GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
Đặt vấn đề
Để phát triển nền kinh tế quốc gia ổn định, Chính phủ cần điều hành linh hoạt thông qua chính sách tiền tệ, một công cụ quan trọng để kiểm soát hệ thống ngân hàng và ổn định lãi suất Theo Mishkin (2016), mục tiêu chính của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền Sự biến động của khối lượng tiền tệ ảnh hưởng mạnh đến lãi suất và tổng cầu, từ đó tác động đến đầu tư sản xuất và tăng trưởng kinh tế Khi Ngân hàng Trung ương mở rộng chính sách tiền tệ, cung tiền tăng, lãi suất giảm, dẫn đến tăng cầu tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu, làm tăng tổng cầu và GDP thực Ngược lại, khi chính sách tiền tệ thắt chặt, cung tiền giảm, lãi suất tăng, dẫn đến giảm cầu tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu, làm giảm tổng cầu và GDP thực.
Khi Ngân hàng Trung ương (NHTW) điều chỉnh lãi suất ngắn hạn, lãi suất thực sẽ bị ảnh hưởng do các Ngân hàng Thương mại (NHTM) điều chỉnh lãi suất bán lẻ cho khách hàng Nếu NHTM nhanh chóng chuyển tải thay đổi từ lãi suất chính sách sang khách hàng, kênh truyền dẫn lãi suất sẽ có hiệu lực, dẫn đến việc NHTM điều chỉnh lãi suất cho vay cơ bản theo mức thay đổi của lãi suất chính Điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến lãi suất huy động vốn, đảm bảo chênh lệch với lãi suất cho vay để NHTM có lãi, tuy nhiên, không phải lúc nào các lãi suất này cũng thay đổi đồng bộ.
Quá trình truyền dẫn lãi suất đóng vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ, khi mà sự thay đổi của lãi suất cơ bản cần được chuyển tải nhanh chóng đến khách hàng để đảm bảo hiệu quả Theo Manna và các tác giả (2001), hầu hết ngân hàng trung ương sử dụng lãi suất bán lẻ như một công cụ chủ yếu trong chính sách tiền tệ, với dao động của lãi suất trở thành chỉ số quan trọng trong quá trình này Bredin và các tác giả (2001), Bondt (2002) nhấn mạnh rằng tốc độ và mức độ biên của truyền dẫn từ lãi suất thị trường đến lãi suất bán lẻ quyết định sự thành công của chính sách tiền tệ Raunig & Scharler (2009) cho rằng việc truyền dẫn lãi suất ảnh hưởng đến mức độ thay đổi của lãi suất cho vay và tiền gửi, từ đó tác động đến đầu tư, tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế Wang & Lee (2009) cũng chỉ ra rằng cơ chế này là yếu tố quan trọng giúp ngân hàng trung ương đạt được mục tiêu chính sách, với lãi suất bán lẻ ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi cung cầu vốn, góp phần vào sự thành công của chính sách tiền tệ, tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát.
Lãi suất bán lẻ đóng vai trò then chốt trong việc truyền dẫn tín hiệu chính sách tiền tệ từ Ngân hàng Trung ương (NHTW), ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và tiết kiệm của nhiều chủ thể trong nền kinh tế Mức độ thay đổi của lãi suất chính sách được chuyển hóa thành lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi, từ đó tác động trực tiếp đến hành vi của bên cung và bên cầu vốn, là hai yếu tố chính trong hoạt động tiết kiệm và đầu tư.
3 động đến tăng trưởng kinh tế, lạm phát cũng như những biến vĩ mô khác… sẽ quyết định mức độ thành công của chính sách tiền tệ.
Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu về truyền dẫn lãi suất đang thu hút sự chú ý của cả nhà hoạch định chính sách và giới nghiên cứu, nhằm xác định vai trò quan trọng của nó trong thành công của chính sách tiền tệ Các nghiên cứu như của Borio (1997) và Manna cùng cộng sự (2001) cho thấy rằng nhiều ngân hàng trung ương sử dụng lãi suất thị trường ngắn hạn như công cụ chính trong chính sách tiền tệ, và trong quá trình truyền dẫn, biến động của lãi suất trở thành chỉ số quan trọng cho hiệu quả của chính sách này.
Tại Việt Nam, kênh truyền dẫn lãi suất bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ, thể hiện rõ sự phụ thuộc của hệ thống tài chính vào ngân hàng thương mại Nghiên cứu về truyền dẫn lãi suất bán lẻ không chỉ có ý nghĩa học thuật mà còn cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách trong việc đánh giá hiệu quả chính sách tiền tệ, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập tài chính và trạng thái VUCA hiện nay Trong giai đoạn nghiên cứu, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng đồng bộ các công cụ chính sách nhằm đạt mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, ổn định vĩ mô và tăng trưởng GDP thông qua nhiều chính sách khác nhau.
