứu của Nguyễn Khắc Quốc Bảo và Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2013) chỉ ra rằng điều kiện ràng buộc về vốn và tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại là nguyên nhân chính gây bất đối xứng trong truyền dẫn lãi suất Nguyễn Thị Ngọc Trang và Nguyễn Hữu Tuấn (2014) khẳng định sự tồn tại của truyền dẫn không hoàn toàn từ lãi suất liên ngân hàng và lãi suất chính sách đến lãi suất bán lẻ, nhưng các nghiên cứu này vẫn chưa đạt được sự đồng thuận về cơ chế truyền dẫn lãi suất tại Việt Nam.

Nghiên cứu này nhằm khắc phục các thiếu sót của các nghiên cứu trước đó bằng cách áp dụng phương pháp tự hồi quy phân phối trễ phi tuyến (NARDL) do Shin và cộng sự phát triển vào dữ liệu lãi suất chính sách và lãi suất bán lẻ trong giai đoạn từ tháng 1/2009 đến tháng 9/2018 Kết quả nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi của lãi suất bán lẻ trước các biến động của lãi suất chính sách của Ngân hàng Trung ương Từ đó, nghiên cứu cung cấp các tiêu chí đánh giá chính xác giúp Ngân hàng Trung ương hiểu rõ hơn về động lực phi tuyến giữa hai loại lãi suất, hỗ trợ cho việc hoạch định chính sách và dự báo hiệu quả hơn cho các nhà hoạch định chính sách tại Việt Nam.

Kênh truyền dẫn lãi suất từ lãi suất chính sách đến lãi suất ngân hàng bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả chính sách tiền tệ và duy trì ổn định kinh tế Sự truyền dẫn cao từ lãi suất điều hành sang lãi suất cho vay cho thấy hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ hoạt động hiệu quả Tuy nhiên, việc truyền dẫn chậm hoặc không đầy đủ có thể ảnh hưởng đến khả năng điều chỉnh cung cầu thị trường Ngân hàng Trung ương khó có thể chuyển hoàn toàn chi phí tăng lãi suất chính sách sang lãi suất bán lẻ, do các ngân hàng có thể yêu cầu bù đắp rủi ro cao hơn trong bối cảnh kinh tế chậm lại Sự cắt giảm lãi suất chính sách cũng không hoàn toàn đến tay hộ gia đình và doanh nghiệp, dẫn đến truyền dẫn không đầy đủ Nếu ngân hàng đánh giá rủi ro thấp, mức độ truyền dẫn có thể tăng, gây ra nguy cơ quá nóng cho nền kinh tế Do đó, hiểu rõ kênh truyền dẫn lãi suất là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến cung cầu thị trường vay mượn và tác động đến các yếu tố kinh tế như chu kỳ kinh tế, đầu tư, lạm phát và tăng trưởng GDP.

Xuất phát từ tầm quan trọng của nghiên cứu, tác giả đã chọn đề tài "Bằng chứng mới về truyền dẫn lãi suất trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam" để thực hiện nghiên cứu.

Mục tiêu của đề tài

Bài viết đánh giá sự thay đổi của lãi suất bán lẻ liên quan đến lãi suất chính sách của Ngân hàng Trung ương tại Việt Nam từ tháng 01/2009 đến tháng 09/2018 Nghiên cứu này kiểm chứng sự hiện diện của truyền dẫn lãi suất bất đối xứng, nhằm cung cấp các tiêu chí đánh giá chính xác cho Ngân hàng Trung ương Mục tiêu là giúp các nhà hoạch định chính sách hiểu rõ hơn về động lực phi tuyến giữa lãi suất chính sách và lãi suất bán lẻ, từ đó hỗ trợ việc hoạch định chính sách và dự báo hiệu quả hơn.

1.2.2 Mục tiêu cụ thể: Để giải quyết vấn đề đã trình bày trên đây, đề tài hướng đến nghiên cứu các mục tiêu cụ thể sau:

Khái quát về lý thuyết truyền dẫn lãi suất cho thấy rằng có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quá trình này, bao gồm chính sách tiền tệ, lạm phát và kỳ vọng thị trường Các nghiên cứu về truyền dẫn lãi suất tại Việt Nam và trên thế giới đã chỉ ra rằng sự tương tác giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh lãi suất Việc hiểu rõ những yếu tố này sẽ giúp cải thiện hiệu quả của chính sách tiền tệ và ổn định nền kinh tế.

Bài viết phân tích quá trình truyền dẫn lãi suất từ lãi suất chính sách đến lãi suất bán lẻ trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, sử dụng phương pháp tự hồi quy phân phối trễ phi tuyến (NARDL) Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 1/2009 đến tháng 09/2018, nhằm làm rõ mối quan hệ giữa các loại lãi suất và tác động của chính sách tiền tệ đến thị trường tài chính.

Bài viết này tóm tắt các bằng chứng và kết quả mới về truyền dẫn lãi suất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, đồng thời đưa ra những giải pháp và khuyến nghị nhằm hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách trong việc cải thiện hiệu quả hoạch định chính sách và dự báo kinh tế tại Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu

Khái niệm truyền dẫn lãi suất đề cập đến quá trình mà qua đó thay đổi lãi suất của Ngân hàng Trung ương ảnh hưởng đến lãi suất thị trường và các quyết định tài chính của người tiêu dùng Các nhân tố ảnh hưởng đến sự truyền dẫn lãi suất bao gồm chính sách tiền tệ, kỳ vọng lạm phát, và tình hình kinh tế vĩ mô Tại Việt Nam và trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về truyền dẫn lãi suất, cho thấy rằng mặc dù có những kết quả tích cực trong việc cải thiện hiệu quả chính sách tiền tệ, vẫn tồn tại một số hạn chế như độ trễ trong phản ứng của thị trường và sự không đồng nhất giữa các khu vực kinh tế.

Nghiên cứu này phân tích kết quả truyền dẫn lãi suất từ lãi suất chính sách đến lãi suất bán lẻ bằng phương pháp tự hồi quy phân phối trễ phi tuyến (NARDL) trong giai đoạn từ tháng 1/2009 đến tháng 09/2018 Kết quả cho thấy có sự tác động rõ rệt của lãi suất chính sách đến lãi suất bán lẻ, với mối quan hệ không đồng nhất trong các giai đoạn khác nhau Phân tích cũng chỉ ra rằng các yếu tố kinh tế vĩ mô và chính sách tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến sự biến động của lãi suất bán lẻ trong thời gian nghiên cứu.

Bài viết này tập trung vào việc đánh giá sự tồn tại của bằng chứng mới về việc truyền dẫn lãi suất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam Nó cũng đề xuất các giải pháp và khuyến nghị nhằm hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách trong việc cải thiện quy trình hoạch định và nâng cao độ chính xác trong dự báo hiệu quả.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu tập trung vào lãi suất chính sách, cụ thể là lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng với lãi suất bán lẻ, bao gồm lãi suất cho vay và huy động của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

+ Không gian: Lãi suất chính sách, lãi suất bán lẻ tại Việt Nam

+ Thời gian: Từ tháng 01/2009 đến tháng 09/2018.

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện các mục tiêu đặt ra, nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng, thông qua mô hình tự hồi quy phân phối trễ phi tuyến (NARDL)

Ngoài ra, nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp kế thừa, thống kê mô tả, phân tích, diễn dịch và quy nạp.

