ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phạm vi điều tra
- Tình hình sử dụng thuốc BVTV trên cây chè shan
- Cây chè trên địa bàn tỉnh Hà Giang
3.1.4 Địa điểm điều tra Đề tài được thực hiện tại tỉnh Hà Giang.
Nội dung điều tra
- Đánh giá điều kiện tự nhiên - kinh tế, xã hội tại tại Hà Giang
- Đánh giá thực trạng sản xuất chè shan tại Hà Giang
- Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc BVTV trên cây chè shan tại
- Tìm ra những thuận lợi, khó khăn trong sản xuất chè shan
- Đề ra được một số giải pháp để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế chè tại Hà Giang trong những năm tiếp theo.
Phương pháp điều tra
3.3.1 Phương pháp thu thập thông tin
*phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
Số liệu thứ cấp được thu thập từ các tài liệu và báo cáo của địa phương, bao gồm thông tin từ các phòng, ban của tỉnh và các nguồn khác như sách, báo, tạp chí và internet.
Điều tra và đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội tại Hà Giang là rất quan trọng, vì chúng có ảnh hưởng lớn đến sản xuất chè trong khu vực Số liệu phục vụ cho nghiên cứu này được thu thập từ phòng Kinh tế tỉnh Hà Giang.
- Điều tra, đánh giá thực trạng sản xuất chè tại Hà Giang: số liệu được thu tập ở phòng Nông nghiệp – cục thống kê tỉnh Hà Giang
Điều tra và đánh giá thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) trên cây chè tại Hà Giang được thực hiện với số liệu thu thập từ Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Nghiên cứu này nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình sử dụng thuốc BVTV, từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất chè và bảo vệ môi trường.
*Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp
Thông tin, số liệu sơ cấp của đề tài được thu thập thông qua các cán bộ địa phương và các hộ nông dân trồng chè
Để thực hiện nghiên cứu, tôi đã chọn phương pháp chọn mẫu điều tra với 90 hộ tham gia sản xuất chè tại các huyện Vị Xuyên, Hoàng Su Phì và thành phố Hà Giang.
Phỏng vấn bán cấu trúc hộ nông dân, thông qua phương pháp PRA, sử dụng bảng câu hỏi bán cấu trúc nhằm thu thập thông tin về diện tích đất, tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, các thành phần sâu hại chính trên cây chè, cùng với những thông tin liên quan khác.
3.3.2 Phương pháp tổng hợp, xử lý số liệu
- Phương pháp chọn lọc tổng hợp các thông tin thứ cấp cần thiết
- Sử dụng các công cụ trên máy tính như: Microsoft word, excel để tổng hợp và xử lý thông tin sơ cấp
Sau khi thu thập thông tin thứ cấp, cần phân loại và sắp xếp chúng theo mức độ quan trọng Đối với các dữ liệu số, hãy lập bảng biểu và phân tích chúng theo mục đích nghiên cứu của đề tài.
Số liệu điều tra sơ cấp sau khi thu thập sẽ được tổng hợp và xử lý bằng phần mềm Excel, nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Hà Giang
Hà Giang là tỉnh nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, có vị trí địa lý đặc biệt khi giáp với tỉnh Cao Bằng ở phía Đông, tỉnh Yên Bái và Lào Cai ở phía Tây, tỉnh Tuyên Quang ở phía Nam, và phía Bắc tiếp giáp với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Hà Giang có diện tích tự nhiên 7.884,37 km², với chiều dài từ Tây sang Đông là 115 km và từ Bắc xuống Nam là 137 km Điểm cực Bắc của Hà Giang, cũng là điểm cực Bắc của Tổ quốc, nằm cách Lũng Cú khoảng 3 km về phía Đông, có tọa độ 23°13'00" vĩ độ Điểm cực Tây cách Xín Mần khoảng 10 km về phía Tây Nam, tọa độ 104°24'05" kinh độ, trong khi mỏm cực Đông nằm cách Mèo Vạc 16 km về phía Đông - Đông Nam, có tọa độ 105°30'04" kinh độ.
Hà Giang, với địa hình phức tạp, được thiên nhiên ưu đãi với nguồn tiềm năng phong phú về khí hậu, đất đai, tài nguyên và khoáng sản.
Hà Giang được chia thành ba vùng khác nhau dựa trên đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng và địa hình, mỗi vùng mang những điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội đặc trưng Mỗi khu vực đều có tiềm năng và thế mạnh riêng, góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh.
- Vùng I: Là vùng cao núi đá phía Bắc gồm 4 huyện: Đồng Văn, Mèo
Vạc, Yên Minh và Quản Bạ Diện tích toàn vùng là 2.352,7 km 2 ; dân số trên
Khoảng 20 vạn người, chiếm 34,3% dân số tỉnh, sinh sống trong điều kiện khí hậu lạnh giá vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại cây ăn quả và dược liệu ôn đới như Thảo quả, Đỗ trọng, và Hà thủ ô Các loại cây ăn quả như Mận, Đào, Lê, và Táo cũng được trồng phổ biến Cây ngô là lương thực chính, trong khi chăn nuôi chủ yếu tập trung vào bò, dê, ngựa và ong Những giống gia súc này có khả năng chịu rét tốt, thậm chí ở nhiệt độ âm Đàn ong chủ yếu phát triển vào mùa Hè - Thu, với hai loại hoa chính là hoa Ngô và hoa Bạc hà, trong đó mật ong hoa Bạc hà nổi bật với giá trị cao trong việc chữa bệnh và bồi dưỡng sức khỏe.