Các nghiên cứu về truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Việt Nam thường được thực hiện theo hai hướng chính: kiểm chứng các kênh truyền dẫn chung và phân tích mức độ truyền dẫn lãi suất bán lẻ Nhiều nghiên cứu tập trung vào việc đo lường hệ số truyền dẫn, tuy nhiên, dữ liệu thường bị giới hạn bởi hai yếu tố chính: số lượng ngân hàng và chỉ tập trung vào các ngân hàng thương mại lớn có vốn chi phối.
Nghiên cứu của Le Viet Hung & Pfau (2008) đã chỉ ra mối quan hệ giữa tiền tệ, sản lượng thực, các mức giá, lãi suất thực, tỷ giá thực và tín dụng Trong khi đó, Chu Khánh Lân (2012) tập trung phân tích kênh tín dụng đối với khu vực tư nhân, nhấn mạnh ảnh hưởng của lãi suất cho vay và tiền gửi chỉ ở một vài kỳ hạn cơ bản đến các đối tượng chịu tác động từ chính sách của nhà nước.
Vo Xuan Vinh và Nguyen Phuc Canh (2014) đã phân tích các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Việt Nam bằng dữ liệu tháng từ năm 2003 đến 2012 Trong khi đó, Cao Thị Ý Nhi và Lê Thu Giang (2015) mô phỏng các kênh này với dữ liệu theo quý trong giai đoạn 1995-2014 Đào Thị Thanh Bình (2013) nghiên cứu tác động của trần lãi suất đến lãi suất huy động ở Việt Nam bằng cách sử dụng mô hình với lãi suất huy động là biến phụ thuộc và lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 3 tháng là biến độc lập.
Nghiên cứu truyền dẫn lãi suất là rất quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam từ khi tái cấu trúc tổ chức tín dụng Luận văn này nhằm tìm hiểu hiệu lực truyền dẫn lãi suất bán lẻ, sử dụng dữ liệu lãi suất từ nhiều ngân hàng với các kỳ hạn khác nhau Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ sự thay đổi trong hiệu lực truyền dẫn lãi suất bán lẻ trước các chính sách điều hành gần đây.
Mục tiêu nghiên cứu
Kiểm định hiệu lực của lãi suất bán lẻ tại Việt Nam được thực hiện thông qua việc phân tích tác động của lãi suất chính sách từ Ngân hàng Trung ương đến lãi suất bán lẻ, bao gồm cả lãi suất ngắn hạn và dài hạn Nghiên cứu này nhằm làm rõ mối quan hệ giữa lãi suất chính sách và lãi suất bán lẻ, từ đó đánh giá khả năng truyền dẫn của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế Việt Nam.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa lãi suất chính sách và lãi suất bán lẻ theo lý thuyết đồng liên kết cho thấy nếu mối quan hệ cân bằng tồn tại, hệ số cân bằng dài hạn sẽ phản ánh mức độ truyền dẫn lãi suất bán lẻ Kết quả này chỉ ra hiệu lực của chính sách tiền tệ, khi lãi suất chính sách thay đổi, lãi suất bán lẻ sẽ điều chỉnh theo trong kỳ tiếp theo, điều này thể hiện mong muốn của Ngân hàng Nhà nước trong việc duy trì sự ổn định kinh tế.
Trong một khoảng thời gian ngắn, có 5 trình điều chỉnh xảy ra, nhưng các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể không thực hiện điều này Việc không tuân thủ có thể dẫn đến việc giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ.
Câu hỏi nghiên cứu
Hiệu lực truyền dẫn lãi suất bán lẻ đối với lãi suất huy động và lãi suất cho vay ở Việt Nam trong giai đoạn từ 2012 đến 2019 như thế nào?
Các kỳ hạn khác nhau hiệu lực truyền dẫn lãi suất bán lẻ có khác nhau?
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là NHTM, sử dụng:
- Lãi suất cho vay và huy động đại diện lãi suất bán lẻ
Lãi suất tái cấp vốn, đại diện cho lãi suất chính sách, cùng với lãi suất liên ngân hàng, đóng vai trò là biến độc lập trong việc kiểm chứng quá trình truyền dẫn lãi suất bán lẻ.
Thời gian nghiên cứu từ tháng 01 năm 2012 (thời điểm tái cấu trúc tổ chức tín dụng) đến tháng 12 năm 2019
Mối quan hệ giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tiền gửi kỳ hạn 3 tháng cùng với lãi suất cho vay kỳ hạn dưới 12 tháng của các ngân hàng thương mại nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất tiền gửi kỳ hạn dưới 1 tháng, từ 1 đến 6 tháng, từ 6 đến 12 tháng và trên 12 tháng của tất cả các ngân hàng nội địa, khi xem xét cả lãi suất cao nhất và thấp nhất.