Kết cấu của đề tài

Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu

Chương 2: Cơ sở lý thuyết về truyền dẫn lãi suất

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Chương 4: Kết quả nghiên cứu về truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất bán lẻ

Chương 5: Kết luận, giải pháp và khuyến nghị tăng cường hiệu quả truyền dẫn chính sách tiền tệ.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TRUYỀN DẪN LÃI SUẤT

Các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ

Các nhà kinh tế học đồng thuận rằng chính sách tiền tệ là công cụ quan trọng giúp các nhà chức trách xác định tổng cầu ngắn hạn và trung hạn theo mong muốn của Ngân hàng Trung ương Để thực thi hiệu quả chính sách này, cần có sự phán đoán chính xác về thời gian và tác động của các chính sách đối với nền kinh tế, đòi hỏi kiến thức sâu rộng về các cơ chế ảnh hưởng Một số Ngân hàng Trung ương điều chỉnh lãi suất ngắn hạn với hy vọng tác động tích cực đến hoạt động kinh tế, thông qua các kênh truyền dẫn như lãi suất, tín dụng, tỷ giá, giá tài sản và kỳ vọng Hình 2.1 minh họa cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ của Ngân hàng Anh.

Nguồn: Ngân hàng Anh (www.bankofengland.co.uk)

Hình 2.1 Kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ

Trong kênh lãi suất, việc thắt chặt tiền tệ làm giảm cung tiền M, dẫn đến tăng lãi suất thực (r) Kết quả là tiêu dùng (C) và đầu tư (I) giảm, kéo theo tổng cầu (Y) và sản lượng (y) cũng giảm Cuối cùng, tổng giá và lạm phát (π) giảm theo.

Kênh lãi suất, hay còn gọi là “kênh Keynesian truyền thống”, thể hiện mối quan hệ quan trọng giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực Trong đó, lãi suất thực, không phải lãi suất danh nghĩa, đóng vai trò quyết định trong các lựa chọn tiêu dùng và đầu tư Điều này xảy ra dưới giả định rằng giá cả là cố định Ngoài ra, còn có mối liên hệ giữa lãi suất thực ngắn hạn và dài hạn, cũng như giữa tổng cầu và sản lượng – giá cả, cho thấy tầm quan trọng của lãi suất trong nền kinh tế.

Tổng cầu Áp lực lạm phát

Lạm phát và tín dụng ngắn hạn thường dẫn đến lãi suất thực cao hơn khi lãi suất danh nghĩa gia tăng Điều này ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, trong đó chi phí vay thực phụ thuộc vào lãi suất thực tiền nghiệm và tỷ lệ lạm phát không chắc chắn Khi giả định giá cả bám dính không được chấp nhận, kênh lãi suất vẫn hoạt động, khiến cung tiền giảm và lãi suất thực tăng, dẫn đến giảm chi tiêu và sản lượng Hơn nữa, cấu trúc kỳ hạn của lãi suất ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa lãi suất thực ngắn hạn và dài hạn Cuối cùng, sự kết hợp giữa đường cong Phillips và sự cứng nhắc giá danh nghĩa tạm thời giải thích mối liên hệ giữa tổng cầu và sản lượng–giá cả.

Kênh tín dụng gồm 2 kênh phụ: kênh cho vay ngân hàng (bank lending channel) và kênh bảng cân đối (balance sheet channel)

Cơ chế truyền dẫn của kênh cho vay ngân hàng (hoặc kênh tín dụng hẹp) được biểu thị trong sơ đồ sau:

M↓ ⇒ tiền gửi ngân hàng↓ ⇒ khoản vay ngân hàng↓ ⇒ I↓ ⇒ Y↓

Chính sách thắt chặt tiền tệ dẫn đến giảm tiền gửi và cho vay ngân hàng, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng vay mượn của các công ty, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ Các ngân hàng đóng vai trò trung gian quan trọng, kết nối người vay và người cho vay, nhất là khi thị trường tài chính thiếu thông tin Hiệu quả của kênh cho vay ngân hàng phụ thuộc vào số lượng người vay và chính sách tiền tệ Nghiên cứu về kênh này rất hữu ích cho các nền kinh tế đang phát triển, nơi mà cấu trúc thị trường tài chính không hoàn hảo và hệ thống ngân hàng chiếm ưu thế hơn các kênh tài chính khác Điều này làm nổi bật vai trò quan trọng của kênh tín dụng trong phân tích kinh tế tại các quốc gia đang phát triển.

Kênh bảng cân đối, hay còn gọi là kênh tín dụng rộng, tập trung vào giá trị ròng của các công ty và liên quan đến các vấn đề như lựa chọn bất lợi trong thị trường tài chính và rủi ro đạo đức Chính sách tiền tệ có khả năng tác động đến bảng cân đối của các công ty thông qua nhiều phương thức khác nhau.

(1) M↓ ⇒ P e (giá cổ phiếu)↓ ⇒ lựa chọn bất lợi↑ và rủi ro đạo đức↑ ⇒ cho vay↓ ⇒ I↓ ⇒ Y↓

(2) M↓ ⇒ r↑ ⇒ dòng tiền↓ ⇒ lựa chọn bất lợi↑ và rủi ro đạo đức↑ ⇒ cho vay↓ ⇒ I↓ ⇒ Y↓

(3) M↓ ⇒ P e ↓ ⇒ tài sản tài chính↓ ⇒ khả năng kiệt quệ tài chính↑ ⇒ hàng tiêu dùng lâu bền↓ và chi tiêu hộ gia đình↓ ⇒ Y↓

Bernanke và Gertler (1995) đã chỉ ra rằng nền kinh tế Mỹ phản ứng với các cú sốc chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng Quyết định lãi suất của ngân hàng trung ương thường phụ thuộc vào chi phí tín dụng khả dụng Kênh phụ bảng cân đối thể hiện tác động của chính sách tiền tệ lên bảng cân đối và báo cáo thu nhập của người đi vay, trong khi kênh phụ cho vay ngân hàng cho thấy chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến việc cung cấp khoản vay Mặc dù nhiều tác giả đồng ý về sự tồn tại của kênh phụ đầu tiên, vẫn có tranh cãi về kênh phụ thứ hai Việc thắt chặt tiền tệ dẫn đến giảm GDP và mức giá với độ trễ, trong đó đầu tư của khu dân cư và đầu tư kinh doanh cố định bị ảnh hưởng nhiều nhất.

2.1.3 Kênh tỷ giá hối đoái

Kênh tỷ giá hối đoái truyền dẫn chính sách tiền tệ như sau:

M↓ ⇒ r↑ ⇒ tỷ giá hối đoái thực (E)↑ ⇒ xuất khẩu ròng (NX)↓ ⇒ Y↓

Sự gia tăng giá trị của đồng nội tệ (E↑) cho thấy khi chính sách tiền tệ làm tăng tỷ giá hối đoái thực, sẽ tác động đến xuất khẩu ròng và sản lượng Kênh này liên quan đến hiệu ứng lãi suất, khi việc thắt chặt cung tiền từ cơ quan tiền tệ làm tăng lãi suất thực trong nước (r), khiến tài sản nội tệ trở nên hấp dẫn hơn Đối với các nền kinh tế nhỏ với tỷ giá hối đoái linh hoạt, kênh này ảnh hưởng đến tổng cầu và tổng cung Trong trường hợp các nền kinh tế nhỏ với tỷ giá hối đoái cố định, lãi suất trong nước cần điều chỉnh để tương đương với lãi suất thế giới, và các nhà hoạch định chính sách có thể điều chỉnh tỷ giá hối đoái thực thông qua mức giá Mô hình IS-LM quốc tế, hay còn gọi là mô hình Mundell-Fleming, phân tích các chính sách trong cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt và cố định, được phát triển từ các nghiên cứu của Mundell (1963) và Fleming (1962).