Vùng II, nằm ở phía Tây với các huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần, có diện tích tự nhiên 1.211,3 km² và dân số chiếm 15,9% Điều kiện tự nhiên ở đây rất thuận lợi cho việc phát triển cây Trẩu và cây Thông lấy nhựa, trong khi lúa nước và ngô là hai loại cây lương thực chính Chăn nuôi chủ yếu gồm trâu, ngựa, dê và gia cầm Đặc biệt, vùng này nổi tiếng với chè Shan tuyết, do người Dao - một dân tộc có truyền thống lâu đời trong việc trồng và chăm sóc cây chè núi - làm chủ.
- Vùng III: Là vùng núi thấp gồm các huyện: Bắc Quang, Vị Xuyên,
Bắc Mê, Quang Bình và thị xã Hà Giang là vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Hà Giang, với diện tích 4.320,3 km² và dân số chiếm 49,8% Khu vực này có điều kiện tự nhiên lý tưởng cho việc phát triển cây nhiệt đới, bao gồm các loại cây nguyên liệu giấy như Bồ đề, Mỡ, Thông Đây cũng là nơi có nguồn tre, nứa, vầu, luồng phong phú nhất trong tỉnh, cùng với sự phát triển của các loại cây ăn quả có múi như Cam, Quýt, Chanh.
Hà Giang sở hữu nhiều sông lớn thuộc hệ thống sông Hồng, với mật độ sông suối dày đặc Tuy nhiên, các sông ở đây có độ nông sâu không đồng đều và độ dốc lớn, kèm theo nhiều ghềnh thác, điều này gây khó khăn cho giao thông đường thủy.
Sông Lô là một con sông lớn tại Hà Giang, bắt nguồn từ Lưu Lung (Vân Nam - Trung Quốc) và chảy qua biên giới Việt - Trung ở khu vực Thanh Thuỷ Sông Lô đi qua thị xã Hà Giang và Bắc Quang trước khi đến Tuyên Quang, đóng vai trò là nguồn cung cấp nước chính cho vùng trung tâm tỉnh.
Sông Chảy bắt nguồn từ sườn Tây nam đỉnh Tây Côn Lĩnh và sườn Đông bắc đỉnh Kiều Liên Ti, với mật độ các dòng nhánh cao đạt 1,1 km/km² và hệ số tập trung nước 2,0 km/km² Dù chỉ có đoạn đầu nguồn nằm trong địa phận tỉnh, sông Chảy vẫn là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho khu vực phía Tây của Hà Giang.
Sông Gâm, bắt nguồn từ Nghiêm Sơn, Tây Trù - Trung Quốc, chảy qua Lũng Cú và Mèo Vạc, sau đó đổ về gần thành phố Tuyên Quang để hợp lưu với sông Lô Đây là nguồn cung cấp nước chính cho phần lớn dân cư của tỉnh Tuyên Quang.
Tỉnh Hà Giang còn sở hữu nhiều sông ngắn và nhỏ như sông Nho Quế, sông Miện, sông Bạc, sông Chừng cùng với nhiều khe suối lớn nhỏ, cung cấp nguồn nước thiết yếu cho sản xuất và đời sống của cư dân.
Hệ thống suối trên là nguồn nước mặt cung cấp chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp
Hà Giang nằm trong vùng Nhiệt đới gió mùa và là miền núi cao, khí hậu
Hà Giang có những đặc điểm khí hậu đặc trưng của vùng núi Việt Bắc – Hoàng Liên Sơn, với thời tiết mát mẻ và lạnh hơn các tỉnh miền Đông Bắc, nhưng lại ấm áp hơn so với các tỉnh miền Tây Bắc Dữ liệu về điều kiện thời tiết khí hậu của Hà Giang được thu thập và trình bày trong bảng 4.1.
Bảng 4.1 Điều kiện khí hậu, thời tiết của tỉnh Hà Giang năm 2018 Tháng/ năm Nhiệt độ TB ( 0 C) Độ ẩm TB (%) Lượng mưa (mm)
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang 2018
Nhiệt độ trung bình cả năm của Hà Giang dao động từ 16,6 0 C - 28,5 0 C; biên độ nhiệt trong năm có sự dao động trên 10 0 C và trong ngày cũng từ
Hà Giang có nhiệt độ mùa nóng cao nhất lên đến 40°C vào tháng 6, 7, trong khi mùa lạnh có nhiệt độ thấp nhất là 2,2°C vào tháng 1 Độ ẩm bình quân hàng năm đạt 83%, với độ ẩm cao nhất vào tháng 8, 9, 10 là 84-87% và thấp nhất vào tháng 1, 2, 3 là 81% Đặc biệt, ranh giới giữa mùa khô và mùa mưa ở Hà Giang không rõ rệt, tỉnh này có lượng mây trung bình khoảng 7,5/10, tăng lên 8-9/10 vào cuối mùa đông, và chỉ có 1,427 giờ nắng trong cả năm, với tháng nhiều nắng nhất là 181 giờ và tháng ít nắng nhất chỉ 74 giờ.
Lượng mưa trung bình hàng năm tại Hà Giang dao động từ 1.692 - 2.430 mm, chủ yếu tập trung từ tháng Năm đến tháng Mười, chiếm 70,0 – 80,0% tổng lượng mưa Mặc dù cây chè thường được trồng trên đất đồi, không bị ngập úng, nhưng lại cần nước thường xuyên để đảm bảo năng suất và chất lượng búp và lá non Thời gian từ tháng Năm đến tháng Mười là giai đoạn chính để thu hoạch chè Tuy nhiên, do khí hậu vùng núi cao với mùa đông khô và lạnh, cùng với việc trồng chè phân tán trên diện tích lớn, việc tưới nước gặp nhiều khó khăn, dẫn đến sản phẩm chè Shan Tuyết ở Hà Giang chỉ có thể thu hoạch từ tháng 2 đến tháng 9.