Mối quan hệ giữa lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 3 tháng và lãi suất tiền gửi cũng như lãi suất cho vay kỳ hạn dưới 12 tháng của các ngân hàng thương mại nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng nội địa Cụ thể, lãi suất này tác động đến các kỳ hạn tiền gửi dưới 1 tháng, từ 1 đến 6 tháng, từ 6 đến 12 tháng và trên 12 tháng, với việc tính toán dựa trên lãi suất cao nhất và thấp nhất.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chuỗi dữ liệu thời gian để đo lường hệ số truyền dẫn
- Phương pháp ước lượng OLS - Engle & Granger (1987) dành cho các chuỗi dữ liệu thời gian Phương pháp này phù hợp để đo lường hệ số truyền dẫn
Các phương pháp đo lường và mô tả thống kê, bao gồm kiểm định nghiệm đơn vị và kiểm định Wald, được áp dụng để kiểm tra và phân tích dữ liệu một cách hiệu quả.
Trong quá trình phân tích các yếu tố tác động trong mô hình, nghiên cứu áp dụng nguyên tắc cetaris paribus, tức là xem xét ảnh hưởng của một yếu tố cụ thể trong khi giữ cố định các yếu tố khác.
Đóng góp của luận văn
Truyền dẫn lãi suất đã thu hút sự chú ý của nhà hoạch định chính sách và giới nghiên cứu học thuật nhờ những lợi ích khoa học và thực tiễn Trong ba năm qua, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, dẫn đến sự thay đổi trong hiệu lực truyền dẫn lãi suất bán lẻ.
Nghiên cứu này sẽ làm sáng tỏ các tranh luận về truyền dẫn lãi suất bán lẻ ở Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn 2012-2019 Đây là một chủ đề quan trọng trong các nền kinh tế chuyển đổi đang phát triển, với Việt Nam là một ví dụ điển hình.
Việc xác định chính xác hệ số truyền dẫn lãi suất bán lẻ là rất quan trọng đối với nhà hoạch định chính sách, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, đặc biệt khi NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt Hệ số này cũng giúp cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà quản trị ngân hàng thương mại và nhà đầu tư quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam.
Kết cấu của luận văn
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu của đề tài, luận văn được trình bày trong 5 chương:
7 Chương 1: Giới thiệu tổng quan về đề tài
Chương 2: Trình bày cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu Chương 3: Giới thiệu dữ liệu và phương pháp nghiên cứu Chương 4: Trình bày các kết quả nghiên cứu
Chương 5: Phần cuối cùng là kết luận và hàm ý chính sách
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Lãi suất
Lãi suất là yếu tố quan trọng trong nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ kinh tế và các chỉ số vĩ mô khác Diễn biến lãi suất có tác động lớn đến lưu thông tiền tệ, tín dụng, huy động vốn, đầu tư, và hoạt động ngân hàng Việc tăng hoặc giảm lãi suất có thể khích lệ hoặc hạn chế đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.
Bernanke (1990) đã chỉ ra rằng chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng cung tiền thông qua lãi suất và chênh lệch lãi suất, tác động đến đầu tư và hoạt động kinh tế Lý thuyết Keynes nhấn mạnh vai trò của kênh lãi suất trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ Taylor (1995) xác nhận rằng kênh lãi suất là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến GDP thực tế và giá cả Nghiên cứu của Mishkin (1996) dựa trên lý thuyết Keynes mô tả mô hình IS-LM, trong đó hiệu ứng mở rộng tiền tệ dẫn đến việc tăng khối lượng tiền, giảm lãi suất thực, giảm chi phí vốn, và gia tăng chi tiêu đầu tư, từ đó làm tăng tổng cầu và sản lượng Ngoài ra, quyết định đầu tư không chỉ đến từ doanh nghiệp mà còn từ người tiêu dùng trong chi tiêu nhà cửa và hàng tiêu dùng lâu bền, cho thấy kênh truyền dẫn tiền tệ qua lãi suất có ảnh hưởng sâu rộng.
9 dụng đối với chi tiêu tiêu dùng mà trong đó đầu tư tượng trưng cho chi tiêu nhà cửa và hàng hóa tiêu dùng lâu bền.
Thực trạng lãi suất bán lẻ dưới sự điều hành của NHNN Việt Nam từ 2012 đến 2019
2.2.1 Bối cảnh kinh tế vĩ mô
Kể từ khi gia nhập WTO vào cuối năm 2007, Việt Nam đã cam kết thực hiện các quy định về chính sách tiền tệ, ngoại hối và thanh toán theo yêu cầu của WTO và IMF, không áp dụng biện pháp hạn chế giao dịch vãng lai Sau khi gia nhập, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cho phép các ngân hàng thương mại nước ngoài hoạt động tương tự như ngân hàng trong nước, dẫn đến sự thay đổi ngay lập tức trong xu hướng cạnh tranh Các ngân hàng thương mại nước ngoài đã có lợi thế cạnh tranh lớn, cho phép họ huy động vốn và cho vay hiệu quả hơn, làm cho lãi suất tiền gửi và cho vay trở nên cạnh tranh hơn, đồng thời thúc đẩy sự điều chỉnh lãi suất liên ngân hàng và lãi suất chính sách, giúp nâng cao hiệu quả truyền dẫn lãi suất so với trước đây.
Giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khoảng 5,91%, mặc dù thấp hơn so với giai đoạn 2006 - 2010, nhưng vẫn là mức tăng tương đối tốt trong bối cảnh nhiều khó khăn và thách thức Từ năm 2013, xu hướng phục hồi kinh tế ngày càng rõ nét, với tốc độ tăng trưởng năm 2015 đạt 6,68%, vượt mục tiêu 6,2% và là mức cao nhất trong giai đoạn này Ngành công nghiệp và xây dựng đóng góp lớn nhất với tốc độ tăng 9,64% Ngoài ra, GDP bình quân đầu người cũng tăng hơn 40%, đạt 1.532 USD/người.
10 năm 2011 lên 2.171 USD/người năm 2015, trong bối cảnh lạm phát được duy trì ở mức thấp đã góp phần nâng cao mức sống thực tế của người dân
Lạm phát đã được kiểm soát hiệu quả thông qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp về tiền tệ tín dụng và tài khóa, cùng với cơ chế phối hợp linh hoạt giữa hai chính sách này Chỉ số CPI đã giảm mạnh từ 18,13% vào năm 2011 xuống còn 1,84% vào năm 2014 và chỉ còn 0,6% vào năm 2015, mức thấp nhất trong 14 năm qua.
Trên thị trường tiền tệ, lãi suất được điều chỉnh linh hoạt, phản ánh tình hình kinh tế vĩ mô và lạm phát Sau nhiều năm lãi suất cao do chính sách tiền tệ thắt chặt, từ năm 2012, lãi suất huy động đã giảm mạnh, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn hơn Đồng thời, tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế cũng giảm đáng kể nhờ vào các chính sách đồng bộ như duy trì lãi suất thấp cho tiền gửi ngoại tệ và thắt chặt quản lý ngoại hối.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam đang chuyển dịch theo chiều sâu, với tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp trong tăng trưởng GDP năm 2019 đạt 46,11% Bình quân giai đoạn 2016-2019, tỷ lệ này đạt 44,46%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,6% của giai đoạn 2011-2015 Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành cũng có xu hướng cải thiện đáng kể.
2019 ước đạt 110,4 triệu đồng/lao động (tương đương 4791 USD/lao động), tăng 6,2% so với năm trước theo giá so sánh
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tiếp tục xu hướng tăng trưởng tích cực Năm
Năm 2019, tổng mức đầu tư phát triển đạt 33,9% GDP, tăng 10,2% so với 32,6% của năm 2015 Đầu tư từ khu vực nhà nước chiếm 31% tổng vốn, tăng trưởng 2,6% so với năm trước, tuy nhiên, tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước tiếp tục giảm từ 38% vào năm 2015 xuống còn 31% vào năm 2019.
Trong thời gian qua, đầu tư khu vực nhà nước đã giảm về tỉ trọng, nhưng đã được bù đắp mạnh mẽ bởi đầu tư từ khu vực tư nhân Nhờ vào các chính sách ưu đãi và hỗ trợ, doanh nghiệp đã có điều kiện thuận lợi để mở rộng sản xuất kinh doanh Kết quả là tốc độ tăng trưởng và tỉ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân đã đạt lần lượt 17,3% và 46%.
Trong giai đoạn 2015 - 2019, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng ổn định Năm 2019, tổng vốn FDI đạt 38,02 tỷ USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, với tỷ trọng duy trì ổn định trong khoảng 23,3 - 23,8% So với năm 2015, mức tăng trưởng này cho thấy sự cải thiện rõ rệt, từ 13% lên 38,7%.
Lạm phát đã được kiểm soát hiệu quả nhờ vào việc thực hiện đồng bộ các giải pháp về tiền tệ, tín dụng và tài khóa, cùng với cơ chế phối hợp linh hoạt giữa chính sách tài khóa và tiền tệ Chỉ số CPI bình quân hàng năm đã giảm từ 4,74% vào năm 2016 xuống còn 3,54% vào năm 2018, và tiếp tục giảm xuống 2,79% vào năm 2019.
Trong bối cảnh lãi suất quốc tế tăng cao, với 9 lần điều chỉnh từ Fed từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2018, NHNN đã thực hiện các giải pháp chính sách tiền tệ đồng bộ nhằm ổn định lãi suất trong nước, góp phần vào việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng hợp lý Nhờ đó, mặt bằng lãi suất trong nước đã được duy trì ổn định và giảm dần, phù hợp với tình hình kinh tế trong và ngoài nước.
Nhờ vào việc kiểm soát bội chi và các khoản vay bảo lãnh của Chính phủ, tốc độ tăng nợ công đã giảm hơn một nửa, thấp hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa Cụ thể, giai đoạn 2011 – 2015, nợ công tăng 18,1%/năm trong khi GDP danh nghĩa tăng 14,5%/năm Tuy nhiên, từ 2016 đến 2018, tốc độ tăng nợ công chỉ còn 8,2%/năm, trong khi GDP danh nghĩa tăng 9,7%/năm Do đó, ước tính đến cuối năm 2020, nợ công giảm xuống còn 54,3% so với 64,3% vào năm 2016.