Mô hình Mundell-Fleming mở rộng mô hình IS-LM của Keynes để tích hợp thương mại quốc tế, nhấn mạnh mối liên hệ cùng chiều giữa lãi suất thực và tỷ giá hối đoái thực Trong chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt, việc thắt chặt tiền tệ dẫn đến giảm sản lượng và lãi suất toàn cầu Ngược lại, trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, tác động của cú sốc tiền tệ nội địa chỉ mang tính tạm thời, không bền vững trong dài hạn (Blanchard và Sheen, 2013).

Sơ đồ dưới đây biểu thị kênh truyền giá tài sản:

Kênh này dựa trên lý thuyết Tobin q (1969) để giải thích cách chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến nền kinh tế thông qua việc định giá công ty Giá trị q thể hiện tỷ lệ giữa giá trị thị trường của công ty và chi phí thay thế vốn Khi chính sách tiền tệ thắt chặt, giá cổ phiếu giảm, dẫn đến giá trị q thấp hơn, vì lãi suất tăng tạo ra nhiều cơ hội hấp dẫn hơn và công ty có thể bán bớt cổ phiếu với giá thấp hơn để chi tiêu Điều này dẫn đến đầu tư giảm Thêm vào đó, Jorgenson (1963) cho rằng chi phí sử dụng vốn bao gồm lãi suất thực và tỷ lệ khấu hao, ảnh hưởng đến quy mô tối ưu của vốn cố định Sự thay đổi trong dung lượng tối ưu sẽ điều chỉnh đầu tư, với chi phí sử dụng vốn càng cao thì mức độ đầu tư càng thấp (Blanchard và Sheen, 2013).

Theo Mishkin (1995), hiệu ứng cải (wealth effect) ảnh hưởng đến tiêu dùng bắt nguồn từ giả thuyết vòng đời của Modigliani và Brumberg (1954), Ando và Modigliani (1963), cho rằng tiêu dùng phụ thuộc vào nguồn lực người tiêu dùng trong suốt đời Khi thắt chặt tiền tệ làm giảm giá cổ phiếu, sự giàu có của người tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng, dẫn đến giảm tiêu dùng và cuối cùng là giảm tổng cầu Cả giả thuyết vòng đời và giả thuyết thu nhập vĩnh viễn của Friedman (1957) đều cho rằng sự thỏa mãn cá nhân đạt tối đa khi có sự cân bằng giữa thu nhập và tiêu dùng, vì vậy, giảm tiêu dùng sẽ kéo theo giảm thu nhập và tổng cầu.

Kênh kỳ vọng đóng vai trò quan trọng trong việc dự đoán tác động của chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương đến lạm phát, đầu tư, mức lương và tăng trưởng Tuy nhiên, việc truyền dẫn chính sách qua kênh này gặp nhiều khó khăn do sự không chắc chắn trong việc đo lường mức kỳ vọng và cách mà công chúng diễn giải các thay đổi trong chính sách Chẳng hạn, khi lãi suất chính sách giảm, điều này có thể gửi tín hiệu về sự tăng trưởng cao trong tương lai Nếu kỳ vọng của công chúng tích cực hơn, điều này sẽ thúc đẩy lòng tin của nhà đầu tư, từ đó khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, dẫn đến tăng trưởng sản lượng.

Các lý thuyết liên quan truyền dẫn lãi suất

2.2.1 Khái niệm truyền dẫn lãi suất

Chính sách tiền tệ là công cụ truyền thống quan trọng để điều tiết nền kinh tế vĩ mô của Chính phủ tại hầu hết các quốc gia Hiệu quả của chính sách này trong việc điều chỉnh nền kinh tế khác nhau tùy thuộc vào điều kiện chủ quan và khách quan của từng quốc gia cũng như thể chế chính trị Việc áp dụng chính sách tiền tệ để tác động đến nền kinh tế cần xem xét kỹ lưỡng các yếu tố ảnh hưởng.

Mishkin (1996) chỉ ra rằng có bốn kênh truyền dẫn chính của chính sách tiền tệ, bao gồm kênh lãi suất, tín dụng, tỷ giá và giá tài sản Trong đó, kênh truyền dẫn lãi suất thu hút sự chú ý lớn từ các nhà kinh tế học và đã được nghiên cứu thực nghiệm kỹ lưỡng ở nhiều quốc gia Theo Gambacorta (2005, trang 1737-1759), quá trình truyền dẫn lãi suất thể hiện sự tác động của lãi suất chính sách đến lãi suất thị trường tiền tệ (hoặc liên ngân hàng) và cuối cùng là lãi suất ngân hàng (hoặc bán lẻ).

Có hai cách thức truyền dẫn chính sách tiền tệ (xem hình 2.2)

Hình 2.2 Các cách thức truyền dẫn chính sách tiền tệ

Cách tiếp cận chính sách tiền tệ cho thấy lãi suất ngân hàng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định của chính sách tiền tệ, dẫn đến việc giai đoạn trung gian của lãi suất thị trường không còn quan trọng (Sander và Kleimeier, 2004).

Cách tiếp cận chi phí vay vốn (cost of funds approach) kiểm tra sự chuyển giao giữa lãi suất thị trường và lãi suất bán lẻ Theo nghiên cứu của Égert và cộng sự (2007), quá trình truyền dẫn lãi suất thường được chia thành hai giai đoạn.

Giai đoạn đầu xác định các cú sốc chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến lãi suất thị trường tiền tệ ngắn hạn, trong khi giai đoạn thứ hai cho thấy sự thay đổi của lãi suất này tác động đến lãi suất bán lẻ của ngân hàng Các tác giả đã lập luận rằng sự liên kết giữa hai giai đoạn này là rất quan trọng để hiểu rõ hơn về cơ chế hoạt động của thị trường tài chính.

Cách tiếp cận chi phí vay vốn

Cách tiếp cận chi phí vốn trong giai đoạn đầu vận hành phụ thuộc vào độ dốc của đường cong lãi suất, có thể là dốc xuống, dốc lên hoặc nằm ngang, và chủ yếu được xác định bởi các lý thuyết truyền thống.

Theo lý thuyết kỳ vọng, lãi suất dài hạn được xác định dựa trên giá trị kỳ vọng trung bình của lãi suất ngắn hạn trong tương lai.

Lý thuyết ưa thích thanh khoản cho rằng lãi suất được xác định bởi phần bù thanh khoản mà các nhà đầu tư yêu cầu khi nắm giữ tài sản ít thanh khoản.

Lý thuyết phân cách thị trường cho rằng lãi suất ở các phân khúc kỳ hạn khác nhau bị ảnh hưởng riêng biệt bởi các yếu tố cung và cầu đặc thù Điều này có nghĩa là mỗi phân khúc thị trường sẽ phản ứng khác nhau với những biến động kinh tế, dẫn đến sự khác biệt trong mức lãi suất.

Nếu đường cong lãi suất ổn định, lãi suất chính sách sẽ truyền dẫn hiệu quả đến lãi suất thị trường Ngược lại, bất kỳ sự biến động nào trong đường cong lãi suất sẽ làm thay đổi mức độ và kích thước của sự truyền dẫn này Trong dài hạn, lãi suất thị trường không chỉ bị ảnh hưởng bởi rủi ro và tính thanh khoản, mà còn bởi các yếu tố kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế và lạm phát Thêm vào đó, biến động của các công cụ tài chính tại các thị trường khác, như Mỹ, cũng tác động đến lãi suất dài hạn trong khu vực đồng Euro.

