1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu Điều Hành Bộ Ba Bất Khả Thi - Bằng Chứng Thực Nghiệm Trên Thế Giới Và Thực Trạng Ở Việt Nam

132 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Điều Hành Bộ Ba Bất Khả Thi – Bằng Chứng Thực Nghiệm Trên Thế Giới Và Thực Trạng Ở Việt Nam
Tác giả Phạm Thu Trang
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM
Chuyên ngành Kinh Tế Tài Chính - Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2011
Thành phố TP.Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 132
Dung lượng 1,21 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • MỤC LỤC

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

  • DANH MỤC BẢNG BIỂU

  • DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ

  • CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ BỘ BA BẤT KHẢ THI

    • 1.1 Mô hình Mundell-Fleming

      • 1.1.1 Các giả thiết của mô hình Mundell-Fleming

      • 1.1.2 Phân tích tác động của chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong nềnkinh tế nhỏ, mở dưới các chế độ tỷ giá

        • 1.1.2.1 Trong nền kinh tế nhỏ, mở dưới chế độ tỷ giá cố định

          • 1.1.2.1.1 Phân tích tác động của chính sách tài khóa

          • 1.1.2.1.2 Phân tích tác động của chính sách tiền tệ

        • 1.1.2.2 Trong nền kinh tế nhỏ, mở dưới chế độ tỷ giá thả nổi

          • 1.1.2.2.1 Phân tích tác động của chính sách tài khóa

          • 1.1.2.2.2 Phân tích tác động của chính sách tiền tệ

      • 1.1.3 Tóm tắt tác động của các chính sách

    • 1.2 Thuyết bộ ba bất khả thi

    • KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

  • CHƯƠNG 2: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ BỘ BA BẤT KHẢ THI

    • 2.1 Các chỉ số bộ ba bất khả thi (trilemma indexes) và mô hình “đồ thị kimcương” và của Aizenman, Chinn và Ito

      • 2.1.1 Các chỉ số bộ ba bất khả thi (trilemma indexes)

        • 2.1.1.1 Độc lập tiền tệ (MI)

        • 2.1.1.2 Ổn định tỷ giá (ERS)

      • 2.1.2 Mô hình “đồ thị kim cương”

    • 2.2 Phân tích các chỉ số bộ ba bất khả thi

      • 2.2.1 Sự thay đổi các chỉ số bộ ba bất khả thi qua các nhóm quốc gia

      • 2.2.2 Sự phá vỡ cấu trúc tài chính quốc tế

      • 2.2.3 Tương quan tuyến tính giữa các chỉ số bộ ba bất khả thi

    • 2.3 Tác động của sự lựa chọn chính sách bộ ba bất khả thi đến hiệu quả vĩ môcủa nền kinh tế các nước đang phát triển

      • 2.3.1 Ước lượng mô hình tổng quát

      • 2.3.2 Kiểm định tác động của sự lựa chọn chính sách bộ ba bất khả thi đến biếnđộng trong tăng trưởng sản lượng

      • 2.3.3 Kiểm định tác động của sự lựa chọn chính sách bộ ba bất khả thi đến biếnđộng trong tỷ lệ lạm phát

      • 2.3.4 Kiểm định tác động của sự lựa chọn chính sách bộ ba bất khả thi đến tỷ lệlạm phát trung hạn

    • 2.4 Dự trữ ngoại hối và mẫu hình trung gian của bộ ba bất khả thi ở các quốcgia thị trường mới nổi

    • KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

  • CHƯƠNG 3: ĐIỀU HÀNH BỘ BA BẤT KHẢ THI Ở VIỆT NAM

    • 3.1 Thực trạng các chính sách tài chính vĩ mô ở Việt Nam

      • 3.1.1 Chính sách tiền tệ

      • 3.1.2 Chính sách tỷ giá hối đoái

      • 3.1.3 Chính sách kiểm soát dòng vốn

        • 3.1.3.1 Kiểm soát vốn đầu tư trực tiếp

        • 3.1.3.2 Kiểm soát vốn đầu tư gián tiếp

        • 3.1.3.3 Kiểm soát vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA

      • 3.1.4 Chính sách dự trữ ngoại hối

      • 3.1.5 Chính sách tài khóa

        • 3.1.5.1 Thâm hụt ngân sách đang ở mức cao

        • 3.1.5.2 Nợ công tăng rất nhanh trong thập kỷ vừa qua

    • 3.2 Tổng quan về các chỉ số bộ ba bất khả thi ở Việt Nam thời gian qua

      • 3.2.1 Tình hình các chỉ số bộ ba bất khả thi ở Việt Nam

      • 3.2.2 Quan hệ tuyến tính của các chỉ số trong bộ ba bất khả thi ở Việt Nam

    • 3.3 Dự trữ ngoại hối liệu có thể gây ảnh hưởng lên bộ ba bất khả thi ở ViệtNam?

    • 3.4 Kiểm định tác động của các yếu tố của bộ ba bất khả thi đến nền kinh tếViệt Nam thời gian qua

      • 3.4.1 Xem xét tác động của các nhân tố đến lạm phát

      • 3.4.2 Xem xét tác động của các nhân tố đến sản lượng

    • 3.5 Tóm tắt kết quả phân tích và kiểm định các yếu tố bộ ba bất khả thi ở ViệtNam

    • KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

  • CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GỢI Ý HƯỚNG ĐI CHO CHÍNH SÁCH QUẢN LÝBỘ BA BẤT KHẢ THI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

    • 4.1 Chính sách tỷ giá

    • 4.2 Chính sách mở cửa tài chính kết hợp kiểm soát dòng vốn

      • 4.2.1 Đối với dòng vốn vào

        • 4.2.1.1 Các biện pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

        • 4.2.1.2 Các biện pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài

        • 4.2.1.3 Các biện pháp thu hút và quản lý vốn ODA

      • 4.2.2 Đối với dòng vốn ra

    • 4.3 Chính sách tiền tệ

    • 4.4 Chính sách tài khóa

    • 4.5 Gợi ý chính sách về dự trữ ngoại hối

  • KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC 1Mẫu dữ liệu về các chỉ số bộ ba bất khả thi

  • PHỤ LỤC 2Cấu trúc bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối ở các nhóm quốc gia theo thời gian

  • PHỤ LỤC 3Kiểm định sự phá vỡ cấu trúc bộ ba bất khả thi

  • PHỤ LỤC 4

  • PHỤ LỤC 5Kiểm định tác động các yếu tố bộ ba bất khả thi đến biến động sản lượng ở nhóm quốc gia LDC

  • PHỤ LỤC 6

  • PHỤ LỤC 7Kiểm định tác động các yếu tố bộ ba bất khả thi đến tỷ lệ lạm phát trung hạn ở các quốc gia LDC

  • PHỤ LỤC 8Tổng hợp xu hướng phát triển của cấu trúc bộ ba bất khả thi qua thời gian

  • PHỤ LỤC 9Các chỉ số bộ ba bất khả thi ở các nước thị trường mới nổi châu Á

Nội dung

LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ BỘ BA BẤT KHẢ THI

Mô hình Mundell-Fleming

1.1.1 Các giả thiết của mô hình Mundell-Fleming

Mô hình Mundell-Fleming là một công cụ phân tích kinh tế trong ngắn hạn, trong đó giả định rằng giá cả (P) là biến ngoại sinh và không thay đổi Điều này có nghĩa là tỷ giá hối đoái danh nghĩa (e) và tỷ giá hối đoái thực (ε) sẽ biến động theo cùng một tỷ lệ cố định Hơn nữa, giả định rằng tỷ giá hối đoái được niêm yết gián tiếp, với nội tệ là đồng tiền yết giá và ngoại tệ là đồng tiền định giá.

Giả thiết 2 phân tích nền kinh tế nhỏ và mở, trong đó vốn có thể tự do lưu chuyển giữa các quốc gia với chi phí giao dịch bằng 0 và không có rủi ro Dưới điều kiện này, lãi suất trong nước (r) sẽ tương đương với lãi suất thế giới (r*).

Giả thiết 3: Cung tiền (Ms) là biến ngoại sinh được kiểm soát hoàn toàn bởi NHTW

1.1.2 Phân tích tác động của chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong nền kinh tế nhỏ, mở dưới các chế độ tỷ giá

1.1.2.1 Trong nền kinh tế nhỏ, mở dưới chế độ tỷ giá cố định

Dưới chế độ tỷ giá cố định, chính phủ và NHTW duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, can thiệp khi có thâm hụt trong cán cân thanh toán bằng cách cung ứng ngoại tệ từ quỹ dự trữ Hành động này làm giảm dự trữ ngoại tệ và tăng cung tiền trong nền kinh tế Để kiểm soát lượng ngoại tệ, NHTW có thể mua vào ngoại tệ và bán chứng khoán chính phủ tương ứng Nếu tình trạng thiếu hụt kéo dài, NHTW có thể buộc phải phá giá đồng nội tệ Ngược lại, khi có thặng dư trong cán cân thanh toán, chính phủ can thiệp bằng cách mua lại đồng ngoại tệ.

Chế độ tỷ giá hối đoái cố định tập trung vào việc duy trì tỷ giá theo mức quy định, với chính sách tiền tệ của quốc gia chỉ có một mục tiêu duy nhất Ngân hàng Trung ương (NHTW) có trách nhiệm điều chỉnh cung tiền để tỷ giá đạt được sự cân bằng với tỷ giá quy định Khi NHTW sẵn sàng mua và bán ngoại tệ theo tỷ giá này, cung tiền trong nền kinh tế sẽ tự động điều chỉnh để duy trì sự ổn định trên thị trường ngoại hối.

Chế độ tỷ giá cố định hoạt động bằng cách duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, ngay cả khi có sự thay đổi trong xuất khẩu ròng do chính sách trợ giá xuất khẩu Khi xuất khẩu ròng tăng, tổng chi tiêu và tổng thu nhập cũng sẽ tăng, dẫn đến việc đường IS* dịch sang phải Sự gia tăng cầu đồng bản tệ trên thị trường ngoại hối tạo áp lực tăng giá đồng bản tệ Để giữ tỷ giá cố định, Ngân hàng Trung ương sẽ can thiệp bằng cách mua ngoại tệ theo yêu cầu, từ đó làm tăng cung tiền và dịch chuyển đường LM* sang phải.

Chế độ tỷ giá cố định đã được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia từ năm 1944 đến 1971, sau hiệp ước Bretton Woods Trong giai đoạn này, tỷ giá được thiết lập và các chính phủ đã đồng thuận can thiệp vào thị trường ngoại hối để duy trì mức tỷ giá ổn định.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) được thành lập để duy trì hệ thống tài chính toàn cầu và hỗ trợ các quốc gia gặp khó khăn trong cán cân thanh toán Các quốc gia phải thực hiện các biện pháp điều chỉnh kinh tế để duy trì sự cân bằng Tuy nhiên, nếu tình trạng mất cân bằng kéo dài, các cuộc đàm phán quốc tế sẽ được tổ chức để thỏa thuận điều chỉnh tỷ giá, bao gồm việc phá giá hoặc nâng giá đồng tiền.