Tình hình sản xuất chè tại Hà Giang
4.2.1 Khái quát chung về tình hình sản xuất chè của tỉnh Hà Giang
Hà Giang là tỉnh có điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi cho phát triển cây chè, đặc biệt với những thương hiệu chè đặc sản nổi tiếng như chè Shan tuyết Lũng Phìn ở huyện Đồng Văn và chè Shan Nậm Ty ở huyện Hoàng Su Phì.
Chè Su Phì và chè Cao Bồ, nổi tiếng cả trong nước lẫn quốc tế, là sản phẩm đặc trưng của các huyện trồng chè Người dân nơi đây đã tích lũy nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc trồng trọt, chăm sóc, thu hái và chế biến các sản phẩm chè chất lượng cao.
Hà Giang, với điều kiện tự nhiên thuận lợi, là tỉnh có diện tích trồng chè lớn thứ hai cả nước, chỉ sau Thái Nguyên Tính đến cuối năm 2017, diện tích chè của tỉnh đạt khoảng 21.500 ha, trong đó 17.975 ha cho thu hoạch, với tổng sản lượng chè búp tươi ước đạt 67.149,7 tấn Chè Hà Giang chủ yếu được trồng tại năm huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, và Hoàng Su Phì.
Su Phì và huyện Xín Mần
4.2.2 Chè Shan và tình hình sản xuất chè Shan của tỉnh Hà Giang
Chè Shan tuyết Hà Giang là loại chè cổ thụ với tuổi đời từ 200 đến 700 năm, phát triển tự nhiên ở những đỉnh núi cao, nơi có nhiệt độ thấp và thường xuyên bị bao phủ bởi sương mù Các khu vực nổi bật như Phìn Hồ (Hoàng Su Phì), Cao Bồ (Vị Xuyên) và Lũng Phìn (Đồng Văn) là nơi tập trung nhiều cây chè Shan tuyết nhất tại tỉnh Hà Giang.
Chè Shan tuyết Hà Giang nổi bật với hình thái và chất lượng đặc trưng, dễ dàng nhận biết qua màu sắc và kích thước đồng đều Búp chè xoăn chặt, non, với cánh chè to, tròn và có lớp bạc tuyết Khi pha, nước chè có màu xanh vàng bắt mắt, mùi thơm tự nhiên, vị chát dịu và ngọt hậu dễ chịu, tạo nên sự hài hòa giữa vị và mùi Chất lượng chè được thể hiện qua các chỉ tiêu sinh hóa, với hàm lượng tro tổng số từ 4,87% đến 6,49%, Tanin từ 27,22% đến 38,88%, cafein từ 2,30% đến 4,19%, và chất chiết trong nước từ 38,32% đến 47,79%.
Về giống chè Shan Hà Giang có thể chia thành 2 loại chính đó là: chè Shan lá nhỏ và chè Shan lá to
Chè Shan lá nhỏ có diện tích lớn hơn chè Shan lá to, điển hình là chè Lũng Phìn ở huyện Đồng Văn Chè có hình dạng tán mâm xôi hoặc nến, với chiều dài búp dao động từ 2,3 - 4,5 cm và trọng lượng từ 0,4 - 1,09g/búp, giúp tạo ra chè xanh có ngoại hình đẹp Hàm lượng tanin trong chè Shan lá nhỏ từ 32,25 - 37,32%, chất hòa tan từ 43,24 - 47,82%, đường khử từ 2,00 - 2,95%, và cafein từ 3,05 - 3,45% Chè này đạt chất lượng cao trong thử nếm, với điểm số từ 16 - 18,2 trên nhiều mẫu chè.
Chè Shan lá to, đặc trưng của vùng chè cổ Bó Đướt, Thượng Sơn, huyện Vị Xuyên, nổi bật với nhiều lông tuyết trên cả búp lá 1 và một phần của lá 2 Trọng lượng búp chè dao động từ 0,92 đến 1,02g, cho thấy năng suất cao của loại chè này.
1600 - 1850g/cây/lứa hái Về thành phần sinh hoá cho thấy: Hàm lượng Tanin biến động từ 27,96 - 32,98%; chất hoà tan từ 35,81 - 40,56%; đường khử từ 1,22 - 1,90%; cafein từ 2,85 - 3,00%
Theo báo cáo của ngành chức năng tỉnh Hà Giang, tính đến cuối năm
2017, tổng diện tích chè Shan tuyết của Hà Giang đạt khoảng 16.067 ha (chiếm 75,6% tổng diện tích chè của tỉnh), trong đó có trên 13.700 ha cho thu hoạch
Hà Giang nổi bật với diện tích chè Shan cổ thụ hàng trăm năm tuổi, chủ yếu nằm ở các huyện vùng cao Những cây chè này sinh trưởng hoang dã, không chịu tác động của con người, dẫn đến năng suất thấp nhưng chất lượng lại rất cao, tạo ra sản phẩm chè Shan hữu cơ đặc trưng Trong nhiều năm qua, chè Shan Hà Giang đã được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng và xuất khẩu ra nhiều thị trường quốc tế.
Trong những năm qua, tỉnh Hà Giang đã xác định cây chè là cây trồng mũi nhọn cho phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh luôn chú trọng công tác trồng mới, đầu tư khoa học kỹ thuật trong thâm canh, thu hái và chế biến chè Nhiều chính sách hỗ trợ đã được triển khai, như hỗ trợ lãi suất cho người dân vay vốn trồng mới và cải tạo vườn chè già cỗi, cũng như hỗ trợ các cơ sở chế biến chè trong việc xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm, theo Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp giai đoạn 2016 - 2020.