Giai đoạn truyền dẫn lãi suất ảnh hưởng đến lãi suất ngân hàng thông qua sự biến động của lãi suất thị trường và lãi suất vốn Mô hình đơn giản dựa theo Rousseas (1985), De Bondt (2002) và Petrevski và Bogoev (2012) có thể được sử dụng để xác định mối quan hệ này, với công thức: i B = μ + βi M, trong đó i B là lãi suất bán lẻ, μ là mark-up cố định, i M là lãi suất thị trường và β là hệ số truyền dẫn.

Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo và thông tin đầy đủ, quá trình truyền dẫn là hoàn toàn, khi đó β = 1

Thị trường tài chính không phải lúc nào cũng đạt được sự cạnh tranh hoàn hảo, dẫn đến sự không hoàn chỉnh trong quá trình truyền dẫn lãi suất, với hệ số β không bằng 1 Nguyên nhân chủ yếu là do thông tin bất cân xứng, như lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức, cũng như sự điều chỉnh không đồng bộ của lãi suất bán lẻ so với lãi suất thị trường Khi lãi suất thị trường giảm, ngân hàng có thể giảm lãi suất tiền gửi một cách sâu sắc Theo Égert và Mac-Donald (2008), có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình truyền dẫn, bao gồm cầu tiền gửi và cho vay, chi phí chuyển đổi ngân hàng, phân cách thị trường, bất cân xứng thông tin, thao túng điều chỉnh lãi suất bán lẻ, nguồn tài chính liên ngân hàng bên ngoài, quan hệ với khách hàng, tình hình vĩ mô và kỳ vọng, cũng như tỷ số ngân hàng như thanh khoản và tỷ số vốn.

Truyền dẫn lãi suất xảy ra khi lãi suất bán lẻ thay đổi tương ứng với sự thay đổi của lãi suất chính sách, tức là chúng có mối quan hệ 1 đối 1 Nếu lãi suất ngân hàng không thay đổi theo tỷ lệ này, quá trình truyền dẫn được coi là không hoàn toàn hoặc bám dính, theo Amarasekara (2009).

2.2.2 Khái niệm bám dính lãi suất

Sự bám dính lãi suất trong lĩnh vực ngân hàng có hai cách hiểu khác nhau Thứ nhất, theo nghiên cứu của Cottarelli và Kourelis (1994), bám dính lãi suất mô tả tính không co giãn tương đối của lãi suất ngân hàng khi nhu cầu tín dụng và tiền gửi thay đổi Thứ hai, nó liên quan đến việc điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng thương mại (NHTM) trong ngắn hạn và dài hạn để phản ứng với sự thay đổi lãi suất thị trường tiền tệ Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung vào cách hiểu thứ hai.

Lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định tiêu dùng và đầu tư của hộ gia đình và doanh nghiệp, khiến các nhà kinh tế học và hoạch định chính sách tìm kiếm lý do cho sự bám dính lãi suất bán lẻ của các ngân hàng thương mại (NHTM) trước sự thay đổi lãi suất chính thức của Ngân hàng Trung ương Câu hỏi đặt ra là tại sao NHTM không điều chỉnh lãi suất bán lẻ một cách đồng nhất với các thay đổi lãi suất chính sách của Ngân hàng Trung ương, dẫn đến sự phát triển của nhiều lý thuyết với các giải thích khác nhau.

Các nhân tố ảnh hưởng sự truyền dẫn lãi suất

2.3.1 Cấu trúc hệ thống tài chính

Cấu trúc hệ thống tài chính là yếu tố then chốt trong việc truyền tải chính sách tiền tệ Các tham số cấu trúc này đại diện cho những khía cạnh của nền kinh tế mà Ngân hàng Trung ương không thể kiểm soát trực tiếp.

(i) Mức độ cạnh tranh và sư tập trung ngân hàng trong thị trường tài chính; (ii) Cơ cấu sở hữu của thị trường tài chính

(iii) Mức độ phát triển và độ mở của thị trường tài chính (Cottarelli và Kourelis,

2.2.1.1 Mức độ cạnh tranh và sự tập trung ngân hàng

Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng và tổ chức phi ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả truyền dẫn chính sách tiền tệ, giảm hành vi tối đa hóa phi lợi nhuận của ngân hàng Theo Guntner (2010), tính cạnh tranh trong thị trường ngân hàng giúp giảm sự cách rời giữa lãi suất chính sách và lãi suất cho vay, đồng thời tăng IRPT của chính sách tiền tệ Cottarelli và Kourelis (1994) chỉ ra rằng các khoản vay ít co giãn ở thị trường có ít đối thủ cạnh tranh, dẫn đến lãi suất cho vay phản ứng từ từ với thay đổi lãi suất ngắn hạn Sự tập trung ngân hàng cao làm giảm IRPT do hành vi độc quyền, khiến lãi suất điều chỉnh bất đối xứng Giả thuyết thông đồng dàn xếp giá cho rằng lãi suất tiền gửi cứng nhắc hướng lên khi lãi suất chính sách giảm, trong khi lãi suất cho vay cứng nhắc hướng xuống khi lãi suất chính sách giảm Ngược lại, giả thuyết phản ứng khách hàng cho thấy lãi suất tiền gửi cứng nhắc hướng xuống khi lãi suất tăng, trong khi lãi suất cho vay cứng nhắc hướng lên do phản ứng tiêu cực từ khách hàng Severe (2011) lập luận rằng sự tập trung thị trường trong ngành ngân hàng có thể gây ra tác động không mong muốn, nhưng Cottarelli và Kourelis (1994) nhấn mạnh rằng sự tập trung không nhất thiết phản ánh mức độ cạnh tranh thực tế trong thị trường.

2.3.1.2 Cấu trúc sở hữu của ngân hàng

Cấu trúc sở hữu ngân hàng trong nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ, vì nó ảnh hưởng đến tính linh hoạt của lãi suất.

Trong bối cảnh các ngân hàng quốc doanh chiếm ưu thế trên thị trường tài chính, lãi suất thường điều chỉnh chậm do áp lực chính trị và sự thiếu hiệu quả Các ngân hàng này hoạt động vì lợi ích công chúng, nên không đặt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận Khi các ngân hàng tối đa hóa lợi nhuận, chúng sẽ điều chỉnh kịp thời với biến động lãi suất, nhưng sự thiếu hiệu quả trên thị trường có thể tồn tại nếu các yếu tố như rào cản gia nhập, thiếu cạnh tranh từ tổ chức phi ngân hàng và hạn chế dòng vốn quốc tế không được khắc phục Kết quả là, lãi suất trở nên cứng nhắc và khó thay đổi.

2.3.1.3 Mức độ phát triển và độ mở thị trường tài chính

Sự tăng cường hội nhập tài chính toàn cầu và đổi mới trong các thị trường tài chính, như sự xuất hiện của công cụ phái sinh và chứng khoán hóa, đã ảnh hưởng đáng kể đến cách thức truyền dẫn chính sách tiền tệ vào nền kinh tế Theo BIS (2008), hiện đại hóa tài chính đã dẫn đến sự ra đời của các sản phẩm và công cụ tài chính mới, tạo ra tài sản mới và hình thành các nguồn tài trợ cho ngân hàng bán lẻ và đầu tư, cùng với các kỹ thuật quản trị rủi ro Những diễn biến này làm thay đổi cách thức và hiệu quả của các công cụ điều hành chính sách tiền tệ Tuy nhiên, việc truyền dẫn các cú sốc chính sách tiền tệ qua kênh lãi suất có thể chậm lại do thị trường trái phiếu trong nước chưa phát triển và các ngân hàng vẫn là trung gian tài chính chủ yếu cho các khoản tín dụng ngắn hạn và vốn định danh ngoại tệ, dẫn đến việc người đi vay thiếu nguồn tài chính thay thế và độ nhạy cảm cầu của các khoản cho vay thường không co giãn.