Vị thế kinh tế đối ngoại của Việt Nam được tăng cường trên cơ sở thặng dư cán cân vãng lai và dòng vốn FDI đổ vào mạnh mẽ
Cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đạt kỉ lục thặng dư 9,9 tỉ USD trong năm 2019, vượt đỉnh gần nhất là 9 tỉ USD vào năm 2017
2.2.2 Quy định pháp lý về lãi suất tại Việt Nam
Theo thời gian, cơ chế điều hành lãi suất đã có sự thay đổi theo hướng kiềm hãm, với sự can thiệp ngày càng nhiều của các cơ quan chức năng vào thị trường tiền tệ Có thể điểm qua một số giai đoạn chính với những quyết định nổi bật trong quá trình này.
Giai đoạn từ tháng 8 năm 2000 đến tháng 4 năm 2002, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất cơ bản và biên độ Trong thời gian này, các ngân hàng thương mại (NHTM) xác định lãi suất cho vay bằng VND dựa trên mức lãi suất cơ bản cùng với biên độ dao động do NHNN công bố.
Vào ngày 30/08/2002, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN, quy định về cơ chế lãi suất thỏa thuận dựa trên cung cầu vốn thị trường Mặc dù vậy, NHNN vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường Đây được coi là một bước ngoặt quan trọng, thể hiện mong muốn của NHNN trong việc điều hành chính sách tiền tệ ngày càng tiệm cận với quy luật thị trường.
Sau một thời gian dài không có quy định về lãi suất huy động, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành công điện 02/CĐ-NHNN vào ngày 26 tháng 2 năm 2008, quy định mức trần lãi suất huy động.
Mô hình truyền dẫn lãi suất chính sách vào lãi suất bán lẻ
Dựa trên các mô hình định giá Rousseas (1985), Ho & Sauders (1981), Bondt
Mô hình thực nghiệm năm 2002 để nghiên cứu truyền dẫn lãi suất được thiết lập với công thức i = β1 + β2u, trong đó i đại diện cho lãi suất do ngân hàng thiết lập (lãi suất bán lẻ), β1 là hệ số mark up/mark down thể hiện mức cộng thêm trong mô hình định giá, và u là chi phí nguồn vốn, còn β2 là hệ số truyền dẫn lãi suất bán lẻ.
Biến đổi của lãi suất bán lẻ được xác định bởi sự thay đổi của chi phí vốn, tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của chi phí vốn đến lãi suất bán lẻ lại phụ thuộc vào hệ số truyền dẫn lãi suất bán lẻ.
β2 < 1: truyền dẫn không hoàn toàn
- Theo Bondt (2002), cách tiếp cập trên thỏa mãn nhiều khía cạnh hoạt động của ngân hàng, đơn cử như:
Lãi suất cho vay ngắn hạn thường gắn liền với lãi suất thị trường, vì các ngân hàng thường căn cứ vào xu hướng diễn biến của thị trường để đưa ra quyết định về các khoản cho vay này.
Lãi suất tiền gửi có mối liên hệ chặt chẽ với lãi suất thị trường, thể hiện qua hai khía cạnh chính Đầu tiên, trong lĩnh vực đầu tư, tiền gửi và các công cụ trên thị trường tiền tệ được xem là những công cụ đầu tư có thể thay thế lẫn nhau, tạo ra sự linh hoạt cho cả cá nhân và doanh nghiệp Thứ hai, về nguồn tài trợ, cả tiền gửi và công cụ trên thị trường tiền tệ đều đóng vai trò là nguồn tài trợ mà ngân hàng có thể sử dụng thay thế cho nhau, góp phần vào sự ổn định của hệ thống tài chính.
Khi Ngân hàng Trung ương điều chỉnh chính sách tiền tệ, lãi suất thị trường sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp, đặc biệt là khi lãi suất chiết khấu thay đổi, dẫn đến sự thay đổi của lãi suất liên ngân hàng Ngân hàng thương mại có thể chuyển chi phí gia tăng từ thay đổi lãi suất thị trường sang lãi suất bán lẻ, như lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay Quá trình này được gọi là truyền dẫn lãi suất.
- Với khoản chi phí trên, khi NHTM có thể chuyển toàn bộ qua cho khách hàng → truyền dẫn hoàn toàn
Ngân hàng thương mại phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp như tài chính, quy định pháp lý, chính sách và chiến lược, dẫn đến việc chỉ một phần chi phí có thể được chuyển giao trực tiếp cho khách hàng, khiến cho quá trình truyền dẫn không hoàn toàn hiệu quả.