Tỉnh Hà Giang đang triển khai xây dựng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm chè đặc biệt Shan tuyết, với mục tiêu phấn đấu đạt được trong thời gian tới.
Năm 2020, chúng tôi sẽ chú trọng vào việc phát triển sản phẩm chè Shan tuyết theo tiêu chuẩn an toàn VietGAP và chè hữu cơ Đồng thời, chúng tôi sẽ tăng cường xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm và đảm bảo truy xuất nguồn gốc rõ ràng cho từng sản phẩm.
UBND tỉnh Hà Giang đã chỉ đạo các ngành chuyên môn lập hồ sơ về lịch sử, danh tiếng và uy tín của chè Shan, cùng với các yếu tố nông hóa thổ nhưỡng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm Đồng thời, tỉnh cũng đánh giá các chỉ tiêu về màu sắc, tính chất và hàm lượng dinh dưỡng đặc thù của chè Shan tuyết Hà Giang Việc thống kê các tiêu chí đánh giá chất lượng sản phẩm và phân tích tác động của đất đai, tiểu vùng khí hậu đến từng vùng trồng chè là rất quan trọng Ngoài ra, quy trình canh tác và chế biến chè Shan tuyết cũng được xem xét, cùng với việc xây dựng bản đồ quy hoạch các vùng trồng chè Shan và phân tích những đặc điểm nổi bật của chè Shan Hà Giang.
Theo Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVI (nhiệm kỳ
Từ năm 2015 đến 2020, tỉnh Hà Giang đặt mục tiêu nâng tổng diện tích chè lên 25.237,7 ha, với năng suất trung bình đạt 52 tạ/ha, tổng sản lượng chè búp tươi đạt 131.267,2 tấn/năm Trong giai đoạn 2016 – 2020, tỉnh sẽ trồng mới 500 ha chè mỗi năm, bao gồm 50 ha thay thế chè già cỗi và 200 – 300 ha do mất diện tích Mục tiêu là đưa cây chè trở thành cây trồng chủ lực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo tại tỉnh Hà Giang.
4.2.3 Tình hình sản xuất chè Shan ở 3 huyện tại Hà Giang Điều tra đánh giá tình hình sản xuất chè Shan của 90 hộ thuộc 3 địa điểm (thành phố Hà Giang, huyện Vị Xuyên và huyện Hoàng Su Phì), kết quả thu được như sau:
4.2.3.1 Diện tích chè của 90 hộ điều tra phỏng vấn Điều tra đánh giá về diện tích chè nói chung và chè Shan nói riêng của
90 hộ thuộc 3 địa điểm (thành phố Hà Giang, huyện Vị Xuyên và huyện Hoàng Su Phì), kết quả thu được ở hình 4.1 như sau:
Hình 4.1 Diện tích chè của 90 hộ điều tra phỏng vấn
Hình 4.1 cho thấy tổng diện tích chè Shan lá to là nhiều nhất (đạt 290,5 nghìn m 2 ), chiếm 43,81% tổng diện tích chè của 90 hộ điều tra phỏng vấn
(663 nghìn m 2 ); tiếp đến diện tích chè Shan lá nhỏ (231,5 nghìn m 2 ), chiếm
TP Hà Giang Huyện Vị Xuyên Huyện Hoàng Su PhìChè shan lá to Chè shan lá nhỏ Chè khác
Tổng diện tích chè của 90 hộ điều tra là 663 nghìn m², trong đó chè Shan lá to chiếm 34,92% với diện tích 59 nghìn m² Các loại chè khác như chè Trung du và pH chỉ chiếm 21,27% tổng diện tích, tương đương 141 nghìn m², thấp hơn so với diện tích chè Shan lá to là 150 nghìn m² và chè Shan lá nhỏ là 91 nghìn m².
Tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trên chè tại Hà Giang
4.3.1 Đánh giá chung về tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trên chè ở 90 hộ điều tra phỏng vấn
Trong quá trình mở rộng diện tích trồng chè, thâm canh và tăng năng suất đã dẫn đến mất cân bằng sinh học, làm gia tăng sâu bệnh hại chè Để tìm kiếm giải pháp hiệu quả trong việc phòng trừ sâu bệnh mà vẫn an toàn cho sức khỏe con người và môi trường, chúng tôi đã tiến hành điều tra trên 90 người dân ở ba vùng chè lớn: thành phố Hà Giang, huyện Vị Xuyên và huyện Hoàng Su Phì, về thành phần và thời gian cách ly khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trên chè, với kết quả được trình bày trong bảng 4.7.
Số loại thuốc phòng trừ sâu bệnh ở Hà Giang gồm 11 loại, trong đó có
Trong tổng số, có 8 loại thuốc trừ sâu chiếm 72,73% và 3 loại thuốc trừ bệnh chiếm 27,27% Các loại thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) được sử dụng để phun trên cây chè chủ yếu thuộc các nhóm độc II, III và IV.
Trong 3 vùng điều tra (thành phố Hà Giang, huyện Vị Xuyên và huyện
Huyện Hoàng Su Phì tại thành phố Hà Giang sử dụng ít loại thuốc trừ sâu bệnh nhất, chỉ với 5 loại, chiếm 45,45% tổng số thuốc BVTV dùng cho chè trong khu vực Ngược lại, huyện Vị Xuyên sử dụng 9 loại, chiếm 81,82% Các loại thuốc BVTV được sử dụng tại Hoàng Su Phì chủ yếu có thời gian cách ly ngắn, từ 3 đến 7 ngày, trong khi hai vùng còn lại sử dụng thuốc có thời gian cách ly lên đến 14 ngày Điều này cho thấy người dân ở Hoàng Su Phì sử dụng thuốc BVTV ít hơn và lựa chọn các loại ít độc hại hơn so với người dân ở huyện Vị Xuyên và thành phố Hà Giang.