Thị trường trái phiếu, thị trường tiền tệ và các sản phẩm tài chính khác đang phát triển mạnh mẽ, tạo ra sự cạnh tranh trực tiếp với ngân hàng, dẫn đến việc các hộ gia đình và doanh nghiệp có thể thay thế tiền gửi và khoản vay ngân hàng bằng các công cụ tài chính khác Nếu lãi suất bán lẻ của ngân hàng không đủ cạnh tranh, họ có thể mất một lượng lớn tiền gửi Độ nhạy cảm của tiền gửi và khoản vay sẽ rất cao Mức độ điều chỉnh lãi suất bán lẻ của ngân hàng đối với lãi suất chính thức của Ngân hàng Trung ương cũng phụ thuộc vào cơ sở điều tiết của ngân hàng này Khi hệ thống tài chính mở cửa và ngân hàng có thể dễ dàng tiếp cận các nguồn tài chính khác, sự phụ thuộc vào cơ sở điều tiết của Ngân hàng Trung ương sẽ giảm, khiến cho phản ứng của hệ thống tài chính đối với thay đổi lãi suất chính thức diễn ra chậm hơn.

Chi phí thực đơn, theo Rotemberg và Saloner (1987), bao gồm các khoản chi phí liên quan đến việc thay đổi và phát hành bảng giá mới, như in ấn, quảng cáo và thông báo cho các chi nhánh, đặc biệt trong các doanh nghiệp có quy mô lớn Ngoài ra, chi phí này còn phản ánh sự khó chịu của khách hàng do sự thay đổi giá liên tục Các mô hình chi phí thực đơn cho rằng doanh nghiệp chỉ điều chỉnh giá khi lợi ích từ việc điều chỉnh vượt trội hơn chi phí phá vỡ cân bằng Do việc điều chỉnh giá tốn kém và mất thời gian, các doanh nghiệp thường ngần ngại thay đổi giá, vì điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự hài lòng của khách hàng, đặc biệt khi thay đổi được xem là tạm thời (Madsen và Yang, 1998) Trong lĩnh vực ngân hàng, việc Ngân hàng Trung ương thay đổi lãi suất liên tục tạo ra chi phí cho ngân hàng bán lẻ, vì họ phải thông báo cho các chi nhánh và khách hàng, dẫn đến tâm lý khó chịu Vì vậy, các ngân hàng bán lẻ thường phản ứng chậm và có thể không thay đổi lãi suất nếu lãi suất chính sách không biến động nhiều, hoặc chờ đợi sự ổn định trở lại do sự thay đổi chỉ mang tính tạm thời.

2.3.3 Thanh khoản dư thừa của hệ thống ngân hàng

Việc ngân hàng nắm giữ thanh khoản dư thừa có thể ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng của chính sách tiền tệ trong việc điều chỉnh nhu cầu và ổn định kinh tế Khi các ngân hàng giữ dự trữ vượt mức yêu cầu tại Ngân hàng Trung ương, các biện pháp mở rộng chính sách tiền tệ để kích thích tổng cầu sẽ không hiệu quả Điều này cũng gây khó khăn trong việc điều chỉnh cung tiền thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc, làm chậm quá trình truyền dẫn các cú sốc chính sách tiền tệ Theo nghiên cứu của Agenor và Aynaoui, thanh khoản dư thừa trong khu vực ngân hàng thường xuất phát từ các yếu tố cấu trúc và chu kỳ, như hệ thống tài chính kém phát triển và mức độ ngại rủi ro cao, dẫn đến nhu cầu tín dụng thấp và dòng vốn vào tăng cao Do đó, việc sử dụng lãi suất chính sách để điều chỉnh lãi suất bán lẻ trở nên không hiệu quả.

2.3.4 Thông tin bất cân xứng

Thông tin bất đối xứng trên thị trường tài chính, do tính không hoàn hảo của thông tin, có thể ảnh hưởng lớn đến việc truyền dẫn chính sách tiền tệ Các ngân hàng phải đối mặt với khó khăn trong việc đánh giá rủi ro của các dự án đầu tư khi thông tin không đầy đủ, dẫn đến việc bên cho vay thường xem xét vấn đề này trong hợp đồng cho vay Vì vậy, mô hình định mức tín dụng của Stiglitz và Weiss trở thành một công cụ quan trọng trong bối cảnh này.

Nghiên cứu năm 1981 chỉ ra rằng sự cân bằng trong thị trường cho vay được xác định bởi định mức tín dụng, và sự cân bằng này không nhất thiết phải thay đổi khi có sự biến động của các loại lãi suất khác.

2.3.5 Chế độ chính sách tiền tệ

Mức độ và tốc độ điều chỉnh lãi suất bán lẻ của ngân hàng thương mại (NHTM) đối với thay đổi lãi suất chính sách phụ thuộc vào chế độ chính sách tiền tệ Trong chế độ kiểm soát trực tiếp, lãi suất thường cứng nhắc do ảnh hưởng từ các yếu tố chính trị Ngược lại, trong chế độ tự do, các ngân hàng điều chỉnh nhanh chóng lãi suất bán lẻ để thích ứng với biến động của lãi suất chính sách, tránh bị tác động bởi thị trường Hơn nữa, chế độ chính sách tiền tệ minh bạch và có trách nhiệm giải trình cao giúp giảm biến động lãi suất, tạo điều kiện cho thị trường dự đoán chính xác các hành động của chính sách tiền tệ, từ đó nâng cao mức độ truyền tải lãi suất chính sách đến lãi suất bán lẻ.

2.3.6 Tính bất ổn thị trường tiền tệ, lạm phát và các điều kiện vĩ mô

Các điều kiện kinh tế vĩ mô hiện tại ảnh hưởng đến cách ngân hàng điều chỉnh lãi suất bán lẻ trước những thay đổi của lãi suất thị trường tiền tệ Trong bối cảnh kinh tế thuận lợi và tăng trưởng nhanh, ngân hàng dễ dàng chuyển đổi lãi suất cho vay Trong thời kỳ lạm phát cao, lãi suất bán lẻ thường được điều chỉnh nhanh chóng hơn so với lãi suất thị trường, do giá cả thay đổi thường xuyên hơn Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các yếu tố và lý thuyết về sự bám dính giá cả trên thị trường tài chính không hoàn toàn đầy đủ và có thể khác nhau giữa các quốc gia và theo thời gian, đặc biệt trong bối cảnh phát triển của thị trường tài chính.

Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan

2.4.1 Các nghiên cứu truyền dẫn lãi suất tại Việt Nam

Các nghiên cứu về truyền dẫn lãi suất tại Việt Nam cho thấy sự đa dạng trong mục tiêu và phương pháp Nghiên cứu của Nguyễn Phi Lân (2010) sử dụng mô hình SVAR chỉ ra rằng, thay đổi lãi suất qua công cụ tiền tệ mất khoảng 3-5 tháng để có hiệu lực Định Thị Thu Hồng và Phan Đình Mạnh (2013) áp dụng mô hình ECM-EGARCH(1,1) phát hiện rằng truyền dẫn lãi suất từ thị trường sang lãi suất bán lẻ không hoàn toàn, với sự biến động lãi suất có thể làm tăng hoặc giảm mức độ truyền dẫn Nghiên cứu của Nguyễn Khắc Quốc Bảo và Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2013) xác định rằng điều kiện ràng buộc về vốn và tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại là nguyên nhân chính gây ra sự bất đối xứng trong truyền dẫn lãi suất Nguyễn Thị Ngọc Trang và Nguyễn Hữu Tuấn (2014) khẳng định rằng truyền dẫn từ lãi suất liên ngân hàng và lãi suất chính sách đến lãi suất bán lẻ là không hoàn toàn, trong khi Trầm Thị Xuân Hương và cộng sự (2014) cho thấy truyền dẫn lãi suất chính sách đến lãi suất cho vay và tiền gửi không mạnh như lý thuyết.