- Trường hợp khi tỷ lệ truyền dẫn lớn hơn một → truyền dẫn trên mức hoàn toàn
Phân tích đồng liên kết cho thấy rằng, bất kể truyền dẫn lãi suất có hoàn toàn hay không, vẫn tồn tại mối quan hệ cân bằng giữa các loại lãi suất Mối quan hệ này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Karagiannis và các cộng sự (2010) nhấn mạnh rằng nghiên cứu về sự truyền dẫn lãi suất cần xem xét cách mà lãi suất từ Ngân hàng Trung ương và lãi suất thị trường liên ngân hàng ảnh hưởng đến lãi suất bán lẻ Theo lý tưởng, sự thay đổi trong lãi suất chính sách nên được truyền dẫn hoàn toàn từ thị trường đến lãi suất bán lẻ trong một khoảng thời gian nhất định Do đó, hiệu quả của chính sách tiền tệ phụ thuộc vào mức độ và tốc độ truyền dẫn từ lãi suất thị trường sang lãi suất bán lẻ (Bredin, O’Reilly, & Fitzpatrick, 2001).
Theo De Bondt (2002), ngân hàng có sức mạnh kiểm soát thị trường yếu sẽ có hệ số truyền dẫn nhỏ hơn 1 Trong các thị trường lãi suất với độc quyền nhóm hoặc cạnh tranh hạn chế, lãi suất bán lẻ thường có độ trễ và điều chỉnh không hoàn toàn Ngược lại, trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, lãi suất đồng thời sẽ phản ứng nhanh chóng và được điều chỉnh hoàn toàn.
Luận văn này nghiên cứu quá trình truyền dẫn lãi suất bán lẻ tại Việt Nam, tập trung vào mối quan hệ giữa lãi suất chính sách, đại diện là lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước, và lãi suất thị trường liên ngân hàng kỳ hạn 3 tháng Nghiên cứu sẽ xem xét cách thức các thay đổi này ảnh hưởng đến lãi suất tiền gửi và cho vay ở nhiều kỳ hạn khác nhau.
Truyền dẫn lãi suất bán lẻ phản ảnh hiệu lực chính sách tiền tệ
Hiệu lực của chính sách tiền tệ có thể được đánh giá qua kênh truyền dẫn lãi suất Khi Ngân hàng Trung ương điều chỉnh lãi suất ngắn hạn, nó ảnh hưởng đến lãi suất thực mà các Ngân hàng Thương mại áp dụng cho lãi suất huy động và cho vay Kênh truyền dẫn lãi suất sẽ phát huy hiệu quả nếu các Ngân hàng Thương mại nhanh chóng chuyển đổi thay đổi từ lãi suất chính sách đến tay khách hàng Ngược lại, nếu sự chuyển tải này chậm chạp, kênh truyền dẫn lãi suất sẽ trở nên kém hiệu lực.
Manna và các tác giả (2001) chỉ ra rằng hầu hết các Ngân hàng Trung ương sử dụng lãi suất thị trường ngắn hạn như công cụ chính trong chính sách tiền tệ Họ cũng nhấn mạnh rằng trong quá trình truyền dẫn, sự biến động của lãi suất trở thành chỉ số quan trọng cho chính sách này Bredin và các tác giả (2001) cùng với Bondt (2002) đồng tình rằng thành công của chính sách tiền tệ phụ thuộc vào tốc độ điều chỉnh của lãi suất.
Truyền dẫn lãi suất từ lãi suất thị trường đến lãi suất bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến hành vi của bên cung và cầu vốn, từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, lạm phát và hiệu quả của chính sách tiền tệ Các thay đổi trong chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến nguồn vốn của ngân hàng, làm thay đổi khả năng cho vay, điều này đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp khi họ phụ thuộc vào việc vay vốn từ ngân hàng Sức khỏe tài chính của ngân hàng cũng là yếu tố quyết định khả năng thích nghi với các thay đổi trong chính sách tiền tệ, với những ngân hàng có tình hình tài chính tốt dễ dàng điều chỉnh hơn so với những ngân hàng yếu kém.
Tóm lược kết quả thực nghiệm các nghiên cứu trước đây
Bài viết này tóm tắt các kết quả nghiên cứu liên quan từ cả trong nước và quốc tế, bên cạnh những nghiên cứu đã được trình bày ở khía cạnh lý thuyết.
Có thể tạm chia nghiên cứu truyền dẫn lãi suất bán lẻ theo hai nhóm:
Nghiên cứu so sánh nhóm các quốc gia, đặc biệt là trong Liên minh Châu Âu và khối OECD, thường tập trung vào việc tính toán hệ số truyền dẫn dài hạn giữa các biến lãi suất Các nghiên cứu này cho thấy cấu trúc tài chính và môi trường vĩ mô có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình truyền dẫn lãi suất giữa các quốc gia khác nhau.
Nghiên cứu về một quốc gia cụ thể thường sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian, chủ yếu tập trung vào các quốc gia phát triển Các nghiên cứu này phân tích sự thay đổi của truyền dẫn lãi suất đối với các loại lãi suất khác nhau trong các định chế tài chính Kết quả cho thấy tốc độ điều chỉnh lãi suất tiền tệ có ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế.