Số lần phun thuốc trong mỗi vụ dao động từ 2 đến 8 lần, tùy thuộc vào loại thuốc sử dụng Huyện Vị Xuyên ghi nhận số lần phun cao nhất, từ 4 đến 8 lần cho mỗi vụ với một loại thuốc Tiếp theo là thành phố Hà Giang với 3 đến 7 lần phun/vụ cho mỗi loại thuốc, trong khi huyện Hoàng có số lần phun thấp hơn.
Su Phì có số lần phun thuốc ít nhất (1 – 3 lần phun/vụ/1 loại thuốc) (bảng 4.7)
Thời gian cách ly của thuốc là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo an toàn sức khỏe Đối với các loại thuốc có thời gian cách ly ngắn từ 3 đến 5 ngày, người dân thường tuân thủ đúng quy định Tuy nhiên, với những loại thuốc có thời gian cách ly dài từ 7 đến 14 ngày, nhiều người không thực hiện đúng, thường rút ngắn thời gian cách ly từ 1 đến 3 ngày.
Bảng 4.7 Tình hình sử dụng hóa chất BVTV cho chè tại Hà Giang năm 2018
Thành phố Hà Giang Huyện Vị Xuyên Huyện Hoàng Su Phì
Thời gian cách ly (ngày) Tên thuốc
Thời gian cách ly (ngày) Tên thuốc
Thời gian cách ly (ngày)
Nguồn: Số liệu điều tra nông hộ năm 2019
4.3.2 Đánh giá chi tiết về tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trên chè ở 90 hộ điều tra phỏng vấn Để đánh giá được một cách chính xác, chi tiết về tình hình sử dụng thuốc BVTV trên chè tại Hà Giang, kêt quả thu được như sau:
Bảng 4.8 Số hộ sử dụng từng loại thuốc BVTV trên chè tại Hà Giang
Loại thuốc Tên thuốc TP Hà
Tổng số hộ sử dụng
Thuốc trừ bệnh 9 Tilsuper 300EC 26 27 0 53
Kết quả điều tra phỏng vấn 90 hộ sản xuất chè năm 2019
Theo Bảng 4.8, trong tổng số 8 loại thuốc trừ sâu, thuốc Alfamite 15EC được sử dụng nhiều nhất với 67 hộ, chiếm 74,44% tổng số hộ điều tra Tiếp theo là thuốc Rholam super 50SG với 64 hộ, tương đương 71,11% Ngược lại, Wamtox 100EC và Reasgant 1.8EC có số lượng người sử dụng ít nhất, chỉ từ 23 đến 28 hộ, chiếm 25,56 – 31,11% tổng số hộ điều tra.
Trong ba loại thuốc trừ bệnh được khảo sát, thuốc Genol 1,2SL được sử dụng nhiều nhất với 77 hộ, chiếm 85,56% tổng số hộ điều tra Tiếp theo là thuốc Daconil 75WP với 68 hộ, tương đương 75,56% Cuối cùng, thuốc Tilsuper 300EC có số lượng người sử dụng ít nhất, với 53 hộ, chiếm 58,89% tổng số hộ điều tra.
Trong 3 vùng (TP Hà Giang, huyện Vị Xuyên và huyện Hoàng Su Phì), số người sử dụng thuốc trừ sâu ở thành phố Hà Giang nhiều nhất (số người sử dụng mỗi loại thuốc trừ sâu dao động 19 – 28 người); tiếp đến huyện Vị Xuyên (số người sử dụng mỗi loại thuốc trừ sâu dao động 0 – 27 người) và huyện Hoàng Su phì có số người sử dụng thuốc trừ sâu ít nhất (số người sử dụng mỗi loại thuốc trừ sâu dao động 0 – 22 người) Đối với thuốc trừ bệnh: TP Hà Giang có số người sử dụng thuốc trừ bệnh nhiều nhất (số người sử dụng mỗi loại thuốc trừ bệnh dao động 24 đến
Tại huyện Vị Xuyên, số người sử dụng mỗi loại thuốc trừ bệnh dao động từ 23 đến 27 người, trong khi huyện Hoàng Su Phì có số người sử dụng mỗi loại thuốc này từ 0 đến 27 người Huyện có số người sử dụng thuốc trừ bệnh cao nhất là huyện Vị Xuyên với 27 người.
Mặc dù có 8 loại thuốc trừ sâu và 3 loại thuốc trừ bệnh cho chè, không phải hộ nào cũng sử dụng toàn bộ số loại thuốc này trong một vụ Kết quả điều tra cho thấy sự đa dạng trong việc áp dụng thuốc trừ sâu và thuốc trừ bệnh ở từng hộ gia đình, được minh họa qua hình 4.5 và hình 4.6.
Số loại thuốc trừ sâu được sử dụng cho chè trong một vụ dao động từ 1 đến 7 loại, với thành phố Hà Giang là nơi có số lượng thuốc trừ sâu cao nhất, khi 100% người dân sử dụng từ 5 đến 7 loại Huyện Vị Xuyên theo sau, với 11 hộ sử dụng 5 – 7 loại thuốc, chiếm 36,67%, và 19 hộ sử dụng 3 – 4 loại thuốc, chiếm 63,33% Ngược lại, huyện Hoàng Su Phì có số lượng thuốc trừ sâu thấp nhất, với 4 hộ sử dụng 3 – 4 loại thuốc, chiếm từ 10 đến 13,33%.
20 hộ sử dụng 1 – 2 loại thuốc trừ sâu/vụ, chiếm 66,67% và có 6 hộ hoàn toàn không sử dụng thuốc BVTV phun cho chè, chiếm 20%)
Hình 4.5 Số người sử dụng thuốc trừ sâu cho chè/1 vụ
Trong một vụ trồng chè, số lượng loại thuốc trừ bệnh được sử dụng dao động từ 1 đến 3 loại Huyện Vị Xuyên có tỷ lệ sử dụng thuốc trừ bệnh cao nhất, với 17 hộ dân sử dụng 3 loại thuốc, chiếm 56,67% tổng số hộ điều tra; 13 hộ còn lại sử dụng 2 loại thuốc, chiếm 43,33% Tiếp theo là thành phố Hà Giang, nơi 17 hộ dân sử dụng 2 loại thuốc, cũng chiếm 56,67% tổng số hộ, và 13 hộ sử dụng cả 3 loại thuốc, chiếm 43,33% Ngược lại, huyện Hoàng Su Phì có số loại thuốc trừ bệnh ít nhất, với 16 hộ sử dụng 2 loại thuốc, chiếm 53,33%, và 14 hộ chỉ sử dụng 1 loại thuốc, chiếm 46,67%.
1 - 2 loại thuốc/vụ 3 - 4 loại thuốc/ vụ 5 - 7 loại thuốc/vụ
TP Hà Giang Huyện Vị Xuyên Huyện Hoàng Su Phì
Hình 4.6 Số người sử dụng thuốc trừ bệnh cho chè/1 vụ
Mặc dù có 8 loại thuốc trừ sâu, không có hộ nào sử dụng tất cả để phun cho chè/vụ Thành phố Hà Giang và huyện Vị Xuyên sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật, trong khi huyện Hoàng Su Phì lại sử dụng ít hơn.
4.3.3 Đánh giá chi tiết về nồng độ thuốc và tình hình xử lý bao bì vỏ thuốc BVTV sau khi sử dụng Đánh giá chi tiết về nồng độ thuốc và tình hình xử lý bao bì vỏ thuốc BVTV sau khi sử dụng, kết quả thu được ở bảng 4.9
Bảng 4.9 Tình hình sử dụng hóa chất BVTV cho chè tại Hà Giang năm 2018
Số loại thuốc sử dụng trong 1 lần phun
Vứt vỏ bao bì tại chỗ pha thuốc
Số người dân sử dụng bảo hộ lao động khi phun thuốc
Theo khuyến cáo trên bao bì
Thực tế cao hơn khuyến cáo
Nguồn: Số liệu điều tra nông hộ năm 2019
1 loại thuốc/vụ 2 loại thuốc/vụ 3 loại thuốc/vụ
TP Hà Giang Huyện Vị Xuyên Huyện Hoàng Su Phì
Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất chè tại Hà Giang 67 1 Đánh giá chung
Người dân tỉnh Hà Giang thể hiện tinh thần cần cù và chăm chỉ, với khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, giúp duy trì ổn định sản lượng và kinh tế địa phương Qua kết quả điều tra và phân tích, có thể nhận thấy những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất chè tại tỉnh này.
Tỉnh có nguồn đất đai lớn và đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp, đặc biệt là cây công nghiệp như chè và cây ăn quả Diện tích đất đồi núi chưa sử dụng còn khá lớn, là cơ sở tốt cho việc phát triển nông, lâm nghiệp theo tiểu vùng khí hậu Việc hình thành các khu chuyên canh tập trung sẽ giúp tạo ra sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là các cây công nghiệp dài ngày.
Dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Tỉnh Ủy, HĐND, UBND tỉnh, nguồn lực đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn đã được tăng cường thông qua các chính sách như trợ giá giống, chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình 30a đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn và chương trình khuyến nông, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp trong tỉnh.
- Cơ sở hạ tầng được trú trọng đầu tư và ngày càng được cải thiện là điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất hàng hóa
Tỉnh sở hữu nguồn lao động dồi dào, giàu truyền thống cần cù và sáng tạo, cùng với nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp Đây là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển sản xuất của tỉnh.
Trình độ và năng lực sản xuất của nông dân đã được cải thiện đáng kể, với nhiều người chú trọng vào việc thâm canh và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quá trình sản xuất, chăm sóc và bảo vệ cây trồng.
Thời tiết khắc nghiệt với rét đậm, rét hại và hạn hán kéo dài, cùng với nắng mưa xen kẽ, đã tạo ra môi trường thuận lợi cho cây trồng phát triển nhưng cũng đồng thời làm gia tăng sự xuất hiện và phát triển của sâu bệnh, gây hại cho mùa màng.
Địa hình đồi núi và việc sản xuất manh mún nhỏ lẻ đã gây khó khăn trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từ đó làm giảm hiệu quả đầu tư cho lĩnh vực này.
Tập quán canh tác lạc hậu vẫn còn phổ biến, trong khi nhiều hộ dân gặp khó khăn về kinh tế Sự gia tăng giá cả cây trồng và phân bón đã tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh tế của nông dân, làm giảm khả năng đầu tư cho tái sản xuất.
Công tác khuyến nông tại nhiều xã vẫn chưa phát triển mạnh mẽ, với nhiều địa phương chưa ký hợp đồng với cán bộ khuyến nông Trình độ chuyên môn của đội ngũ khuyến nông ở một số xã còn hạn chế, điều này ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân.
Cơ sở hạ tầng nông thôn hiện nay còn yếu kém, đặc biệt là hệ thống đường giao thông và thủy lợi chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất Bên cạnh đó, dịch vụ cung cấp giống và phân bón ở các xã vùng sâu, vùng xa vẫn còn thiếu hụt, ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp tại địa phương.
Cơ hội và thách thức đối với chè Hà Giang
4.5.1 Thách thức đối với chè Hà Giang
Thị trường chè Việt Nam hiện có trên 90 triệu dân và dự kiến đạt 100 triệu vào năm 2020, với nhu cầu tiêu thụ 40 – 50 ngàn tấn chè mỗi năm nếu mỗi người sử dụng 0,5kg Xu hướng tiêu thụ chè hiện nay yêu cầu chất lượng cao, đặc biệt tại các đô thị, do đó các nhà sản xuất cần chú trọng vào công nghệ và kỹ thuật chế biến để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng Mặc dù Hà Giang là tỉnh có diện tích chè lớn thứ hai cả nước, nhưng thị phần chè của tỉnh này rất thấp do người tiêu dùng chưa biết đến sản phẩm Nguyên nhân chính bao gồm hạ tầng cơ sở chưa được đầu tư đúng mức, quản lý ngành chè yếu, thiếu giải pháp phối hợp hiệu quả giữa các bên liên quan, hệ thống thông tin không đáp ứng nhu cầu thị trường, và các doanh nghiệp chế biến còn gặp khó khăn về vốn, năng lực cạnh tranh thấp.
4.5.2 Cơ hội đối với chè Hà Giang
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mở rộng thị trường cho ngành chè Xu hướng tiêu dùng chè an toàn và chè sinh học ngày càng gia tăng Chè Hà Giang có nhiều lợi thế trong việc sản xuất chè sạch và an toàn, đáp ứng nhu cầu thị trường hiện nay.
Sự gia tăng trong việc sử dụng sản phẩm chè xanh đang trở thành xu hướng nổi bật Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về giá, với mức giá chè chỉ bằng 50 – 70% so với giá thế giới.
Tham gia Hiệp hội Chè Việt Nam, tỉnh Hà Giang đã thành lập Chi hội chè, tạo cơ hội phát triển và tiêu thụ sản phẩm chè Điều này hỗ trợ sản xuất hàng hóa tập trung, góp phần vào công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Sản phẩm chè Hà Giang nổi bật với thương hiệu uy tín trong ngành chè cả nước Với khí hậu và đất đai lý tưởng, Hà Giang tạo điều kiện thuận lợi cho cây chè phát triển Chè Shan từ vùng này có thể chế biến thành nhiều loại như chè phổ nhĩ, chè xanh, chè đen, chè vàng, chè Lipton và nhiều sản phẩm khác, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ đa dạng trên thị trường.
Tỉnh này nổi bật với truyền thống sản xuất và chế biến chè, do đó hầu hết người dân đều có kiến thức vững về lĩnh vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai sản xuất cây chè.
Tỉnh Hà Giang, với nhiều khó khăn do địa hình miền núi, đã nhận diện được tiềm năng của cây chè qua nhiều thế hệ lãnh đạo Các cơ chế chính sách thiết thực đã được triển khai nhằm phát triển vùng chè, góp phần xây dựng thương hiệu chè Hà Giang Nhờ đó, cây chè đã trở thành một công cụ hiệu quả trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo cho nhiều huyện vùng cao của tỉnh.
Một số giải pháp phát triển sản xuất chè tại tỉnh Hà Giang
4.6.1 Phương hướng phát triển sản xuất chè của tỉnh Hà Giang
Theo Đề án tái cơ cấu nông nghiệp của tỉnh, cây chè được xác định là một trong những cây trồng chủ lực giúp người dân giảm nghèo và nâng cao thu nhập Để phát triển cây chè bền vững, cần có định hướng rõ ràng và các biện pháp hỗ trợ phù hợp.
Tổ chức sản xuất và nâng cấp các mối liên kết trong chuỗi giá trị chè Shan tuyết Hà Giang là mục tiêu chính nhằm cải thiện thu nhập cho người dân địa phương Việc phát triển chuỗi giá trị này không chỉ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn tạo ra cơ hội việc làm và tăng cường sự phát triển bền vững cho cộng đồng.
- Xây dựng các nhóm sở thích, đảm bảo người dân được tham gia liên kết với các cơ sở chế biến chè bền vững
- Nâng cấp và mở rộng quy mô dây chuyền chế biến chè ra sản phẩm cuối cùng có bao bì, nhãn mác, nguồn gốc xuất xứ
- Hỗ trợ đầu tư xây dựng hệ thống nhà xưởng bảo quản, sơ chế cho các cơ sở chế biến
Quy hoạch sử dụng đất bền vững là cần thiết để bảo vệ đất trồng chè khỏi việc chuyển đổi sang mục đích công nghiệp và dịch vụ Đồng thời, cần thực hiện các biện pháp hiệu quả nhằm ngăn chặn ô nhiễm nguồn nước và đất nông nghiệp do chất thải công nghiệp gây ra.
Chính sách cần có cơ chế thực sự khuyến khích và hỗ trợ đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, giúp giảm bớt khó khăn về giá cả vật tư, áp dụng biện pháp kỹ thuật hiệu quả, nâng cao khả năng tiêu thụ và giảm thiểu rủi ro do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên.
Tiếp tục hỗ trợ cung cấp vật tư giống và phân bón, đồng thời đưa các giống cây có năng suất và chất lượng cao vào các vùng thâm canh Bên cạnh đó, cần phát triển giống cây chống chịu cho những khu vực đất bị ô nhiễm hoặc có nguy cơ ô nhiễm.
Tập huấn các biện pháp kỹ thuật thâm canh chè bền vững là rất quan trọng, trong đó cần chú trọng sử dụng hợp lý và tăng cường phân hữu cơ Đồng thời, hạn chế sử dụng thuốc hóa học trong phòng trừ dịch hại và áp dụng biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) để bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Xây dựng thử nghiệm và nhân rộng mô hình sản xuất có hiệu quả trên đất trồng chè
- Đầu tư các mô hình sản xuất trình diễn để bà con nông dân tham quan, học tập kinh nghiệm và áp dụng rộng rãi tại địa phương
- Khuyến kích nông dân xây dựng các mô hình kinh tế trang trại kết hợp
- Tập trung đầu tư phát triển hệ thống giao thông thủy lợi phục vụ đời sống sinh hoạt của người dân và sản xuất nông nghiệp
4.6.2 Giải pháp phát triển chè của tỉnh Hà Giang trong những năm tới 4.6.2.1 Giải pháp về kinh tế
Để ngành sản xuất chè phát triển hiệu quả, việc đầu tư vốn là điều không thể thiếu Chính sách hỗ trợ đầu tư cho sản xuất chè đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu suất và chất lượng sản phẩm.
Hỗ trợ vốn cho người dân chăm sóc và trồng dặm các nương chè chưa cho thu hoạch là cần thiết, vì diện tích chè trung bình của mỗi hộ thường lớn nhưng chỉ cho thu hoạch một phần hoặc thu hoạch thấp Nguyên nhân là do người dân trồng chè đại trà để nhận hỗ trợ từ dự án, do đó việc trồng mới không thật sự cần thiết.
- Cần có các chính sách trợ giá về giống, vật tư các chi phí đào tạo và chuyển giao kỹ thuật cho người sản xuất
- Tăng cường liên doanh, liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước để tạo vốn đầu tư cho sản xuất và chế biến sản phẩm chè
- Cần có biện pháp khuyến khích các hộ nông dân sản xuất chè để nhằm huy động nguồn lao động nhàn rỗi trong dân cư
4.6.2.2 Giải pháp về kỹ thuật Đối với cây chè thì việc áp dụng đúng các quy trình kỹ thuật trong sản xuất cũng như trong chế biến là điều kiện kiên quyết để cây chè tăng trưởng, phát triển cho năng suất, chất lượng cao Do vậy, việc tuân thủ nghiêm ngặt và áp dụng một cách đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ cần phải được chú ý Cụ thể là:
Trồng bổ sung và thay thế các nương chè già cỗi là cần thiết để nâng cao sản lượng chè Việc chuyển đổi từ phương pháp trồng chè theo cây riêng lẻ sang trồng theo hàng, theo băng không chỉ giúp tăng năng suất mà còn dễ dàng trong công tác chăm sóc.
- Trong trồng mới phải thực hiện đúng quy trình kỹ thuật ngay từ đầu như chọn đất, mật độ trồng, phân bón, giống cây che bóng, băng cốt khí
Cải tiến công cụ sản xuất và mở rộng sử dụng cơ giới hóa, như máy làm đất và máy đốn hái, sẽ nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cho người trồng chè.
Để nâng cao giá trị chè và đáp ứng nhu cầu thị trường cao cấp, cần áp dụng các biện pháp tiên tiến trong chăm sóc và thâm canh chè theo hướng chè sạch Điều này bao gồm việc từng bước xây dựng vùng chè an toàn, đảm bảo tiêu chuẩn chè VIETGAP và chè hữu cơ, đồng thời phát triển thương hiệu chè.
Để nâng cao chất lượng sản xuất chè, cần tăng cường tập huấn kỹ thuật cho người dân, đặc biệt là kỹ thuật nhân giống chè bằng phương pháp giâm cành Xã nên tổ chức ít nhất 1 - 2 lớp tập huấn hàng năm về kỹ thuật trồng và chăm sóc chè Đồng thời, cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chuyển dần từ phương pháp sản xuất truyền thống sang các biện pháp kỹ thuật sản xuất chè hữu cơ, chè sạch.
Áp dụng quy trình canh tác trên đất dốc trong sản xuất chè không chỉ giúp phủ xanh đất trống đồi trọc mà còn góp phần chống xói mòn và bảo vệ môi trường sinh thái Phương pháp này giữ cho tầng canh tác ổn định, tạo ra một hệ sinh thái bền vững.
Để đảm bảo chất lượng sản phẩm trong chế biến thủ công, các hộ cần đầu tư đồng bộ máy móc thiết bị chế biến đạt tiêu chuẩn kỹ thuật Việc này không chỉ giúp tạo ra sản phẩm đồng đều mà còn đảm bảo vệ sinh công nghiệp.
Kết luận
Theo điều tra về sản xuất chè và việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại Hà Giang, trong những năm gần đây, tình hình sản xuất chè đã có những chuyển biến tích cực, song vẫn cần chú trọng đến việc quản lý và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách hợp lý nhằm đảm bảo an toàn cho sản phẩm và sức khỏe người tiêu dùng.
Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh mang lại nhiều cơ hội thuận lợi cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cây chè Shan.
Diện tích trồng chè ổn định qua các năm, nhưng hiện tại đang đối mặt với nhiều khó khăn ảnh hưởng đến sản xuất Năng suất chè chưa đạt mức cao và sự cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế Thêm vào đó, sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp và dịch vụ đang gây ô nhiễm môi trường đất và nước, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình sản xuất chè.
Người dân vẫn lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất chè, đồng thời không áp dụng các biện pháp an toàn cho bản thân và bảo vệ môi trường.
Đề nghị
Để nâng cao chất lượng nghiên cứu về sản xuất chè tại tỉnh Hà Giang, cần có thời gian dài hơn để thực hiện các nghiên cứu thực tế Việc này sẽ giúp đưa ra những giải pháp thiết thực, từ đó cải thiện hiệu quả trong công tác sản xuất chè.