2.4.2 Các nghiên cứu truyền dẫn lãi suất trên thế giới

Trong thập kỷ qua, số lượng nghiên cứu thực nghiệm về điều chỉnh lãi suất đã tăng mạnh, đặc biệt là ở các quốc gia tiên tiến và gần đây là một số nền kinh tế thị trường mới nổi Các nghiên cứu không chỉ phân tích mức độ điều chỉnh chung của lãi suất ngân hàng và phản ứng với thay đổi lãi suất chính sách, mà còn khám phá khả năng điều chỉnh bất đối xứng Kết quả cho thấy sự khác biệt giữa các quốc gia về truyền dẫn lãi suất, cũng như sự biến động theo thời gian Mức độ truyền dẫn phụ thuộc vào loại lãi suất được sử dụng, với một số nghiên cứu phát hiện điều chỉnh bất đối xứng trong khi các nghiên cứu khác thì không Đặc biệt, bản chất của sự điều chỉnh bất đối xứng trong lãi suất bán lẻ khác nhau giữa các quốc gia Tất cả các nghiên cứu đều nhất quán chỉ ra sự khác biệt giữa các quốc gia về mức độ truyền dẫn lãi suất, với truyền dẫn dài hạn thường cao hơn ngắn hạn Một nghiên cứu đáng chú ý của Kwapil và Scharler (2010) đã chỉ ra rằng truyền dẫn dài hạn từ lãi suất chính sách đến lãi suất bán lẻ ở khu vực đồng Euro thấp hơn so với Mỹ, với hệ số IRPT chỉ đạt 0,32 ở Eurozone so với gần như hoàn toàn ở Mỹ.

Sự khác biệt về IRPT không chỉ tồn tại giữa Mỹ và khu vực Euro, mà còn giữa các quốc gia trong khu vực Euro Nghiên cứu của Marotta (2009) đã phân tích 9 quốc gia trong khu vực Euro và Anh, trong khi Sudo và Teranishi (2008) xem xét 12 quốc gia khác De Bondt (2005) cũng nghiên cứu toàn bộ khu vực Euro và nhận thấy rằng mặc dù có sự khác biệt trong truyền dẫn lãi suất giữa các quốc gia, nhưng mẫu hình của sự khác biệt không rõ ràng Đặc biệt, De Bondt chỉ ra rằng lãi suất cho vay ngân hàng ngắn hạn cho doanh nghiệp ở Bỉ, Tây Ban Nha và Hà Lan điều chỉnh chậm hơn khoảng 3 tháng so với các quốc gia khác trong khu vực Euro Những hạn chế và tính không thuyết phục của các nghiên cứu này cần được xem xét kỹ lưỡng.

De Bondt (2005) đã nghiên cứu quá trình truyền dẫn lãi suất ngân hàng và lãi suất cho vay trong khu vực đồng Euro, cho thấy rằng sự truyền dẫn không diễn ra ngay lập tức từ lãi suất thị trường sang lãi suất bán lẻ Phát hiện của ông cho thấy lãi suất bán lẻ, đặc biệt là đối với tiền gửi qua đêm, có sự cứng nhắc cao hơn với hệ số truyền dẫn dài hạn gần 40% Nhiều nghiên cứu khác cũng đã được thực hiện cho các quốc gia riêng lẻ trong khu vực đồng Euro, như nghiên cứu của Cottarelli và cộng sự (1995) cho Ý.

Các nghiên cứu về sự truyền dẫn lãi suất trong khu vực đồng Euro đã được thực hiện bởi nhiều tác giả, bao gồm Đức (1999), Áo (Burgstaller, 2003), Hy Lạp (Chionis và Leon, 2006), Thổ Nhĩ Kỳ (Aydin, 2007), và Bỉ (De Graeve và cộng sự, 2004; Baugnet và cộng sự, 2007) Những nghiên cứu này chỉ ra rằng có sự khác biệt trong mức độ truyền dẫn giữa các quốc gia và các loại lãi suất Đặc biệt, một số nghiên cứu đã phát hiện ra sự khác biệt trong quá trình truyền dẫn trước và sau khi các quốc gia tham gia vào Khu vực đồng Euro (EMU), như được nêu bởi Chionis và Leon.

Nghiên cứu năm 2006 cho thấy truyền dẫn lãi suất có thể không thay đổi theo thời gian trong một quốc gia, trong khi các nghiên cứu tại Anh chỉ ra rằng truyền dẫn lãi suất đã gia tăng theo thời gian (Heffernan, 1997; Mizen và Hofmann, 2002; Hofmann và Mizen, 2004) Tieman (2004) phân tích các giai đoạn khác nhau ở Romania và phát hiện rằng hệ số truyền dẫn dài hạn gần đây cao hơn, điều này được giải thích bởi sự phát triển và cạnh tranh của hệ thống tài chính.

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện tại các nền kinh tế thị trường mới nổi, như Scholnick (1996) cho Singapore và Malaysia, Iregui và cộng sự (2002) cho Colombia và Mexico, và Espinosa-Vega cùng Rebucci (2002) cho Chile, nhưng vẫn chưa có kết luận thống nhất về mức độ truyền dẫn lãi suất Các nghiên cứu cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa lãi suất huy động và cho vay, với Kwapil và Scharler (2009), Wang và Lee (2009), De Bondt (2005), và Tieman (2004) chỉ ra rằng lãi suất huy động có tính bám dính khác với lãi suất cho vay Lowe và Rohling (1992) phát hiện rằng các khoản vay tiêu dùng tại Úc có sự bám dính cao hơn so với các khoản vay kinh doanh, trong khi Aydin (2007) lại thấy rằng ở Thổ Nhĩ Kỳ, các khoản vay tiêu dùng phản ứng nhanh hơn Ngoài ra, lãi suất thẻ tín dụng được coi là bám dính nhất, trong khi lãi suất nhà ở là ít bám dính nhất Một điểm chung giữa các nghiên cứu là kỳ hạn cho vay hoặc huy động càng ngắn, sự truyền dẫn lãi suất càng nhanh và mạnh mẽ hơn (Égert và cộng sự, 2007; De Bondt, 2005; Espinosa-Vega và Rebucci, 2002) Cuối cùng, khả năng điều chỉnh bất đối xứng không rõ ràng; một số nghiên cứu chỉ ra sự bất đối xứng đáng kể (Hannan và Berger, 1991; Neumark và Sharpe, 1992 cho Mỹ; Scholnick, 1996 cho Singapore và Malaysia), trong khi một số khác lại không thấy Điều chỉnh bất đối xứng phụ thuộc vào thời gian và loại lãi suất, với Lim (2001) cho thấy sự điều chỉnh lãi suất tại Úc là không đối xứng trong ngắn hạn nhưng đối xứng trong dài hạn.