24 gửi và cho vay của ngân hàng đối với thay đổi của lãi suất thị trường (lãi suất liên ngân hàng) phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau
2.5.1 Các nghiên cứu quốc tế
Các nghiên cứu vào khoảng giữa những năm 90 của Borio & Fritz (1995), Cottarelli & Kourelis (1994) tại các quốc gia Liên Minh Châu Âu cho biết:
Sự thay đổi của lãi suất chính sách hoặc lãi suất thị trường liên ngân hàng không hoàn toàn ảnh hưởng đến lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại trong vòng 3 tháng.
- Lãi suất có kỳ hạn dài hơn hệ số truyền dẫn cao hơn
Mojon (2000), Kleimeier & Sander (2002), và Kwapil & Scharler (2006) đã chỉ ra rằng trong các quốc gia thuộc Liên Minh Châu Âu, có sự cứng nhắc về lãi suất ngắn hạn và sự không đồng nhất trong việc truyền dẫn lãi suất thị trường đến lãi suất bán lẻ của ngân hàng.
Egert và các tác giả (2007) nghiên cứu truyền dẫn lãi suất ở 5 quốc gia Trung và Đông Âu – Czech Republic, Hungary, Poland, Slovakia và Slovenia tìm thấy:
Lãi suất tiền gửi kỳ hạn dài hiện đang cao hơn nhiều so với lãi suất tiền gửi qua đêm, vốn ở mức rất thấp, điều này phản ánh kết quả tương tự như các nghiên cứu trước đây.
Lãi suất cho vay của các tổ chức tài chính có sự nhạy bén hơn khi phản ứng với biến động của lãi suất chính sách so với lãi suất tiền gửi hoặc lãi suất cho vay hộ gia đình.
Wang & Lee (2009) nghiên cứu truyền dẫn lãi suất thị trường đến lãi suất bán lẻ của Mỹ và 9 quốc gia Châu Á:
- Sử dụng mô hình EC-EGARCH-M
- Hầu hết các trường hợp truyền dẫn không hoàn toàn
- Lãi suất cho vay điều chỉnh giảm cứng nhắc tại Philippines, Đài Loan, Hong Kong
- Lãi suất huy động điều chỉnh tăng cứng nhắc ở Philippines, Đài Loan, Hong Kong, Singapore và Malaysia
Bất ổn lãi suất ảnh hưởng đồng thời đến lãi suất cho vay tại Hong Kong, Nhật Bản và Malaysia, cũng như lãi suất tiền gửi của Mỹ Tuy nhiên, nó lại tác động ngược chiều đến lãi suất tiền gửi tại Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan và lãi suất cho vay của Philippines, Singapore, Thái Lan.
Karagiannis và các tác giả (2010) nghiên cứu về điều chỉnh lãi suất ở Hy Lạp, Bulgaria và Slovenia:
- Dữ liệu nghiên cứu như sau: Hy Lạp (từ tháng 1 năm 1999 đến tháng 4 năm 2004); Slovenia (từ tháng 1 năm 1999 đến tháng 8 năm 2007) và Bulgaria ((từ tháng 1 năm 1999 đến tháng 8 năm 2007);
- Kết quả cho rằng: truyền dẫn ở Hy Lạp lãi suất cân xứng; Bualgaria lãi suất bất cưng xứng và Slovenia lãi suất bất cưng xứng;
Sự khác biệt về mức độ cạnh tranh, phát triển tài chính và tự do hóa tài chính trong hệ thống ngân hàng có thể là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng truyền dẫn lãi suất bất cân xứng.
- Kết quả ủng hộ giả thuyết lựa chọn đối nghịch tác động đến truyền dẫn bất cân xứng
Perera & Wickramanayake (2016) nghiên cứu các yếu tố quyết định lãi suất cho vay:
- Sử dụng dữ liệu bảng của 122 quốc gia;
Kết quả nghiên cứu cho thấy lãi suất cho vay bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kiểm soát kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính ngân hàng, cũng như các đặc điểm nội tại của ngân hàng, đặc biệt là chất lượng quản trị.
- Minh bạch chính sách của NHTW là yếu tố kinh tế vĩ mô quan trọng quyết định lãi suất cho vay
Nghiên cứu của Disyatat và Vongsinsirikul (2002) chỉ ra rằng phản ứng của nền kinh tế Thái Lan đối với chính sách thắt chặt tiền tệ có sự khác biệt, với mức độ truyền dẫn lãi suất thấp hơn so với các quốc gia phát triển.
Liu và các tác giả (2008) đã chỉ ra rằng việc tăng cường minh bạch trong chính sách tiền tệ tại New Zealand đã giúp giảm bất ổn lãi suất chính sách, đồng thời thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại.