1.1.2.1.1 Phân tích tác động của chính sách tài khóa

Khi chính phủ tăng cường chi tiêu trong nước thông qua việc gia tăng mua sắm hoặc cắt giảm thuế, tổng chi tiêu dự kiến sẽ tăng, dẫn đến sự dịch chuyển của đường IS sang phải và tạo áp lực tăng giá đồng bản tệ Trong chế độ tỷ giá cố định, Ngân hàng Trung ương (NHTW) cần can thiệp bằng cách mua ngoại tệ trên thị trường ngoại hối theo tỷ giá quy định, làm tăng cung tiền và dịch chuyển đường LM sang phải Chính sách mở rộng tài khóa dưới chế độ tỷ giá cố định sẽ thúc đẩy tổng cầu và gia tăng thu nhập.

Hình 1.1: Tác độ ng c ủ a chính sách tài khóa trong n ề n kinh t ế nh ỏ , m ở d ướ i ch ế độ t ỷ giá c ố đị nh

Nguồn: N.G Mankiw (2000), Sách kinh tế vĩ mô, NXB Thống Kê

1.1.2.1.2 Phân tích tác động của chính sách tiền tệ

Khi Ngân hàng Trung ương (NHTW) tăng cung tiền, đường LM* dịch chuyển sang phải, dẫn đến lãi suất thị trường tiền tệ giảm Sự chênh lệch lãi suất giữa trong nước và quốc tế khuyến khích nhà đầu tư chuyển vốn ra nước ngoài để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn Điều này làm tăng cung đồng bản tệ trên thị trường ngoại hối, gây áp lực giảm giá đồng bản tệ Để giữ tỷ giá ổn định, NHTW sẽ bán ngoại tệ, bù đắp thiếu hụt ngoại tệ, và làm giảm cung tiền trở lại mức ban đầu Chính sách tiền tệ trong tình huống này chủ yếu nhằm duy trì tỷ giá ổn định mà không ảnh hưởng đến các mục tiêu kinh tế khác.

Hình 1.2: Tác độ ng c ủ a chính sách ti ề n t ệ trong n ề n kinh t ế nh ỏ , m ở d ướ i ch ế độ t ỷ giá c ố đị nh

Nguồn: N.G Mankiw (2000), Sách kinh tế vĩ mô, NXB Thống Kê

1.1.2.2 Trong nền kinh tế nhỏ, mở dưới chế độ tỷ giá thả nổi

Dưới chế độ tỷ giá thả nổi, chính phủ và Ngân hàng Trung ương không can thiệp vào thị trường ngoại hối, cho phép tỷ giá được điều chỉnh tự động bởi lực cung và cầu Điều này lý thuyết giúp loại bỏ mất cân bằng trong thanh toán quốc tế.

1.1.2.2.1 Phân tích tác động của chính sách tài khóa

Khi chính phủ tăng cường chi tiêu trong nước thông qua việc tăng mua sắm hoặc giảm thuế, tổng chi tiêu dự kiến sẽ tăng lên, dẫn đến sự dịch chuyển của đường IS* sang phải Kết quả của hành động này là giá đồng bản tệ (e) sẽ tăng, trong khi thu nhập thực (Y) vẫn giữ nguyên.

Hình 1.3: Tác độ ng c ủ a chính sách tài khóa trong n ề n kinh t ế nh ỏ , m ở d ướ i ch ế độ t ỷ giá th ả n ổ i

Nguồn: N.G Mankiw (2000), Sách kinh tế vĩ mô, NXB Thống Kê

Khi chính phủ gia tăng mua sắm hoặc giảm thuế, tổng thu nhập trong nền kinh tế sẽ tăng lên theo mô hình số nhân, dẫn đến sự gia tăng cầu tiền thực Giả thiết cung tiền không đổi, sự gia tăng cầu tiền thực sẽ kéo theo lãi suất tăng trên thị trường tiền tệ Trong nền kinh tế mở nhỏ, lãi suất trong nước tăng sẽ thu hút nhà đầu tư vào tài sản tài chính trong nước, làm tăng cầu đồng bản tệ và đẩy giá trị đồng bản tệ lên Tuy nhiên, khi giá đồng bản tệ tăng, khả năng cạnh tranh của khu vực xuất khẩu sẽ giảm, dẫn đến xuất khẩu ròng giảm bằng mức tăng mua sắm của chính phủ, giữ sản lượng không đổi.

1.1.2.2.2 Phân tích tác động của chính sách tiền tệ

Khi Ngân hàng Trung ương tăng cường cung tiền thông qua việc mua chứng khoán trên thị trường mở, dưới giả định giá cả không thay đổi, cung tiền thực sẽ gia tăng Điều này dẫn đến sự dịch chuyển của đường LM* sang bên phải, khiến giá trị đồng bản tệ giảm và thu nhập tăng lên.

Hình 1.4: Tác độ ng c ủ a chính sách ti ề n t ệ trong n ề n kinh t ế nh ỏ , m ở d ướ i ch ế độ t ỷ giá th ả n ổ i

Khi mức cung tiền tăng, lãi suất sẽ giảm Nếu lãi suất trong nước thấp hơn lãi suất nước ngoài, cơ hội đầu tư vào tài sản tài chính ở nước ngoài sẽ gia tăng Việc này dẫn đến cầu ngoại tệ tăng lên, làm tăng cung đồng bản tệ và khiến giá trị đồng bản tệ giảm Sự giảm giá đồng bản tệ sẽ làm cho hàng hóa trong nước rẻ hơn, từ đó gia tăng xuất khẩu ròng Điều này minh chứng cho sự tương tác giữa chính sách tiền tệ và thương mại trong nền kinh tế mở.

Y1 e1 nhỏ một sự gia tăng mức cung tiền sẽ làm cho giá đồng bản tệ giảm xuống và thu nhập tăng lên

1.1.3 Tóm tắt tác động của các chính sách

Chính sách Chế độ tỷ giá hối đoái

Mở rộng tài khóa Không đổi Tăng Giảm Tăng Không đổi Không đổi

Mở rộng tiền tệ Giảm Giảm Tăng Không đổi Không đổi Không đổi

Thuyết bộ ba bất khả thi

Mô hình Mundell-Fleming chỉ ra rằng hiệu quả của chính sách tiền tệ và tài khóa bị ảnh hưởng bởi cơ chế tỷ giá hối đoái và mức độ kiểm soát vốn Cụ thể, ở những quốc gia có dòng vốn tự do và tỷ giá cố định, nhà quản lý tiền tệ không thể thực hiện chính sách tiền tệ độc lập Trong bối cảnh tỷ giá cố định, không có rủi ro tỷ giá và lãi suất trong nước sẽ biến động theo lãi suất quốc tế Những quan điểm này đã được các nhà kinh tế như Krugman (1979) và Frankel (1999) mở rộng trong nghiên cứu của họ.

Mô hình Mundell-Fleming, được coi là "mô hình bất khả thi", cho thấy rằng một quốc gia không thể đồng thời đạt được ba mục tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, sự ổn định của chính sách tỷ giá và hội nhập thị trường tài chính Theo Frankel (1999), quốc gia phải lựa chọn từ bỏ một trong ba mục tiêu này để đảm bảo sự ổn định kinh tế Thông tin này được tóm tắt rõ ràng trong bảng 1.1.

Bộ ba bất khả thi mô tả sự tương tác giữa ba mục tiêu chính: chính sách tiền tệ độc lập, sự ổn định của tỷ giá và hội nhập tài chính hoàn toàn Mỗi cạnh của hình vẽ minh họa cho các mục tiêu này, trong khi các đỉnh tương ứng với các công cụ chính sách Cụ thể, hội nhập tài chính mâu thuẫn với kiểm soát vốn, ổn định tỷ giá đối lập với thả nổi hoàn toàn, và chính sách tiền tệ độc lập trái ngược với liên minh tiền tệ.

Bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng có thể đạt được thông qua một đỉnh nằm giữa Chẳng hạn, mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và tỷ giá ổn định có thể đạt được với đỉnh kiểm soát vốn hoàn toàn Trong khi đó, mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và hội nhập tài chính hoàn toàn khả thi với đỉnh thả nổi hoàn toàn Cuối cùng, mục tiêu tỷ giá ổn định và hội nhập tài chính có thể đạt được thông qua đỉnh liên minh tiền tệ Tuy nhiên, việc đạt được đồng thời cả ba mục tiêu là điều không khả thi.

B ả ng 1.1: Nguyên lý c ủ a b ộ ba b ấ t kh ả thi

Dòng vốn lưu động hoàn toàn

Chính sách tiền tệ độc lập

Hệ thống tỷ giá cố định

Kiểm soát vốn Không Có Có Trung Quốc trước tháng cuộc cải cách tháng 7/2005

Liên minh tiền tệ Có Không Có Hồng Kông, EU

Tỷ giá thả nổi Có Có Không Nhật, Úc

Nguồn: tác giả tổng hợp

Toàn cầu hóa đang tạo ra áp lực buộc các quốc gia phải lựa chọn giữa ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ Tuy nhiên, theo Frankel, các quốc gia vẫn có thể áp dụng cơ chế tỷ giá bán ổn định và chính sách tiền tệ bán độc lập Lý thuyết bộ ba bất khả thi không ngăn cản việc theo đuổi các cơ chế tỷ giá như thả nổi có quản lý hoặc dải băng tỷ giá Không có một chế độ tiền tệ nào là tốt nhất cho tất cả, và ngay trong một quốc gia, không có chính sách tiền tệ nào phù hợp cho mọi thời kỳ Các quốc gia có thể có những phối hợp mục tiêu khác nhau và thực hiện cơ chế trung gian cho ba mục tiêu mà không cần chấp nhận sự đánh đổi hoàn toàn.

Hình 1.5: Tam giác b ộ ba b ấ t kh ả thi

Luận văn trình bày các lập luận cơ bản của mô hình Mundell-Fleming, nhấn mạnh vai trò của cán cân thanh toán trong việc đánh giá hiệu quả chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm đạt được sự cân bằng nội bộ (tổng cung - tổng cầu) và cân bằng bên ngoài (cân bằng cán cân thanh toán) Chính sách tiền tệ và tài khóa phụ thuộc vào cơ chế tỷ giá hối đoái và mức độ kiểm soát vốn của từng quốc gia Từ mô hình này, các nhà khoa học Krugman và Frankel đã phát triển lý thuyết bộ ba bất khả thi.

Hội nhập tài chính hoàn toàn

Luân chuyển dòng vốn gia tăng Chính sách tiền tệ độc lập

A1 - Kiểm soát vốn hoàn toàn

A3 - Liên minh tiền tệ A2 - Thả nổi hoàn toàn

Nguồn: Jeffrey A.Frankel, “No single currency regime is right for all countries or at all times” Essays in International Finance (Đại học Princeton), số 215 (1999).

BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ BỘ BA BẤT KHẢ THI

Các chỉ số bộ ba bất khả thi (trilemma indexes) và mô hình “đồ thị kim cương” và của Aizenman, Chinn và Ito

2.1.1 Các chỉ số bộ ba bất khả thi (trilemma indexes)

2.1.1.1 Độc lập tiền tệ (MI)

Mức độ độc lập tiền tệ được xác định thông qua phần bù của sự tương quan hàng năm giữa lãi suất hàng tháng của quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở, sử dụng lãi suất thị trường tiền tệ làm cơ sở.

Chỉ số mức độ độc lập tiền tệ được xác định bằng: corr(ii, ij)-(-1)

Trong nghiên cứu này, quốc gia sở tại (i) được so sánh với quốc gia cơ sở (j) để đánh giá mức độ độc lập của chính sách tiền tệ Giá trị tối đa và tối thiểu được xác định là 1 và 0, tương ứng với chỉ số phản ánh mức độ độc lập cao hơn khi giá trị tăng Quốc gia cơ sở, theo định nghĩa của Shambaugh (2005), bao gồm các nước như Úc, Bỉ, Pháp, Đức, Ấn Độ, Malaysia, Nam Phi, Anh và Hoa Kỳ Một số quốc gia cơ sở được xác định từ cơ sở dữ liệu của Shambaugh, trong khi những quốc gia còn lại được xác định thông qua báo cáo hàng năm về cơ chế tỷ giá và hạn chế ngoại hối của IMF (AREAER) và CIA Factbook.

2.1.1.2 Ổn định tỷ giá (ERS)

Mức ổn định của tỷ giá được xác định qua độ lệch chuẩn hằng năm dựa trên dữ liệu tỷ giá hàng tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở Chỉ số độ ổn định tỷ giá dao động từ 0 đến 1, trong đó giá trị cao hơn cho thấy sự dịch chuyển ổn định hơn của tỷ giá so với đồng tiền của quốc gia cơ sở.

Nếu chỉ áp dụng công thức đơn giản, chỉ số đo lường độ ổn định tỷ giá sẽ rất nhỏ, dẫn đến việc phóng đại mức độ linh hoạt của tỷ giá Điều này đặc biệt xảy ra khi tỷ giá dao động trong biên độ hẹp và không được định giá lại thường xuyên Do đó, nếu mức độ dao động hàng tháng của tỷ giá hối đoái trong biên độ +/-0.33%, thì tỷ giá được coi là cố định và ERS=1.

2.1.1.3 Hội nhập/ mở cửa tài chính (KAOPEN) Đo lường mức độ của việc kiểm soát tài khoản vốn là việc khó khăn Mặc dù nhiều các công cụ đo lường hiện nay mô tả mức độ và cường độ của việc kiểm soát tài khoản vốn, nhưng dường như các công cụ đo lường như vậy chưa phản ánh đầy đủ sự phức tạp của việc kiểm soát vốn trong thực tế Để đo lường độ mở tài chính, Chin và Ito (2006, 2008) đã phát triển chỉ số độ mở tài khoản, ký hiệu là KAOPEN KAOPEN được dựa trên AREAER KAOPEN cho biết sự hiện diện của đa tỷ giá, những hạn chế các giao dịch tài khoản vãng lai, những hạn chế các giao dịch tài khoản vốn, và yêu cầu của việc từ bỏ nguồn thu xuất khẩu

Chỉ số KAOPEN được tiêu chuẩn hóa trong khoảng từ 0 đến 1, với giá trị cao thể hiện mức độ hội nhập tài chính sâu Chỉ số này được áp dụng cho hơn 180 quốc gia, ngoại trừ Mỹ.

1970 đến 2009 Phụ lục 1 trình bày chi tiết hơn những dữ liệu sẵn có

2.1.2 Mô hình “đồ thị kim cương”

Chuẩn mực ban đầu của lý thuyết bộ ba bất khả thi không phản ánh đúng vai trò của dự trữ ngoại tệ Aizenman, Chinn và Ito đã phân tích mối liên hệ giữa bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối, đặc biệt là tỷ lệ dự trữ trên GDP Dự trữ ngoại tệ được chọn làm yếu tố quan trọng vì nó tạo ra một tấm đệm vô hình, giúp các quốc gia đang phát triển duy trì mức độc lập tiền tệ thông qua chế độ tỷ giá trung gian, tức là cơ chế tỷ giá linh hoạt có quản lý.

Nhóm tác giả đã phát triển “đồ thị kim cương” bằng cách bổ sung yếu tố dự trữ ngoại tệ (IR/GDP) vào ba yếu tố của bộ ba bất khả thi: độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá hối đoái và hội nhập tài chính Các tiêu chuẩn này dao động từ 0 đến 1, và cấu hình của mỗi quốc gia được thể hiện qua đồ thị “kim cương tổng quát” với bốn đỉnh đo lường Gốc trung tâm trong mỗi đồ thị biểu thị mức độ độc lập tiền tệ bằng 0, tỷ giá thả nổi hoàn toàn, không có dự trữ ngoại hối và tự túc tài chính.

Nguồn: Aizenman, J., M.D Chinn, and H Ito (2008), NBER Working Paper

Hình 2.1 Đồ thị kim cương ở nhóm các ớ ới ổi

1 Độc lập tiền tệ Ổn định tỷ giá hối đoái

Hội nhập tài chính Điểm ở giữa có giá trị 0

Dự trữ ngoại hối (IR/GDP)

Hình 2.1 Đồ th ị kim c ươ ng ở nhóm các n ướ c m ớ i n ổ i

Phân tích các chỉ số bộ ba bất khả thi

2.2.1 Sự thay đổi các chỉ số bộ ba bất khả thi qua các nhóm quốc gia

So sánh các chỉ số tài chính quốc tế giúp làm nổi bật sự phát triển của cấu trúc tài chính qua thời gian, được minh họa cụ thể qua các đồ thị kim cương trong phụ lục 2.

Trong suốt nhiều năm qua, các quốc gia công nghiệp hóa đã tích cực thúc đẩy tự do hóa tài chính, ổn định tỷ giá hối đoái, giảm bớt mức độ độc lập của tiền tệ và hạ thấp quỹ dự trữ ngoại hối.

Mức độ độc lập tiền tệ ở các quốc gia công nghiệp hóa giảm dần chủ yếu do sự sử dụng đồng euro Khi loại trừ các quốc gia sử dụng đồng euro khỏi khảo sát, các quốc gia công nghiệp hóa còn lại dường như vẫn giữ được sự độc lập tiền tệ.

Các quốc gia đang phát triển ngày càng hướng tới tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn, cùng với sự hội nhập tài chính sâu sắc và nỗ lực duy trì độc lập tiền tệ Đặc biệt, các quốc gia thị trường mới nổi thể hiện rõ ràng hai xu hướng này hơn so với các quốc gia đang phát triển không phải thị trường mới nổi Sau cuộc khủng hoảng châu Á 1997-1998, nhóm quốc gia mới nổi đã nhanh chóng gia tăng dự trữ ngoại tệ, trong khi các quốc gia không phải thị trường mới nổi có sự gia tăng chậm hơn Đến năm 2000, các chỉ số về hội nhập tài chính, ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ của nhóm nước đang phát triển đã có xu hướng hội tụ ở mức trung bình.

Giữa các nước đang phát triển ở các khu vực địa lý khác nhau cũng có sự khác biệt

Các nước đang phát triển ở Châu Á và Châu Mỹ Latinh đều đã chuyển sang cơ chế tỷ giá linh hoạt Tuy nhiên, các nước ở Châu Mỹ Latinh đã nhanh chóng mở cửa tài chính hơn so với các nước Châu Á, nơi hội nhập tài chính diễn ra chậm hơn Đồng thời, các nước Châu Á cũng giữ dự trữ ngoại tệ cao hơn đáng kể so với các nước Châu Mỹ Latinh.

Các quốc gia Châu Phi cận Sahara đã bắt đầu áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi và tự do hóa tài chính kể từ những năm 1980, tuy nhiên, mức độ thay đổi ở đây không rõ ràng như ở các nhóm nước khác.

Các nền kinh tế mới nổi ở châu Á đã đạt được sự cân bằng giữa ba mục tiêu chính sách, điều này nổi bật hơn so với các nhóm nước khác Điều này đặt ra câu hỏi liệu sự thành công của họ trong việc đạt được mẫu hình bộ ba bất khả thi có phải nhờ vào tỷ lệ dự trữ ngoại hối cao hay không.

2.2.2 Sự phá vỡ cấu trúc tài chính quốc tế Để làm sáng tỏ thêm về sự thay đổi giá trị của các chỉ số trong bộ ba bất khả thi theo thời gian, Aizenman, Chinn và Ito đã tiến hành kiểm tra mối quan hệ giữa các sự kiện kinh tế tài chính nổi bật với sự thay đổi trong cấu trúc bộ ba bất khả thi Các sự kiện chính được xem xét như sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods năm

Các năm 1973, 1982, 1990, 1997-1998 và 2001 được xác định là những mốc quan trọng trong lịch sử kinh tế, đánh dấu sự phá vỡ cấu trúc bộ ba bất khả thi Những sự kiện này bao gồm khủng hoảng nợ ở Mexico năm 1982, khủng hoảng châu Á năm 1997-1998 và làn sóng toàn cầu hóa năm 1990, cùng với việc Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001 Các tác giả đã tiến hành kiểm định sự bằng nhau giữa giá trị trung bình của các nhóm mẫu con trong những thời kỳ này, làm nổi bật tầm quan trọng của những biến động kinh tế toàn cầu.

Kết quả kiểm định cho thấy tất cả các năm liên quan đến các sự kiện đều gây ra sự thay đổi trong mẫu hình bộ ba bất khả thi, tuy nhiên, sự thay đổi này không đồng nhất giữa các nhóm nước khác nhau (xem chi tiết tại phụ lục 3).

Sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ, các đồng tiền của các nước công nghiệp hóa đã chuyển sang cơ chế thả nổi tự do, dẫn đến sự giảm liên tục trong chỉ số ổn định tỷ giá hối đoái của nhóm nước này Đồng thời, mức độ mở cửa tài chính chỉ tăng nhẹ, trong khi độc lập tiền tệ vẫn được duy trì ở mức trung bình.

Các quốc gia đang phát triển ngày càng trở nên phụ thuộc hơn vào chính sách tiền tệ và tài chính toàn cầu Trong khi đó, các quốc gia không phải thị trường mới nổi đạt được sự ổn định cao hơn trong tỷ giá hối đoái, nhóm các nước thị trường mới nổi lại đang chuyển hướng sang áp dụng tỷ giá hối đoái thả nổi.

Sau cuộc khủng hoảng nợ của Mexico, các quốc gia công nghiệp hóa đã tăng cường tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái và mở cửa tài chính, đồng thời duy trì độc lập tiền tệ Trong khi đó, các quốc gia đang phát triển rơi vào khủng hoảng buộc phải từ bỏ hệ thống tỷ giá hối đoái cố định để chuyển sang tỷ giá linh hoạt hơn, đồng thời tìm kiếm mức độ độc lập tiền tệ cao hơn Các quốc gia không phải thị trường mới nổi đã thắt chặt kiểm soát vốn đầu tư, trong khi các quốc gia thị trường mới nổi vẫn duy trì mức độ hội nhập tài chính sâu.

Khủng hoảng tài chính Châu Á đã tác động mạnh mẽ đến các chỉ số bộ ba bất khả thi, khiến mức độ độc lập tiền tệ của các quốc gia công nghiệp hóa giảm sút trong khi tỷ giá hối đoái ổn định hơn Nỗ lực thực hiện tự do hóa tài khoản vốn phản ánh xu hướng của các quốc gia Châu Âu hướng tới một liên minh tiền tệ và kinh tế thống nhất Ngược lại, các quốc gia đang phát triển không phải thị trường mới nổi tiếp tục theo đuổi hội nhập tài chính với tỷ giá hối đoái linh động hơn, duy trì mức độ độc lập tiền tệ tương đối Trong khi đó, các quốc gia thị trường mới nổi cũng tăng cường tự do hóa thị trường tài chính, nhưng lại đánh đổi sự độc lập tiền tệ khi áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt.

Một số sự kiện quan trọng đã góp phần vào những thay đổi đáng chú ý trong nền kinh tế toàn cầu Đầu tiên, sự gia tăng toàn cầu hóa vào đầu những năm 1990 đã khuyến khích nhiều quốc gia đang phát triển mở cửa thị trường tài chính Thứ hai, việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001 đánh dấu khởi đầu cho sự trỗi dậy của quốc gia này trở thành “công xưởng của thế giới”.

2.2.3 Tương quan tuyến tính giữa các chỉ số bộ ba bất khả thi

Tác động của sự lựa chọn chính sách bộ ba bất khả thi đến hiệu quả vĩ mô của nền

2.3.1 Ước lượng mô hình tổng quát

Mô hình hồi quy tuyến tính giữa ba chỉ số bộ ba bất khả thi chỉ cho thấy định hướng chính sách của các quốc gia mà không làm rõ động lực thay đổi chính sách Để hiểu rõ hơn về tác động của từng sự kết hợp trong chính sách bộ ba bất khả thi đến hiệu quả vĩ mô, Aizenman, Chinn và Ito đã thực hiện kiểm nghiệm thực tế Nghiên cứu này tập trung vào mối tương quan giữa bộ ba bất khả thi với biến động sản lượng, biến động lạm phát và tỷ lệ lạm phát trung hạn.

Mô hình ước lượng được thiết lập như sau: y it = α 0 + α 1 TLM it + α 2 IR it + α 3 (TLM it x IR it ) + X it β + Z t γ + D i δ + ε it, trong đó y it đo lường hiệu quả vĩ mô của quốc gia i tại thời gian t, bao gồm biến động sản lượng và lạm phát Cụ thể, y it có thể phản ánh biến động sản lượng qua tỷ lệ tăng trưởng thực trên đầu người trung bình trong 5 năm (dựa trên bảng số liệu Penn World 6.2) hoặc biến động lạm phát qua tỷ lệ lạm phát trung bình trong cùng khoảng thời gian.

TLM it là vectơ của hai trong ba yếu tố của bộ ba bất khả thi gồm MI, ERS và KAOPEN IR it đại diện cho tỷ lệ dự trữ ngoại hối (không bao gồm vàng) so với GDP Sản phẩm (TLM it x IR it ) tạo thành biến tương tác giữa bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối.

X là vectơ các biến kiểm soát kinh tế vĩ mô, bao gồm thu nhập tương đối của một quốc gia so với Mỹ, thu nhập bình quân đầu người, độ mở cửa thương mại (tính bằng (EX+IM)/GDP), các cú sốc thương mại (TOT), tỷ lệ đầu tư trung bình trên GDP, tốc độ gia tăng dân số, biến động trong tăng trưởng cung tiền M2, và lượng tín dụng cá nhân (% trên GDP) nhằm đo lường mức độ phát triển tài chính.

Z t là vectơ của những cú sốc toàn cầu: thay đổi trong lãi suất thực của Mỹ; sụt giảm sản lượng toàn cầu; những cú sốc trong giá dầu

D là tập hợp các biến giả đặc trưng cho các quốc gia nhập khẩu dầu mỏ hoặc các khu vực cụ thể Trong quá trình ước lượng, những biến giải thích không có ý nghĩa thống kê sẽ được loại bỏ.

Thành phần ε là các sai số cùng phân phối và độc lập.

Tất cả các biến được tính theo trung bình từng phân đoạn 5 năm trong giai đoạn 1972-2006, bao gồm các khoảng thời gian từ 1972-1976, 1977-1981, 1982-1986, 1987-1991, 1992-1996, 1997-2001 và 2002-2006 Kết quả kiểm định cho thấy nhóm nước đang phát triển được phân chia thành ba nhóm chính: nhóm quốc gia đang phát triển (LDC), nhóm quốc gia xuất khẩu hàng hóa (COMMOD-LDC) - tức là các nước đang phát triển có xuất khẩu nhiên liệu hoặc các mặt hàng quan trọng theo quy định của Ngân hàng Thế giới, và nhóm quốc gia thị trường mới nổi (EMG).

2.3.2 Kiểm định tác động của sự lựa chọn chính sách bộ ba bất khả thi đến biến động trong tăng trưởng sản lượng

Kết quả hồi quy (chi tiết ở phụ lục 5) cho thấy:

Trong bộ ba bất khả thi, chỉ số độc lập tiền tệ có ảnh hưởng rõ rệt đến biến động sản lượng; các quốc gia với mức độ độc lập tiền tệ cao thường trải qua ít biến động sản lượng hơn Điều này cho thấy rằng các biện pháp ổn định thông qua chính sách tiền tệ có thể giúp giảm thiểu biến động sản lượng Vì lý do này, nhiều quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những nước không phải là thị trường mới nổi, đã nỗ lực duy trì mức độ độc lập tiền tệ trong những năm gần đây.

Biến ổn định tỷ giá tại các nước COMMOD-LDC không có tác động đáng kể đến sản lượng, trong khi ở các nước EMG, tỷ giá ổn định quá mức có thể gây bất ổn cho sản lượng do làm mất đi cơ chế điều chỉnh qua biến động tỷ giá Tuy nhiên, khi kết hợp ổn định tỷ giá với tỷ lệ dự trữ ngoại hối lớn (khoảng 21-24%/GDP), có thể giảm biến động sản lượng Điều này lý giải cho xu hướng gia tăng dự trữ ngoại hối gần đây ở các nước đang phát triển.

Cuối cùng, việc các nước COMMOD-LDC mở cửa tài chính có thể giúp giảm biến động, nhưng khi kết hợp với dự trữ ngoại hối chiếm hơn 27% GDP, tình trạng biến động sẽ gia tăng.

2.3.3 Kiểm định tác động của sự lựa chọn chính sách bộ ba bất khả thi đến biến động trong tỷ lệ lạm phát

Kết quả kiểm định cho thấy độc lập tiền tệ giúp giảm biến động lạm phát ở các quốc gia xuất khẩu hàng hóa, trong khi sự ổn định tỷ giá không có tác động đáng kể Đối với nhóm các nước đang phát triển (EMG), lạm phát có xu hướng biến động mạnh hơn khi mở cửa tự do giao dịch tài khoản vốn, dẫn đến nguy cơ gây ra hỗn loạn tài chính Tuy nhiên, khi đưa biến giả khủng hoảng vào mô hình, ý nghĩa thống kê của việc mở cửa tài chính giảm đáng kể.

2.3.4 Kiểm định tác động của sự lựa chọn chính sách bộ ba bất khả thi đến tỷ lệ lạm phát trung hạn

Các nghiên cứu cho thấy rằng các quốc gia có mức độc lập tiền tệ cao thường phải đối mặt với tỷ lệ lạm phát cao hơn Aizenman, Chinn và Ito giải thích rằng việc in tiền để tài trợ cho nợ công có thể dẫn đến lạm phát gia tăng Ngược lại, các quốc gia có sự ổn định tỷ giá cao thường có tỷ lệ lạm phát thấp và được tín nhiệm hơn Tuy nhiên, sự kết hợp giữa ổn định tỷ giá (ERS) và tỷ lệ lãi suất (IR) với tỷ lệ IR/GDP từ 53%-65% có thể làm tăng lạm phát Điều này cho thấy rằng việc duy trì dự trữ ngoại hối cao để ngăn chặn can thiệp ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá có thể dẫn đến lạm phát gia tăng.

Hội nhập tài chính có tác động ngược đến lạm phát, nghĩa là khi mức độ hội nhập tài chính tăng cao, tỷ lệ lạm phát sẽ giảm.

Dự trữ ngoại hối và mẫu hình trung gian của bộ ba bất khả thi ở các quốc gia thị trường mới nổi

gia thị trường mới nổi

Nhóm tác giả Aizenman, Chinn và Ito đã nghiên cứu vai trò của dự trữ ngoại hối trong việc hình thành mẫu hình trung gian ở các quốc gia đang phát triển Qua phân tích kinh tế lượng, họ chỉ ra sự khác biệt trong mẫu hình bộ ba bất khả thi và tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP giữa các nhóm quốc gia, với sự khác biệt này ngày càng gia tăng theo thời gian Kết quả cho thấy rằng việc gia tăng dự trữ ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến việc lựa chọn mẫu hình bộ ba bất khả thi trung gian tại các quốc gia thị trường mới nổi.

Hình 2.2: D ự tr ữ ngo ạ i h ố i/GDP, giai đ o ạ n 1980-2006 (Đvt: %)

Các nước đang phát triển Các nước CNH Châu Á trừ TQ T Q

Nguồn: Aizenman, J., M.D Chinn, and H Ito (2008), NBER Working Paper

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các quốc gia phải mở cửa tài chính để phát triển Theo lý thuyết bộ ba bất khả thi, họ chỉ có thể lựa chọn giữa độc lập tiền tệ hoặc ổn định tỷ giá Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn một lựa chọn khác: chế độ trung gian Chế độ này cho phép quốc gia áp dụng tỷ giá linh hoạt (tỷ giá thả nổi có quản lý), kết hợp với tự chủ tương đối về tiền tệ và tự do hóa tài chính, đồng thời kiểm soát dòng vốn.

Aizenman và Glick (2008) đã chỉ ra rằng các quốc gia mới nổi có xu hướng hội tụ về mô hình trung gian của bộ ba bất khả thi Hình 2.3 minh họa xu hướng này ở các quốc gia thị trường mới nổi trong các thập kỷ 80, 90 và 2000.

Cuối thập niên 90 và đầu thập niên 2000, nhiều quốc gia đã trải qua hàng loạt cuộc khủng hoảng tài chính gắn liền với chế độ neo tỷ giá, như khủng hoảng Mexico 1994, Thái Lan, Indonesia và Hàn Quốc 1997, Nga và Brazil 1998, cùng với Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ 1998 Ngược lại, các quốc gia không áp dụng chế độ neo tỷ giá như Israel và Nam Phi vào năm 1998 lại tránh được khủng hoảng Nguyên nhân chính của những cuộc khủng hoảng này là do sự không tuân thủ hoặc áp dụng cứng nhắc nguyên lý của bộ ba bất khả thi Các ví dụ điển hình như Hàn Quốc, Mexico và Argentina cho thấy rằng vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90, các quốc gia này đã tăng cường tự do hóa và mở cửa tài chính trong khi vẫn duy trì độc lập tiền tệ và chế độ neo tỷ giá cố định Tuy nhiên, theo lý thuyết Mundell – Fleming, lựa chọn này là bất khả thi, dẫn đến việc Mexico và Đông Á lần lượt lâm vào khủng hoảng vào năm 1994 – 1995 và 1997 – 1998 Những cuộc khủng hoảng này đã chứng minh sự đánh đổi của bộ ba bất khả thi: quốc gia muốn mở cửa tài chính phải từ bỏ ổn định tỷ giá để duy trì độc lập tiền tệ.

Vào đầu những năm 1990, Argentina đã cố gắng thiết lập chế độ neo tỷ giá cố định và từ bỏ độc lập tiền tệ thông qua hệ thống “chuẩn tiền tệ”, đồng thời hội nhập tài chính hoàn toàn Tuy nhiên, vào năm 2000, quốc gia này đã phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng khi không còn khả năng duy trì sự mất độc lập tiền tệ.

Hình 2.3 minh họa sự hội tụ của Argentina, Hàn Quốc, Mexico và các quốc gia khác trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính những năm 1990, cho thấy mô hình bộ ba bất khả thi trung gian của các nước thị trường mới nổi.

Sau các cuộc khủng hoảng, các quốc gia thị trường mới nổi đã chuyển hướng sang mô hình trung gian của bộ ba bất khả thi, bao gồm tỷ giá linh hoạt có quản lý, duy trì một mức độ độc lập tiền tệ và tăng cường hội nhập tài chính Điều này dẫn đến áp lực nâng giá đồng tiền và yêu cầu các biện pháp giải quyết hiệu quả.

Argentina Liên minh tiền tệ hay Chuẩn tiền tệ

Tỷ giá thả nổi Độc lập tiền tệ Ổn định tỷ giá Đóng cửa thị trường tài chính và neo chặt tỷ giá

Thả nổi có quản lý là chiến lược gia tăng dự trữ ngoại hối, đi kèm với chính sách can thiệp nhằm vô hiệu hóa tác động của thị trường Trung Quốc đã thực hiện chính sách này từ năm 2005, tăng cường nắm giữ dự trữ ngoại hối để ổn định nền kinh tế.

Các quốc gia công nghiệp hóa hiện nay không theo đuổi mô hình trung gian của bộ ba bất khả thi, mà thay vào đó tập trung vào mục tiêu gia tăng hội nhập tài chính và ổn định tỷ giá, đồng thời từ bỏ độc lập tiền tệ Điều này dẫn đến việc họ không cần tăng dự trữ ngoại hối, khiến tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP giảm nhẹ gần đây Một số quốc gia đã chú trọng vào việc xây dựng mục tiêu trung gian trong chính sách tiền tệ, với mục tiêu chính là đạt được ổn định giá cả dài hạn thông qua lạm phát mục tiêu Mô hình này lần đầu tiên được áp dụng tại New Zealand vào năm 1990.

(1993), Thụy Điển (1993), Úc (1993), Tây Ban Nha (1994),… Các nước đang phát triển sau đó cũng bước theo con đường này như Chile, Brazil và Israel

M ẫ u hình b ộ ba b ấ t kh ả thi trung gian có ph ả i là s ự l ự a ch ọ n h ợ p lý cho các qu ố c gia đ ang phát tri ể n?

Trong bối cảnh hội nhập tài chính, tỷ giá là nhân tố đầu tiên chịu ảnh hưởng từ sự chuyển động của dòng vốn, đóng vai trò quan trọng trong bộ ba bất khả thi.

Sự gia tăng dòng vốn vào có thể tạo ra áp lực tăng giá đồng nội tệ, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển Nếu tỷ giá hoàn toàn thả nổi, việc nâng giá đồng nội tệ có thể hạn chế dòng vốn chênh lệch lãi suất, nhưng nếu đồng nội tệ đã bị định giá cao, điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu và dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai, thậm chí gây ra khủng hoảng kinh tế Do đó, việc thả nổi tỷ giá không phải là giải pháp phù hợp cho các quốc gia đang phát triển Để duy trì tỷ giá ổn định, các quốc gia thường sử dụng dự trữ ngoại hối để mua lại tài sản ngoại, qua đó kiểm soát cung cầu giữa nội và ngoại tệ Tuy nhiên, chính sách này có thể làm tăng cung tiền nội địa và tạo áp lực lạm phát Theo mô hình Mundell-Fleming, tỷ giá cố định có thể làm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ và tài khóa, và việc can thiệp qua thị trường mở cũng gặp nhiều hạn chế.

- Thị trường tài chính nội địa có thể không đủ lớn để hấp thu lượng tiền cung ứng tăng lên

Làm phát sinh chi phí tài khóa liên quan đến chênh lệch giữa lãi suất chi trả cho trái phiếu nội địa và lãi suất nhận được từ các tài sản nước ngoài trong kho dự trữ.

Việc áp dụng biện pháp vô hiệu hóa nhằm giảm lượng cung tiền đã dẫn đến lãi suất nội địa duy trì ở mức cao, thu hút dòng tiền ngoại đổ vào để tận dụng cơ hội chênh lệch lãi suất.

Trong quá trình tự do hóa tài chính, độc lập tiền tệ của các quốc gia đang phát triển bị ảnh hưởng bởi dòng vốn vào và cần có biện pháp kiểm soát vốn phù hợp Để bảo vệ cán cân vãng lai và giảm rủi ro cho nền kinh tế, tỷ giá cần được giữ ổn định, tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải có kho dự trữ ngoại hối lớn Khi dòng vốn vào mạnh nhưng dự trữ ngoại hối hạn chế, các quốc gia buộc phải giảm lãi suất để hạn chế dòng vốn, nhưng điều này không phù hợp nếu nền kinh tế đang tăng trưởng nóng và rủi ro lạm phát cao Do đó, việc gia tăng dự trữ ngoại hối là hành động cần thiết để duy trì độc lập tiền tệ ở mức độ nhất định.

Mẫu hình bộ ba bất khả thi trung gian, kết hợp hội nhập tài chính với kiểm soát vốn, duy trì ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ ở mức trung bình, là lựa chọn tối ưu cho các nước đang phát triển.

ĐIỀU HÀNH BỘ BA BẤT KHẢ THI Ở VIỆT NAM

Thực trạng các chính sách tài chính vĩ mô ở Việt Nam

Những ảnh hưởng lan truyền tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á

Năm 1997 đã gây ra hệ quả nghiêm trọng cho nền kinh tế, dẫn đến một giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng và tình trạng giảm phát kéo dài từ năm 1999 đến 2001.

Hình 3.1: T ố c độ t ă ng tr ưở ng GDP và t ỷ l ệ l ạ m phát c ủ a Vi ệ t Nam giai đ o ạ n 1990 – 2010 Đvt: %

T ăng trưởng GDP Lạm phát

Kể từ năm 2000, một kế hoạch kích thích kinh tế thông qua nới lỏng tín dụng và mở rộng đầu tư nhà nước đã được triển khai nhằm phục hồi đà tăng trưởng Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách mở rộng cung tiền đã diễn ra quá mức, dẫn đến việc duy trì chính sách kích thích liên tục trong những năm sau đó Hệ quả là chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tổng sản phẩm quốc gia ngày càng gia tăng, tạo ra những yếu tố tiềm ẩn gây ra lạm phát cao, bắt đầu xuất hiện từ giữa năm 2007.

So với Trung Quốc và Thái Lan, sự chênh lệch giữa tăng cung tiền và tăng trưởng GDP của Việt Nam ngày càng gia tăng.

Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 11/2006 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế, dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ trong giao lưu thương mại và đầu tư quốc tế, đồng thời thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài đáng kể.

Sự gia tăng cung tiền có thể ít ảnh hưởng đến lạm phát nếu chính sách vô hiệu hóa được thực hiện hiệu quả Tuy nhiên, khác với Trung Quốc và Ấn Độ, chính sách này tại Việt Nam không đạt hiệu quả, dẫn đến lạm phát tiếp tục gia tăng.

Hình 3.2 so sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và GDP của ba nước, với mốc năm 2000 được lấy làm 100% Cung tiền được đo bằng M2, bao gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng ngắn hạn.

Nguồn: http://www.imf.org/external/country/vnm/rr/index.htm

Năm 2007, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã mua vào 9 tỷ USD, cung ứng thêm 140.000 tỷ đồng cho nền kinh tế nhằm nâng giá trị đồng USD, khuyến khích xuất khẩu và phát triển sản xuất trong nước Mặc dù biện pháp này giúp điều chỉnh giảm thâm hụt cán cân thương mại và tăng dự trữ ngoại hối quốc gia, nhưng cũng đã làm gia tăng lạm phát Dù NHNN đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để thu hồi hơn 82.000 tỷ đồng, áp lực lạm phát vẫn không giảm do lượng tiền lớn đã được bơm vào nền kinh tế.

Năm 2008, để kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã áp dụng các biện pháp chính sách tiền tệ như tăng lãi suất cơ bản lên 14%/năm, nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 11%, và hạn chế cho vay đầu tư bất động sản và chứng khoán không quá 20% vốn điều lệ hoặc 3% tổng dư nợ tín dụng Đồng thời, các tổ chức tín dụng được yêu cầu mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu có kỳ hạn 12 tháng với lãi suất 7,58%/năm và không được tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước Những biện pháp thắt chặt tiền tệ đột ngột đã dẫn đến tình trạng thiếu thanh khoản tiền đồng tại một số ngân hàng thương mại và gây ra cuộc chạy đua lãi suất, đẩy lãi suất thị trường lên mức cao kỷ lục.

Hình 3.3: Lãi su ấ t cho vay và huy độ ng VND bình quân theo n ă m t ạ i Vi ệ t Nam giai đ o ạ n 2000 – 2010 Đvt: %

Lãi suất cho vay Lãi suất huy động

Nguồn: http://data.worldbank.org/indicator

Việc thắt chặt tiền tệ của Chính phủ vào năm 2008 đã giúp giảm lạm phát nhanh chóng nhưng cũng làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế do lãi suất tăng, ảnh hưởng đến đầu tư và tiêu dùng Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã dẫn đến suy thoái ở nhiều quốc gia, làm giảm nhu cầu nhập khẩu và dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, gây khó khăn cho xuất khẩu và làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế trong nước Cuối năm 2008, khi lạm phát có xu hướng giảm, Ngân hàng Nhà nước đã chuyển hướng sang mục tiêu tăng trưởng kinh tế, trong đó kích cầu nền kinh tế được xem là giải pháp trọng tâm Chính phủ đã đầu tư 9 tỷ USD cho gói kích cầu kinh tế, đứng thứ ba thế giới về tỷ trọng gói kích cầu so với tổng GDP, chỉ sau Trung Quốc và Malaysia.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ sử dụng 3 tỷ USD từ dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ giảm lãi suất vay vốn ngắn hạn và trung dài hạn cho doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân, nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, giảm giá thành hàng hóa và tạo ra việc làm Đồng thời, NHNN cũng sẽ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng thông qua các biện pháp cụ thể.

Ngân hàng đã điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo, với lãi suất cơ bản giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2004, chỉ còn 7%/năm Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn đã giảm từ 14%/năm xuống 7%/năm, trong khi lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống 5%/năm.

Ngân hàng Nhà nước đã quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống còn 3%, đồng thời điều hành linh hoạt các nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại Bên cạnh đó, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cũng được điều chỉnh giảm từ 10%/năm xuống chỉ còn 1,2%/năm.

Các TCTD được phép chiết khấu, tái chiết khấu và thanh toán trước hạn 20.300 tỷ tín phiếu bắt buộc đã mua Đồng thời, thực hiện các phiên giao dịch thị trường mở để mua vào giấy tờ có giá, nhằm cung ứng thêm vốn cho nền kinh tế thông qua các tổ chức tín dụng.

Chính sách tiền tệ mở rộng đã dẫn đến lạm phát tăng cao, đạt mức 11,8% vào cuối năm 2010, và chỉ số giá tiêu dùng tiếp tục tăng vào đầu năm 2011 Để kiểm soát lạm phát, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, giới hạn mức tăng trưởng tín dụng của các tổ chức tín dụng dưới 20% và kiểm soát tăng trưởng cung tiền (M2) trong năm ở mức 15-16%.

B ả ng 3.1: Di ễ n bi ế n lãi su ấ t c ơ b ả n VND t ừ tháng 3/2004 đế n nay

Thời gian Mức lãi suất cơ bản

Nguồn: http://www.sbv.gov.vn/wps/portal

Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong thời gian qua đã thể hiện sự độc lập, mặc dù có những giai đoạn chính sách này tập trung vào các mục tiêu như tăng trưởng kinh tế hoặc giảm thâm hụt thương mại thông qua điều chỉnh tỷ giá hối đoái Tuy nhiên, lạm phát vẫn luôn là mục tiêu chính mà chính sách tiền tệ hướng tới.

3.1.2 Chính sách tỷ giá hối đoái

Tổng quan về các chỉ số bộ ba bất khả thi ở Việt Nam thời gian qua

3.2.1 Tình hình các chỉ số bộ ba bất khả thi ở Việt Nam

Aizenman, Chinn và Ito đã tiến hành nghiên cứu và tính toán các chỉ số bộ ba bất khả thi MI, ERS và KAOPEN cho 180 quốc gia, bao gồm cả Việt Nam Cơ sở dữ liệu này cung cấp cái nhìn tổng quát về cách thức quản lý bộ ba bất khả thi ở từng quốc gia Từ dữ liệu này, tác giả đã tổng hợp và phân tích các chỉ số bộ ba bất khả thi tại Việt Nam, đồng thời kiểm tra mối quan hệ tuyến tính giữa các yếu tố này và tác động của chúng đến nền kinh tế Việt Nam.

B ả ng 3.4: T ổ ng h ợ p ch ỉ s ố b ộ ba b ấ t kh ả thi ở Vi ệ t Nam qua các th ờ i k ỳ t ừ

2010 Ổn định tỷ giá (ERS) EMG AD 0.66 0.53 0.55 0.56

0.19 0.04 -0.16 -0.20 Độc lập tiền tệ (MI) EMG AD 0.26 0.40 0.45 0.36

Nguồn: tác giả tổng hợp từ số liệu Trilemma Indexes do tác giả Hiro Ito cung cấp

(http://web.pdx.edu/~ito/)

Các chỉ số độ ổn định tỷ giá (ERS), độc lập tiền tệ (MI) và độ mở tài chính (KAOPEN) tại Việt Nam mang những đặc điểm riêng, nhưng vẫn tuân thủ nguyên lý đánh đổi của bộ ba bất khả thi Thông tin chi tiết về các chỉ số này qua từng năm được trình bày trong phụ lục 9, so sánh với các nước thị trường mới nổi ở châu Á.

Chỉ số ERS tại Việt Nam cho thấy mức độ ổn định của tỷ giá đang có xu hướng gia tăng theo thời gian Trong giai đoạn từ 1970 đến 1990, chỉ số này chỉ đạt mức trung bình.

Trong giai đoạn 1991 – 2000, tỷ giá hối đoái thực tế hiệu chỉnh (ERS) của Việt Nam đã tăng đáng kể, vượt qua mức trung bình của các nước đang phát triển (EMG) châu Á Sự gia tăng này phản ánh những đợt phá giá trong bối cảnh chính sách ba tỷ giá chính thức Đặc biệt, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 – 1998, mức độ ổn định tỷ giá của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, theo xu hướng chung của khu vực.

Việt Nam đã thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ, tuy nhiên, mỗi lần phá giá đều đi kèm với biên độ dao động cho phép rất nhỏ, khiến tỷ giá USD/VND trở nên gần như cố định Lịch sử cho thấy, ban đầu Việt Nam nằm dưới mức trung bình khu vực, nhưng khoảng cách này đã thu hẹp và sau đó vượt lên trên mức trung bình Tuy nhiên, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, mức độ ổn định tỷ giá của Việt Nam đã giảm xuống dưới mức trung bình khu vực và đến năm 2010, có xu hướng hội tụ về mức trung bình này.

Hình 3.15: So sánh ch ỉ s ố ERS gi ữ a Vi ệ t Nam v ớ i nhóm các n ướ c EMG châu Á

Việt Nam Các nước EMG châu Á

Nguồn: tác giả tổng hợp từ số liệu Trilemma Indexes do tác giả Hiro Ito cung cấp (http://web.pdx.edu/~ito/)

Chỉ số KAOPEN, tương tự như ERS, phản ánh mức độ mở cửa tài khoản vốn và cho thấy xu hướng gia tăng theo thời gian, ngoại trừ một số giai đoạn nhất định.

Từ năm 1981 đến 1990, Việt Nam thực hiện chính sách đóng cửa, dẫn đến chỉ số độ mở cửa tài chính giảm Tuy nhiên, sau khi mở cửa hội nhập, chỉ số này đã tăng trở lại, phản ánh sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu Mặc dù độ mở cửa tài chính của Việt Nam vẫn thấp hơn mức trung bình của khu vực, nhưng xu hướng gia tăng chỉ số này đã thu hẹp khoảng cách từ 0.5 (1981 – 1990) xuống còn 0.31 (2001 – 2010) Dự báo trong tương lai, khoảng cách này sẽ tiếp tục được rút ngắn do hội nhập trở thành xu hướng tất yếu.

Hình 3.16: So sánh ch ỉ s ố KAOPEN gi ữ a Vi ệ t Nam và nhóm các n ướ c EMG châu Á

Việt Nam Các nước EMG châu Á

Nguồn: tác giả tổng hợp từ số liệu Trilemma Indexes do tác giả Hiro Ito cung cấp (http://web.pdx.edu/~ito/)

Theo lý thuyết bộ ba bất khả thi, khi hai chỉ số gia tăng thì chỉ số còn lại phải giảm để thể hiện sự đánh đổi Tại Việt Nam, chỉ số độc lập tiền tệ (MI) đã minh chứng cho điều này qua dữ liệu từ 1996 đến 2010 Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính châu Á 1997 – 1998, khi mức độ ổn định tỷ giá giảm và hội nhập tài chính không thay đổi, chỉ số MI lại tăng Tương tự, trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, khi chỉ số ERS giảm và mức độ hội nhập tài chính tăng, chỉ số MI cũng tăng Tuy nhiên, từ năm 2010, mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam đã giảm và tiến về mức trung bình của khu vực.

Hình 3.17: So sánh ch ỉ s ố MI gi ữ a Vi ệ t Nam và các n ướ c nhóm EMG châu Á

Việt Nam Các nước nhóm EMG châu Á

Nguồn: tác giả tổng hợp từ số liệu Trilemma Indexes do tác giả Hiro Ito cung cấp (http://web.pdx.edu/~ito/)

3.2.2 Quan hệ tuyến tính của các chỉ số trong bộ ba bất khả thi ở Việt Nam

Mối quan hệ tuyến tính giữa các chỉ số trong bộ ba bất khả thi và sự đánh đổi giữa chúng sẽ được kiểm định tại Việt Nam thông qua tính phù hợp của mô hình.

Bộ ba bất khả thi ở Việt Nam bao gồm các chỉ số ERS, MI và KAOPEN, trong đó a, b, c là các hệ số cần được ước lượng để phân tích hiệu quả kinh tế.

Nếu mô hình (1) phù hợp, chúng ta có thể kết luận rằng có mối quan hệ tuyến tính giữa ba chỉ số và tổng trọng số của chúng là một hằng số, cụ thể là 1 Kết luận này cho thấy việc tăng 1 (hoặc 2) chỉ số trong bộ ba sẽ dẫn đến sự giảm của 2 (hoặc 1) chỉ số còn lại Kết quả kiểm định được trình bày trong bảng dưới đây.

B ả ng 3.5: K ế t qu ả h ồ i quy quan h ệ tuy ế n tính gi ữ a các ch ỉ s ố trong b ộ ba b ấ t kh ả thi

Biến Hệ số ước lượng Sai số chuẩn Thống kê t Mức ý nghĩa quan sát

Kỳ quan sát: từ 1996 đến 2009, mẫu gồm 14 quan sát

Nguồn: tác giả tính toán và tổng hợp

Các hệ số hồi quy ước lượng được có ý nghĩa khác 0, với giá trị p cho thấy sự phù hợp của chúng Ở mức ý nghĩa thống kê 5%, hệ số hồi quy của biến ERS và KAOPEN cho thấy mức độ phù hợp khá tốt trong mô hình.

MI có mức độ phù hợp thấp hơn hệ số hồi quy của hai biến ERS và KAOPEN, với mức ý nghĩa α>15% (độ tin cậy nhỏ hơn 85%)

Hệ số xác định R² đạt giá trị 0.5 và R² hiệu chỉnh là 0.4, cho thấy mô hình có sự phù hợp tương đối cao với dữ liệu thống kê đã xác nhận.

Như vậy, mô hình hồi quy các chỉ số bộ ba bất khả thi ở Việt Nam trong giai đoạn 1996 - 2009 có thể ước lượng như sau:

Dựa trên mô hình hồi quy, chúng ta có thể tính tổng có trọng số của ba chỉ số bộ ba bất khả thi, với giá trị của biểu thức a.ERS + b.MI + c.KAOPEN cho Việt Nam theo từng năm Tổng của ba chỉ số này cho thấy xu hướng hội tụ và dao động quanh giá trị 1, như thể hiện trong hình 3.16.

Hình 3.16: T ổ ng có tr ọ ng s ố c ủ a 3 ch ỉ s ố b ộ ba b ấ t kh ả thi theo mô hình ướ c l ượ ng c ủ a Vi ệ t Nam

Nguồn: tác giả tính toán và tổng hợp

Kết quả hồi quy cho thấy Việt Nam có bằng chứng thực nghiệm chứng minh sự đánh đổi giữa các chỉ số trong bộ ba bất khả thi, như đã nêu trong lý thuyết.

Dự trữ ngoại hối liệu có thể gây ảnh hưởng lên bộ ba bất khả thi ở Việt Nam?

B ả ng 3.6: T ổ ng h ợ p các ch ỉ s ố b ộ ba b ấ t kh ả thi và d ự tr ữ ngo ạ i h ố i ở Vi ệ t Nam qua các giai đ o ạ n

Giai đoạn MI ERS KAOPEN IR/GDP

Việt Nam đang ngày càng tăng cường hội nhập tài chính, duy trì sự ổn định tỷ giá và giảm mức độ độc lập tiền tệ, đồng thời gia tăng dự trữ ngoại hối Tuy nhiên, mức dự trữ ngoại hối hiện tại vẫn còn ở mức thấp.

Hình 3.17: Đồ th ị kim c ươ ng c ủ a Vi ệ t Nam giai đ o ạ n 2000 – 2010

Nguồn: tác giả tổng hợp từ số liệu Trilemma Indexes do tác giả Hiro Ito cung cấp (http://web.pdx.edu/~ito/)

Dự trữ ngoại hối đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết bộ ba bất khả thi, cho phép các quốc gia như Trung Quốc duy trì độc lập tiền tệ trong khi vẫn hội nhập tài chính Với lượng dự trữ ngoại hối lớn, Trung Quốc có thể ổn định tỷ giá mà không gặp nhiều biến động Bài viết này sẽ phân tích tình hình dự trữ ngoại hối của Việt Nam so với Trung Quốc, nhằm đánh giá khả năng của Việt Nam trong việc sử dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp vào bộ ba bất khả thi.

Bảng 3.7 chỉ ra rằng dự trữ ngoại hối của Việt Nam và Trung Quốc đã tăng trưởng ổn định theo thời gian, với xu hướng tăng nhanh trong các giai đoạn khủng hoảng kinh tế, như khủng hoảng tiền tệ châu Á 1997 – 1998 Ngoài ra, việc Trung Quốc gia độc lập tiền tệ và ổn định tỷ giá cũng góp phần vào sự gia tăng này, phản ánh độ mở tài chính của hai quốc gia.

Từ năm 2006 đến 2010, khi Việt Nam gia nhập WTO, dự trữ ngoại hối của nước này vẫn thấp hơn Trung Quốc rất nhiều Mặc dù Trung Quốc đã trải qua giai đoạn giảm dự trữ vào thập niên 80, nhưng đó chỉ là khởi đầu cho quá trình đổi mới của họ So sánh tỷ lệ dự trữ ngoại hối giữa hai quốc gia cho thấy khoảng cách không những không giảm mà còn gia tăng nhanh chóng; cụ thể, trong nửa đầu thập niên 90, dự trữ ngoại hối của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc 2.39%, nhưng sau 15 năm, khoảng cách này đã lên tới 12.21% Nếu xét theo giá trị tuyệt đối, sự chênh lệch này càng trở nên rõ rệt.

B ả ng 3.7: D ự tr ữ ngo ạ i h ố i Vi ệ t Nam và Trung Qu ố c qua các th ờ i k ỳ

Theo dữ liệu từ IMF, tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP của Việt Nam được ghi nhận từ năm 1991, trong khi Trung Quốc bắt đầu từ năm 1976.

Dự trữ ngoại hối tại Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng, nhưng nổi bật là sự khác biệt về quy mô Trung Quốc đã sử dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp hiệu quả vào bộ ba bất khả thi, trong khi Việt Nam vẫn còn những thách thức riêng.

Nam có vẻ chưa sẵn sàng cho điều này, và nguyên nhân có lẽ là do sự khác biệt quan trọng đã nêu ở trên.

Kiểm định tác động của các yếu tố của bộ ba bất khả thi đến nền kinh tế tại Việt

Việt Nam thời gian qua

Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai mục tiêu quan trọng mà chính phủ thường phải lựa chọn Sau khủng hoảng kinh tế 2008, các nền kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều thách thức như nợ công gia tăng ở châu Âu, bong bóng tài sản tại Trung Quốc và tình hình lạm phát nghiêm trọng ở nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam Để tìm ra chính sách phù hợp trong bộ ba bất khả thi, chúng ta cần xem xét tác động của các yếu tố này đến nền kinh tế thông qua biến lạm phát và biến động sản lượng.

3.4.1 Xem xét tác động của các nhân tố đến lạm phát

Chúng tôi phân tích ảnh hưởng của các yếu tố trong bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối đến lạm phát thông qua việc ước lượng mô hình.

INFL = α1.ERS + β1.MI + γ1.KAOPEN + δ1.IR Trong đó: INFL là lạm phát;

ERS, MI, KAOPEN chính là các chỉ số của bộ ba bất khả thi;

IR là dự trữ ngoại hối; α1, β1, γ1, δ1 là các hệ số mà chúng ta cần ước lượng

Dữ liệu từ giai đoạn 1995 - 2009 cho thấy độc lập tiền tệ không có ảnh hưởng thống kê đến lạm phát, với giá trị xác suất p cao dẫn đến độ tin cậy thấp của hệ số hồi quy Ngược lại, sự ổn định tỷ giá tác động tích cực đến việc duy trì tỷ lệ lạm phát thấp và nâng cao tín nhiệm quốc gia Các yếu tố mở cửa tài chính và dự trữ ngoại hối có tác động cùng chiều lên lạm phát, cho thấy việc tích lũy ngoại hối để ổn định tỷ giá có thể dẫn đến lạm phát gia tăng Hơn nữa, mức độ hội nhập tài chính sâu hơn có thể làm tăng tỷ lệ lạm phát, có khả năng liên quan đến việc nhập khẩu lạm phát từ nước ngoài.

R 2 có hiệu chỉnh là 0.46 thể hiện sự phù hợp của mô hình ở mức chấp nhận được

B ả ng 3.8: K ế t qu ả h ồ i quy tác độ ng các nhân t ố b ộ ba b ấ t kh ả thi đế n l ạ m phát

Biến Hệ số ước lượng Sai số chuẩn Thống kê t Mức ý nghĩa quan sát

Kỳ quan sát: từ 1996 đến 2009, mẫu gồm 14 quan sát

Nguồn: tác giả tính toán và tổng hợp

3.4.2 Xem xét tác động của các nhân tố đến sản lượng

Chúng ta phân tích ảnh hưởng của các yếu tố trong bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối đối với sự biến động của sản lượng thông qua việc ước lượng mô hình.

OUTPUTVOL là biến động sản lượng, được xác định bằng tỷ lệ tăng trưởng của GDP bình quân đầu người, và được tính theo công thức: OUTPUTVOL = C + α2.ERS + β2.MI + γ2.KAOPEN + δ2.IR.

ERS, MI, KAOPEN chính là các chỉ số của bộ ba bất khả thi;

IR là dự trữ ngoại hối; α 2, β2, γ2, δ2 là các hệ số mà chúng ta cần ước lượng

Tập hợp dữ liệu sẽ được tính toán theo thời kỳ 1995 - 2009 Kết quả hồi quy được báo cáo trong bảng 3.9 như sau:

B ả ng 3.9: K ế t qu ả h ồ i quy tác độ ng các nhân t ố b ộ ba b ấ t kh ả thi đế n bi ế n độ ng s ả n l ượ ng

Biến Hệ số ước lượng Sai số chuẩn Thống kê t Mức ý nghĩa quan sát

R 2 có hiệu chỉnh : 0.83880 Thống kê F : 17.91132 Xác suất thống kê F : 0.00026

Kỳ quan sát: từ 1996 đến 2009, mẫu gồm 14 quan sát

Nguồn: tác giả tính toán và tổng hợp

Bảng kết quả hồi quy cho thấy rằng độc lập tiền tệ, mở cửa tài chính và dự trữ ngoại hối đều có ảnh hưởng đáng kể đến biến động sản lượng Cụ thể, độc lập tiền tệ có tác động ngược chiều, tức là khi Việt Nam có mức độc lập tiền tệ cao, biến động sản lượng sẽ thấp hơn Kết quả này nhất quán với nghiên cứu của Aizenman, Chinn và Ito về các nước đang phát triển Ngược lại, hội nhập tài chính lại tác động cùng chiều đến biến động sản lượng, có thể do sự lan tỏa ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng toàn cầu Thêm vào đó, biến động sản lượng gia tăng khi dự trữ ngoại hối tăng lên, điều này khác với kết quả ở các nước đang phát triển khác.

Tóm tắt kết quả phân tích và kiểm định các yếu tố bộ ba bất khả thi ở Việt Nam

Sự phá vỡ cấu trúc bộ ba bất khả thi ở Việt Nam xuất hiện sau các một số sự kiện kinh tế tài chính nổi bật

Sau sự kiện khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, Việt Nam đã điều chỉnh chính sách kinh tế bằng cách giảm mức độ ổn định tỷ giá và gia tăng độc lập tiền tệ, đồng thời tiếp tục hội nhập tài chính Điều này đã dẫn đến sự gia tăng liên tục của mức dự trữ ngoại hối trong những năm tiếp theo.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Việt Nam đã gia tăng mức độ hội nhập tài chính, nâng cao tính độc lập của tiền tệ và áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt hơn.

Các chỉ số bộ ba bất khả thi hiện nay đang có xu hướng hội tụ về mức trung bình của khu vực, cho thấy sự đồng nhất trong mẫu hình trung gian của bộ ba bất khả thi.

Bộ ba bất khả thi ở Việt Nam thể hiện mối tương quan tuyến tính, được chứng minh qua sự đánh đổi giữa các chỉ số Mô hình hồi quy ước lượng cho thấy: 1 = 0.52678*ERS + 0.54259*MI + 1.35534*KAOPEN.

Kết quả kiểm định tác động của các yếu tố bộ ba bất khả thi đến nền kinh tế Việt Nam cho thấy:

Yếu tố Tác động đến lạm phát

Tác động đến biến động sản lượng

So sánh với các nước EMG Độc lập tiền tệ Không có ý nghĩa thống kê

Giảm Giống Ổn định tỷ giá Giảm Không có ý nghĩa thống kê

Hội nhập tài chính Tăng Tăng Khác

Dự trữ ngoại hối Tăng Tăng Khác Những kết quả kiểm định này có giá trị đóng góp cho những gợi ý chính sách ở chương 4

Chương 3 trình bày các phân tích về thực trạng điều hành bộ ba bất khả thi ở Việt Nam thời gian qua

Trong những năm gần đây, Việt Nam đang dần tiếp cận mô hình trung gian của bộ ba bất khả thi, với các chỉ số hội tụ về mức trung bình Cùng với xu thế hội nhập tài chính toàn cầu, Việt Nam mở cửa tài chính ngày càng nhiều, nhưng vẫn duy trì các biện pháp kiểm soát vốn cần thiết Chính sách tỷ giá được áp dụng linh hoạt có quản lý, trong khi chính sách tiền tệ giảm mức độ độc lập xuống mức trung bình.

Việc điều hành bộ ba bất khả thi đã đạt được những bước tiến đúng đắn, như chính sách kiểm soát vốn nhằm khuyến khích dòng vốn dài hạn ổn định và quản lý chặt chẽ dòng vốn ngắn hạn, vốn có tính bất ổn và dễ đảo chiều Đồng thời, chính sách tỷ giá cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định kinh tế.

“con rắn trong đường hầm” vừa gia tăng mức độ linh hoạt vừa đảm bảo ổn định cho tỷ giá

Việc điều hành bộ ba bất khả thi vẫn gặp phải một số hạn chế cần được khắc phục và hoàn thiện trong các chính sách tài chính vĩ mô.

Dựa trên việc thu thập giá trị ba chỉ số của bộ ba bất khả thi từ tác giả Hiro Ito cùng với các số liệu từ IFS, World Bank Data và các nguồn khác, tác giả đã tiến hành kiểm định để phân tích mối tương quan tuyến tính giữa các yếu tố của bộ ba bất khả thi tại Việt Nam Kết quả cho thấy mối liên hệ giữa các nhân tố trong bộ ba bất khả thi và nền kinh tế, cụ thể là tác động đến lạm phát và biến động sản lượng.

- Các yếu tố bộ ba bất khả thi ở Việt Nam có mối tương quan tuyến tính

Tỷ lệ lạm phát bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó biến ổn định tỷ giá có tác động ngược chiều, trong khi biến hội nhập tài chính và dự trữ ngoại hối lại có mối tương quan cùng chiều với tỷ lệ lạm phát Đặc biệt, tác động của biến độc lập tiền tệ không cho thấy ý nghĩa thống kê rõ ràng.

Biến động sản lượng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác nhau, trong đó biến độc lập tiền tệ có tác động ngược chiều, trong khi hội nhập tài chính và dự trữ ngoại hối lại tương quan cùng chiều với sản lượng Đặc biệt, tác động của ổn định tỷ giá không cho thấy ý nghĩa thống kê rõ ràng.

MỘT SỐ GỢI Ý HƯỚNG ĐI CHO CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ BỘ BA BẤT KHẢ THI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

Ngày đăng: 01/08/2021, 09:52

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Như Ý, Trần Thị Bích Dung (2009), Sách kinh tế vĩ mô, Chương 9 “Phân tích kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế mở” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sách kinh tế vĩ mô, "Chương 9 “Phân tích kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế mở
Tác giả: Nguyễn Như Ý, Trần Thị Bích Dung
Năm: 2009
3. PGS.TS Trần Ngọc Thơ và TS Nguyễn Ngọc Định (2005), Sách Tài Chính Quốc Tế tái bản lần thứ 4, Chương 11 “Tác động của chính phủ đối với tỷ giá hối đoái” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sách Tài Chính Quốc Tế tái bản lần thứ 4", Chương 11 “Tác động của chính phủ đối với tỷ giá hối đoái
Tác giả: PGS.TS Trần Ngọc Thơ và TS Nguyễn Ngọc Định
Năm: 2005
4. Phí Trọng Hiển (2005), “Lạm phát mục tiêu: Kinh nghiệm thế giới và giải pháp cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 4/2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lạm phát mục tiêu: Kinh nghiệm thế giới và giải pháp cho Việt Nam”," Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
Tác giả: Phí Trọng Hiển
Năm: 2005
5. TS. Lê Phan Thị Diệu Thảo và các thành viên (2011), “Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá tại Việt Nam hiện nay”, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, trường Đại Học Ngân Hàng TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải pháp điều hành chính sách tỷ giá tại Việt Nam hiện nay
Tác giả: TS. Lê Phan Thị Diệu Thảo và các thành viên
Năm: 2011
6. PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang (2007), “Cần một chính sách kiểm soát vốn khả thi”, Báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 03/03/2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cần một chính sách kiểm soát vốn khả thi”, "Báo Tuổi Trẻ
Tác giả: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang
Năm: 2007
7. GS.TS Trần Ngọc Thơ (2010), “Điều hành bộ ba bất khả thi như thế nào”, Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, số ra ngày 30/12/2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều hành bộ ba bất khả thi như thế nào”, "Thời báo Kinh Tế Sài Gòn
Tác giả: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Năm: 2010
8. Công ty cổ phần chứng khoán ngân hàng Sài Gòn Thương Tín Sacombank-SBS (2011), “Làn gió mới trong Chính sách tỷ giá”, Báo cáo ngắn cập nhật chính sách vĩ mô, ngày 26/04/2011.Tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Làn gió mới trong Chính sách tỷ giá
Tác giả: Công ty cổ phần chứng khoán ngân hàng Sài Gòn Thương Tín Sacombank-SBS
Năm: 2011
9. Chin M., Ito H. (2008), “A new measure of financial openness”, Journal of Comparative Policy Analysis: Research and Practice, 10 (3), pp. 309-322 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A new measure of financial openness”, "Journal of Comparative Policy Analysis: Research and Practice
Tác giả: Chin M., Ito H
Năm: 2008
10. Aizenman, J., M.D. Chinn, and H. Ito (2008), “Assessing the Emerging Global Financial Architecture: Measuring the Trilemma’s Configurations Over Time”, National Bureau of Economic Research (NBER) Working Paper, 14533 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Assessing the Emerging Global Financial Architecture: Measuring the Trilemma’s Configurations Over Time”, "National Bureau of Economic Research (NBER) Working Paper
Tác giả: Aizenman, J., M.D. Chinn, and H. Ito
Năm: 2008
11. Aizenman, J., M.D. Chinn, and H. Ito (2008), "Trilemma Configurations in Asia in an Era of Financial Globalization," China and Asia in the Global Economy Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trilemma Configurations in Asia in an Era of Financial Globalization
Tác giả: Aizenman, J., M.D. Chinn, and H. Ito
Năm: 2008
12. Aizenman, J., M.D. Chinn, and H. Ito (2009), “The Financial Crisis, Rethinking of the Global Financial Architecture, and the Trilemma”, Mimeo. Portland State University Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Financial Crisis, Rethinking of the Global Financial Architecture, and the Trilemma
Tác giả: Aizenman, J., M.D. Chinn, and H. Ito
Năm: 2009
13. Joshua Aizenman, Menzie D. Chinn, and Hiro Ito (2009), “Surfing the Waves of Globalization: Asia and Financial Globalization in the Context of the Trilemma”, NBER Working Paper,15876 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Surfing the Waves of Globalization: Asia and Financial Globalization in the Context of the Trilemma”, "NBER Working Paper
Tác giả: Joshua Aizenman, Menzie D. Chinn, and Hiro Ito
Năm: 2009
14. Joshua Aizenman, Menzie D. Chinn, and Hiro Ito (2010), "The Emerging Global Financial Architecture: Tracing and Evaluating the New Patterns of the Trilemma's Configurations," JIMF 29 (June) Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Emerging Global Financial Architecture: Tracing and Evaluating the New Patterns of the Trilemma's Configurations
Tác giả: Joshua Aizenman, Menzie D. Chinn, and Hiro Ito
Năm: 2010
15. Aizenman, J. and R. Glick (2008), “Sterilization, Monetary Policy, and Global Financial Integration”, Review of International Economics (University of California, Santa Cruz), pp. 1-18 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sterilization, Monetary Policy, and Global Financial Integration”, "Review of International Economics
Tác giả: Aizenman, J. and R. Glick
Năm: 2008
16. Maurice Obstfeld, Jay C. Shambaugh & Alan M. Taylor (2005), “The Trilemma in History: Tradeoffs among Exchange Rates, Monetary Policies, and Capital Mobility”, Review of Economics and Statistics, 87 (August), pp. 423-438 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Trilemma in History: Tradeoffs among Exchange Rates, Monetary Policies, and Capital Mobility”, "Review of Economics and Statistics
Tác giả: Maurice Obstfeld, Jay C. Shambaugh & Alan M. Taylor
Năm: 2005
17. Maurice Obstfeld, Jay C. Shambaugh & Alan M. Taylor (2008), “Financial Stability, the Trilemma, and international Reserves”, NBER Working Paper, 14217 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Financial Stability, the Trilemma, and international Reserves”, "NBER Working Paper
Tác giả: Maurice Obstfeld, Jay C. Shambaugh & Alan M. Taylor
Năm: 2008
18. W. Jos Jansen (2008), “Inside The Impossible Triangle: Monetary Policy Autonomy In A Credible Target Zone”, Western Economic Association International, 26 (2), pp. 216-228 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Inside The Impossible Triangle: Monetary Policy Autonomy In A Credible Target Zone”, "Western Economic Association International
Tác giả: W. Jos Jansen
Năm: 2008
20. J. C. Bluedorn, Christopher Bowdler (2010), “The Empirics of International Monetary Transmission: Identification and the Impossible Trinity”, Journal of Money, Credit and Banking, 42(4), pp. 679-713 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Empirics of International Monetary Transmission: Identification and the Impossible Trinity”, "Journal of Money, Credit and Banking
Tác giả: J. C. Bluedorn, Christopher Bowdler
Năm: 2010
21. Frankel, J. (1999), “No single No single currency regime is right for all countries or at all times”, Essays in International Finance (Princeton University), 215 Sách, tạp chí
Tiêu đề: No single No single currency regime is right for all countries or at all times”, "Essays in International Finance (Princeton University)
Tác giả: Frankel, J
Năm: 1999
22. Radhika Pandey (2006), “The Impossible Trinity: Robert Mundell's Path Breaking Contribution in the Field of Economics”, URL http://ssrn.com/abstract=951200 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Impossible Trinity: Robert Mundell's Path Breaking Contribution in the Field of Economics
Tác giả: Radhika Pandey
Năm: 2006

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w