Mặc dù nhiều nghiên cứu đã phân tích truyền dẫn lãi suất ở nhiều quốc gia và khu vực, nghiên cứu về vấn đề này tại Châu Phi vẫn còn hạn chế Jankee (2004) là nghiên cứu duy nhất được biết đến ở Châu Phi, ngoại trừ Nam Phi, khi kiểm tra sự cứng nhắc của lãi suất NHTM tại Mauritius, sử dụng dữ liệu từ quý IV/1988 đến quý IV/2003 Kết quả cho thấy truyền dẫn lãi suất huy động (0,413) cao hơn lãi suất cho vay (0,242), với hiệu ứng bất đối xứng chỉ xuất hiện trong truyền dẫn lãi suất cho vay Tại Nam Phi, hai nghiên cứu quan trọng về ước tính truyền dẫn lãi suất là của De Angelis và cộng sự (2005) cùng với Aziakpono và cộng sự (2007), cả hai đều tập trung vào truyền dẫn lãi suất bán buôn.

Năm 2005, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có ba loại lãi suất được sử dụng: lãi suất cho vay liên ngân hàng cơ bản, lãi suất cho vay cơ bản và lãi suất thị trường tiền tệ (NCDs) Trong khi đó, Aziakpono và cộng sự (2007) tập trung vào hai loại lãi suất bán buôn, bao gồm lãi suất cho vay liên ngân hàng cơ bản và lãi suất NCD De Angelis và cộng sự (2005) đã phân tích mối quan hệ giữa lãi suất bán buôn và lãi suất repo trong hai giai đoạn, cho thấy sự truyền dẫn lãi suất bán buôn cao hơn trong giai đoạn đầu Họ cũng chỉ ra rằng nghiên cứu không xem xét khả năng điều chỉnh bất đối xứng của lãi suất ngân hàng Aziakpono và cộng sự (2007) đã mở rộng nghiên cứu từ năm 1973 đến 2004, chia thành sáu giai đoạn tương ứng với các cơ chế chính sách tiền tệ khác nhau, và phát hiện rằng lãi suất bán buôn có tốc độ điều chỉnh cao trong suốt giai đoạn này, đặc biệt là trong các giai đoạn có cơ chế chính sách định hướng thị trường Tuy nhiên, bằng chứng về điều chỉnh bất đối xứng trong lãi suất bán buôn là rất yếu.

Lãi suất bán lẻ Mẫu quan sát

Phương pháp dẫn ngắn hạn

Truyền dẫn dài hạn ứng bất đối xứng

Lãi suất tín phiếu kho bạc 3 tháng

Lãi suất huy động thị trường tiền tệ

Mô hình logit đa thức

Các doanh nghiệp tập trung vào thị trường thường có mức giá cao hơn và lãi suất huy động cứng nhắc hơn, điều này thể hiện sự gia tăng so với việc cắt giảm.

NA Lãi suất chứng chỉ tiền gửi 6 tháng

Dữ liệu chéo: OLS, mô hình điều chỉnh từng phần và mô hình chuyển đổi của điều chỉnh từng phần

Các ngân hàng thường điều chỉnh lãi suất tiền gửi theo hướng giảm nhanh hơn khi lãi suất vượt quá trạng thái cân bằng, trong khi việc điều chỉnh tăng lãi suất khi dưới mức cân bằng diễn ra chậm hơn.

Cottar elli và cộng sự

(1995) Ý Lãi suất chiết khấu và thị trường tiền tệ

Lãi suất cho vay (LR)

Mô hình sai số hiệu chỉnh (ECM)

NA PT trong ngắn hạn thấp nhưng tương đối cao trong dài hạn sách hạn hạn xứng

Lãi suất tiền gửi (DR) và cho vay (LR) ngắn hạn

Johansen và mô hình ECM bất đối xứng

Tại Singapore, lãi suất huy động của các ngân hàng điều chỉnh xuống nhanh hơn so với khi tăng lên Sự khác biệt về tốc độ điều chỉnh lãi suất giữa Singapore và quốc gia khác cũng rất đáng chú ý.

Lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng

Lãi suất huy động 3 tháng và lãi suất cho vay mua nhà

Johansen, mô hình TAR và M- TAR

PT cho DR cao hơn so với cho LR, hiệu ứng bất đối xứng chỉ tồn tại cho LR

Các nền kinh tế chuyển đổi

Lãi suất chính sách NHTW

Lãi suất tiền gửi và cho vay ngắn hạn

Khuôn khổ sai số hiệu chỉnh

Không đầy đủ cho tất cả các lãi suất, PT đến DR cao hơn so với tới

PT dài hạn cao hơn trong nhiều năm trở lại đây

NA PT cao hơn cho DR so với LR, tốc độ điều chỉnh cao hơn cho DR sách hạn hạn xứng

Nam Phi Lãi suất repo

Lãi suất liên ngân hàng cơ bản, lãi suất cho vay cơ bản và NCD

11/2004 Đồng liên kết Engle- Granger, ECM, mô hình động hỗn hợp Guisan

NA PT gần như đầy đủ nhưng cao hơn trong giai đoạn đầu tiên

NA PT lãi suất hầu hết là đầy đủ; riêng trong cơ chế chính sách tiền tệ đầu tiên (mẫu quan sát đầu), PT là cao hơn

Lãi suất huy động và cho vay

Mô hình ECM, VECM và VAR

Không đầy đủ cho các loại lãi suất

Không đầy đủ cho DR nhưng đầy đủ cho LR

NA Truyền dẫn lãi suất nhanh hơn kể từ khi ra mắt khu vực Euro

8 quốc gia CEE và 4 quốc gia châu Âu

Lãi suất thị trường tiền tệ 1 tháng

Nhiều loại lãi suất cho vay và huy động bán lẻ

Mô hình ECM đối xứng và bất đối xứng, TAR, B- TAR và M- TAR

Không đầy đủ cho tất cả các loại lãi suất

LR là đầy đủ chỉ ở CEE,

DR là không đầy đủ

PT ở các quốc gia CEE phát triển nhanh chóng và toàn diện hơn so với toàn bộ khu vực châu Âu, với sự cải thiện đáng kể ở tất cả các quốc gia.

Lãi suất huy động và cho vay

12/2002 Đồng liên kết EG, mô hình ECM đối xứng và bất đối xứng

PT không đầy đủ và rất chậm với tất cả các loại lãi suất

PT không đầy đủ và chậm với tất cả các loại lãi suất

Tồn tại PT sang 2 loại lãi suất không đầy đủ,

PT sang DR cao hơn so với LR

Hy Lạp Lãi suất thị trường tiền tệ 1 tháng

Lãi suất cho vay và huy động

Mô hình ECM đối xứng và bất đối xứng, đồng liên kết EG và hồi quy tĩnh

DR lần lượt là 9% và 6,3% trước EMU, và 50,8% và 64% sau EMU

DR lần lượt là 92,6%- 186% và 50%- 124% trước EMU,

PT là đầy đủ trước khi gia nhập EMU hơn so với sau khi gia nhập sách hạn hạn xứng và 50%- 78% và 63%- 68% sau EMU Charo ensean g và

Thái Lan Lãi suất repo 14 ngày

Lãi suất cho vay và huy động của NHTM và công ty tài chính

07/2006 Đồng liên kết EG, mô hình ECM đối xứng và bất đối xứng

PT rất thấp và không đầy đủ cho tất cả các loại lãi suất, ngoại trừ lãi suất liên ngân hàng có

PT thấp và không đầy đủ cho tất cả các loại lãi suất, ngoại trừ lãi suất liên ngân hàng có

Lãi suất thị trường tài chính hiện đang ở mức thấp, khiến các ngân hàng có xu hướng điều chỉnh lãi suất cho vay xuống thấp hơn lãi suất huy động Điều này phản ánh sự tồn tại của lãi suất trung bình cao trong bối cảnh chính sách hạn chế và sự cạnh tranh giữa các ngân hàng.