Zulkhibri (2012) nghiên cứu truyền dẫn lãi suất bán lẻ gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay tại Malaysia
- Sử dụng khung phân tích của mô hình hiệu chỉnh sai số
- Tập trung phân tích truyền dẫn lãi suất ngắn và dài hạn, phân tích vấn đề thỏa thuận định giá của định chế tài chính tại Malaysia
- Kết quả nghiên cứu tìm thấy truyền dẫn lãi suất bán lẻ không hoàn toàn
- Kết quả cũng thể hiện tồn tại điều chỉnh lãi suất bất cân xứng tại Malaysia
Kitamura và các tác giả (2015) nghiên cứu truyền dẫn lãi suất thị trường sang lãi suất cho vay ở các ngân hàng Nhật Bản với nhận định:
- Sử dụng yếu tố trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng truyền dẫn đến lãi suất cho vay của NHTM;
- Hệ số truyền dẫn nhỏ hơn đối với các ngân hàng có tỷ lệ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ lớn hơn;
- Hệ số truyền dẫn cũng thấp với ngân hàng có mức độ tập trung thị trường lớn hơn
Chưa có bằng chứng cho thấy quy mô ngân hàng và hệ số an toàn vốn ảnh hưởng đến lãi suất cho vay, trong khi tỷ lệ thanh khoản lại có tác động tích cực đến lãi suất cho vay của các ngân hàng.
Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu và hệ số khả năng thanh toán lãi vay có mối quan hệ tích cực với lãi suất cho vay của ngân hàng, cho thấy rằng khi lãi suất tăng, cả tỷ lệ nợ và khả năng thanh toán lãi vay cũng có xu hướng tăng theo.
Nhiều nghiên cứu, bao gồm Neumark & Sharpe (1992) tại Mỹ, Lim (2001) tại Australia, và DeBondt (2005) tại Liên Minh Châu Âu, đã chỉ ra rằng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay của ngân hàng trước sự thay đổi của lãi suất thị trường, như quy mô định chế tài chính và điều kiện tái cấp vốn.
2.5.2 Các nghiên cứu trong nước
Những điểm mới trong nghiên cứu
Tại Việt Nam, nghiên cứu về truyền dẫn chính sách tiền tệ vẫn còn mới mẻ, chủ yếu tập trung vào kênh truyền dẫn lãi suất chung hoặc chính sách lãi suất Hiện tại, chưa có luận văn nào phân tích sâu về hiệu lực truyền dẫn lãi suất bán lẻ theo từng kỳ hạn.
Nhiều nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào lãi suất huy động trung bình dưới 12 tháng, chưa khai thác đầy đủ dữ liệu lãi suất bán lẻ ở các kỳ hạn khác nhau Điều này tạo ra một khoảng trống nghiên cứu cần được lấp đầy để hoàn thiện hơn chủ đề truyền dẫn lãi suất bán lẻ tại Việt Nam.
Luận văn này nghiên cứu tác động của lãi suất tái cấp vốn và lãi suất liên ngân hàng đến lãi suất bán lẻ tại Việt Nam, nhằm bổ sung vào khoảng trống nghiên cứu về hiệu lực truyền dẫn lãi suất bán lẻ với các kỳ hạn khác nhau Nghiên cứu không chỉ xem xét lãi suất ở mức trung bình mà còn phân tích mức cao nhất và thấp nhất trong giai đoạn từ năm
2012 đến năm 2019 Cho đến thời điểm thực hiện, luận văn là nghiên cứu truyền dẫn lãi suất bán lẻ với biến phụ thuộc có nhiều kỳ hạn nhất:
Lãi suất tái cấp vốn
Lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 3 tháng
Lãi suất cho vay trung bình kỳ hạn dưới 12 tháng
Lãi suất huy động trung bình kỳ hạn 3 tháng
Lãi suất huy động thấp nhất kỳ hạn dưới 1 tháng
Lãi suất huy động cao nhất kỳ hạn dưới 1 tháng
Lãi suất huy động thấp nhất kỳ hạn từ 1 tháng đến 6 tháng
Lãi suất huy động cao nhất kỳ hạn từ 1 tháng đến 6 tháng
Lãi suất huy động thấp nhất kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng
Lãi suất huy động cao nhất kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng
Lãi suất huy động thấp nhất kỳ hạn trên 12 tháng
Lãi suất huy động cao nhất kỳ hạn trên 12 tháng
Trong chương 2, luận văn trình bày cơ sở lý thuyết về lãi suất và mô hình truyền dẫn lãi suất bán lẻ, đồng thời lược khảo các nghiên cứu trước đây về mức độ truyền dẫn này Nội dung nhấn mạnh tầm quan trọng của truyền dẫn lãi suất bán lẻ, giải thích việc chọn lãi suất tái cấp vốn và lãi suất liên ngân hàng làm biến độc lập, trong khi lãi suất bán lẻ với nhiều kỳ hạn khác nhau là biến phụ thuộc, thể hiện khoảng trống nghiên cứu của luận văn.