(2007) gia CEE và 3 quốc qua châu Âu chính sách từng quốc gia vay, huy động, thị trường tiền tệ ngắn hạn và dài hạn

12/2005 ARDL, đồng liên kết EG, CVAR đa biến báo cáo LR và

DR hầu hết không đầy đủ;

Lãi suất thị trường tài chính tại các quốc gia CEE đang cho thấy sự đầy đủ, tuy nhiên, mẫu hình phát triển vẫn chưa rõ ràng so với các quốc gia châu Âu.

Aziak pono và cộng sự

Nam Phi Lãi suất repo

Lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng cơ bản và lãi suất NCD

08/2004 chia thành 6 giai đoạn phụ Đồng liên kết EG, mô hình ECM đối xứng và bất đối xứng

PT sang NCD từ 76,1% đến 109%

; PT sang NCD từ 84,5% đến 109%

Bằng chứng yếu của hiệu ứng bất đối xứng cho các loại lãi suất

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỀN DẪN TỪ LÃI SUẤT CHÍNH SÁCH ĐẾN LÃI SUẤT BÁN LẺ

Ngày đăng: 19/08/2021, 13:30

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đinh Thị Thu Hồng, & Phan Đình Mạnh. (2013). Hiệu quả của chính sách tiền tệ thông qua kênh truyền dẫn lãi suất. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 12(22), 39-47 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu quả của chính sách tiền tệ thông qua kênh truyền dẫn lãi suất
Tác giả: Đinh Thị Thu Hồng, & Phan Đình Mạnh
Năm: 2013
2. Nguyễn Thị Ngọc Trang, & Nguyễn Hữu Tuấn. (2014). Minh bạch chính sách tiền tệ và truyền dẫn lãi suất bán lẻ ở Việt Nam. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 15(25), 11-17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Minh bạch chính sách tiền tệ và truyền dẫn lãi suất bán lẻ ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Ngọc Trang, & Nguyễn Hữu Tuấn
Năm: 2014
3. Nguyễn Khắc Quốc Bảo, & Nguyễn Hữu Huy Nhựt. (2013). Bằng chứng thực nghiệm của truyền dẫn lãi suất bất cân xứng ở Việt Nam. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 274, 11-22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bằng chứng thực nghiệm của truyền dẫn lãi suất bất cân xứng ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Khắc Quốc Bảo, & Nguyễn Hữu Huy Nhựt
Năm: 2013
4. Agenor, P. R., & Aynaoui, K. E. (2010). Excess liquidity, bank pricing rules, and monetary policy. Journal of Banking and Finance, 34, 923-933 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Banking and Finance, 34
Tác giả: Agenor, P. R., & Aynaoui, K. E
Năm: 2010
6. Aziakpono, M. J., Wilson, M. K., & Manuel, J. (2007). Adjustment of commercial banks’ interest rates and the effectives of monetary policy in South Africa. The African Finance Journal, 9(1), 1-20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The African Finance Journal, 9
Tác giả: Aziakpono, M. J., Wilson, M. K., & Manuel, J
Năm: 2007
7. Cottarelli, C., & Kourelis, A. (1994). Financial structure, bank lending rates, and the transmission mechanism of monetary policy. IMF Staff Paper, 41(4), 587-623 Sách, tạp chí
Tiêu đề: IMF Staff Paper, 41
Tác giả: Cottarelli, C., & Kourelis, A
Năm: 1994
8. Cottarelli, C., Ferri, G., & Generale, A. (1995). Bank lending rates and financial structure in Italy: A case study. IMF Staff Papers, 42(3), 670- 700 Sách, tạp chí
Tiêu đề: IMF Staff Papers, 42
Tác giả: Cottarelli, C., Ferri, G., & Generale, A
Năm: 1995
10. De Bondt, G. (2005). Interest rate pass-through: empirical results for the Euro area. German Economic Review, 6(1), 37-78 Sách, tạp chí
Tiêu đề: German Economic Review, 6
Tác giả: De Bondt, G
Năm: 2005
11. Egert, B., & Macdonald, R. (2008). Monetary transmission mechanism in central and Eastern Europe: Surveying the surveyable. Journal of Economic Survey, 23(2), 277-327 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Economic Survey, 23
Tác giả: Egert, B., & Macdonald, R
Năm: 2008
12. Egert, B., Crespo-Cuaresma, J., & Reininger, T. (2007). Interest rate passthrough in central and Eastern Europe: reborn from ashes merely to pass- away. Journal of Policy Modelling, 29, 209-225 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Policy Modelling, 29
Tác giả: Egert, B., Crespo-Cuaresma, J., & Reininger, T
Năm: 2007
13. Faure, A. P. (2006). Money, Interest and Monetary Policy. Cape Town: Quoin Institute Sách, tạp chí
Tiêu đề: Money, Interest and Monetary Policy
Tác giả: Faure, A. P
Năm: 2006
14. Gambacorta, L. (2005). Inside the bank lending channel. European Economic Review, 49, 1737-1759 Sách, tạp chí
Tiêu đề: European Economic Review, 49
Tác giả: Gambacorta, L
Năm: 2005
16. Hannan, T. H., & Berger, A. N. (1991). The rigidity of prices: Evidence from banking industry. The American Economic Review, 81(4), 938-945 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The American Economic Review, 81
Tác giả: Hannan, T. H., & Berger, A. N
Năm: 1991
17. Hulsewig, O., Mayer, E., & Wollmershauser, T. (2009). Bank behaviour, incomplete interest rate pass-through, and the cost channel of monetary policy transmission. Economic Modelling, 26, 1310-1327 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Economic Modelling, 26
Tác giả: Hulsewig, O., Mayer, E., & Wollmershauser, T
Năm: 2009
18. Kwapil, C., & Scharler, J. (2010). Interest rate pass-through, monetary policy rules and macroeconomic stability. Journal of International Money and Finance, 29, 236-251 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of International Money and Finance, 29
Tác giả: Kwapil, C., & Scharler, J
Năm: 2010
21. Marotta, G. (2009). Structural breaks in the lending interest rate pass-through and the euro. Economic Modelling, 26, 191-205 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Economic Modelling, 26
Tác giả: Marotta, G
Năm: 2009
22. Neumark, D., & Sharpe, S. (1992). Market structure and the nature of price rigidity: Evidence from the market for consumer deposits. The Quarterly Journal of Economics, 107(2), 657-680 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Quarterly Journal of Economics, 107
Tác giả: Neumark, D., & Sharpe, S
Năm: 1992
23. Pesaran, M. H., Shin, Y., & Smith, R. J. (2001). Bounds testing approaches to the analysis of level relationships. Journal of Applied Econometrics, 16(3), 289-326 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Applied Econometrics, 16
Tác giả: Pesaran, M. H., Shin, Y., & Smith, R. J
Năm: 2001
24. Samba, M. C., & Yan, Y. (2010). Interest rate pass-through in the Central African Economic and Monetary Community (CEMAC) Area: Evidence from an ADRL analysis. International Journal of Business and Management, 5(1), 31-41 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal of Business and Management, 5
Tác giả: Samba, M. C., & Yan, Y
Năm: 2010
25. Sander, H., & Kleimeier, S. (2002). Asymmetric adjustment of commercial bank interest rates in the Euro area: An empirical investigation into interest rate passthrough. Kredit und Kapital, 35, 161-192 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kredit und Kapital, 35
Tác giả: Sander, H., & Kleimeier, S
Năm: 2002

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN