1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Phân tích chuỗi giá trị và hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long.

199 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Chuỗi Giá Trị Và Hiệu Quả Sản Xuất Của Các Hộ Nuôi Cá Tra Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
Tác giả Lê Thị Thanh Hiếu
Người hướng dẫn PGS.TS. Trần Tiến Khai, PGS.TS. Võ Thành Danh
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh Tế Phát Triển
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ Kinh Tế
Năm xuất bản 2019
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 199
Dung lượng 2,37 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU (14)
    • 1.1. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU (14)
      • 1.1.1. Bối cảnh lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm (14)
      • 1.1.2. Bối cảnh thực tế (17)
    • 1.2. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (20)
    • 1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU (22)
      • 1.3.1. Mục tiêu chung (22)
      • 1.3.2. Mục tiêu cụ thể (22)
    • 1.4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU (22)
      • 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu (22)
      • 1.4.2. Phạm vi nghiên cứu (22)
    • 1.5. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (23)
    • 1.6. Ý NGHĨA CỦA NGHIÊN CỨU (24)
      • 1.6.1. Ý nghĩa lý thuyết (24)
      • 1.6.2. Ý nghĩa thực tiễn (24)
    • 1.7. CẤU TRÚC CỦA NGHIÊN CỨU (25)
  • CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU (27)
    • 2.1. KHÁI NIỆM CHUỖI GIÁ TRỊ (27)
    • 2.2. PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ (29)
    • 2.3. PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SẢN XUẤT (34)
      • 2.3.1. Phân tích hiệu quả tài chính (34)
      • 2.3.2. Phân tích HQSX sử dụng phương pháp phân tích bao phủ dữ liệu (Data (36)
        • 2.3.2.1. Đo lường HQSX sử dụng DEA (37)
        • 2.3.2.2. Đo lường HQSX sử dụng SFA (40)
        • 2.3.2.3. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến HQSX (44)
        • 2.3.2.4. Thuận lợi và hạn chế của việc sử dụng hai mô hình DEA và SFA để đo lường (47)
    • 2.4. KHUNG KHÁI NIỆM VÀ KHUNG PHÂN TÍCH (49)
      • 2.4.1. Khung khái niệm (49)
      • 2.4.2. Khung phân tích (53)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (55)
    • 3.1. PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ (55)
      • 3.1.1. Giới thiệu (55)
      • 3.1.2. Các công cụ được sử dụng trong phân tích chuỗi giá trị (56)
        • 3.1.2.1. Vẽ sơ đồ chuỗi giá trị (56)
        • 3.1.2.2. Phân tích cơ chế quản trị giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị (57)
        • 3.1.2.3. Phân tích mối liên kết và quan hệ thương mại của các tác nhân trong CGT (58)
        • 3.1.2.4. Phân tích những lựa chọn nâng cao tiềm năng về kiến thức, kỹ năng, công nghệ và dịch vụ hỗ trợ (59)
        • 3.1.2.5. Phân tích phân phối chi phí, giá trị gia tăng và giá trị gia tăng thuần (lợi nhuận) của các tác nhân trong CGT (61)
        • 3.1.2.6. Phân tích mô hình PEST (62)
        • 3.1.2.7. Phân tích mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Porter (63)
        • 3.1.2.8. Phân tích ma trận SWOT (65)
      • 3.1.3. Thu thập số liệu (68)
        • 3.1.3.1. Số liệu thứ cấp (68)
        • 3.1.3.2. Số liệu sơ cấp (68)
    • 3.2. PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SẢN XUẤT (71)
      • 3.2.1. Tổng quan lý thuyết đo lường hiệu quả sản xuất (71)
        • 3.2.1.1. Các khái niệm cơ bản về hiệu quả sản xuất (71)
        • 3.2.1.2. Sử dụng phân tích bao phủ số liệu (Data Envelopment Analysis – DEA) (74)
        • 3.2.1.3. Sử dụng hàm biên ngẫu nhiên (stochastic frontier analysis – SFA) (78)
        • 3.2.1.4. Lựa chọn hàm sản xuất biên ngẫu nhiên thích hợp (80)
  • CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CÁ TRA (84)
    • 4.1. GIỚI THIỆU (84)
    • 4.2. PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CÁ TRA Ở ĐBSCL (85)
      • 4.2.1. Sơ đồ chuỗi giá trị (85)
      • 4.2.2. Chức năng thị trường của các tác nhân tham gia chuỗi (87)
        • 4.2.2.1 Các nhà cung ứng vật tư đầu vào (88)
      • 4.2.3. Phân tích kinh tế CGT cá tra (97)
      • 4.2.4. Đánh giá mối liên kết dọc và liên kết ngang trong CGT (99)
      • 4.2.5. Đánh giá rủi ro trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (100)
        • 4.2.5.1. Rủi ro về thị trường (100)
        • 4.2.5.2. Rủi ro về tài chính (101)
        • 4.2.5.3. Rủi ro về trình độ khoa học kĩ thuật và yếu tố tự nhiên (102)
      • 4.2.6. Phân tích thuận lợi và khó khăn của các tác nhân trong CGT (103)
        • 4.2.6.1. Phân tích các yếu tố vĩ mô có ảnh hưởng đến hoạt động thị trường của các tác nhân trong CGT (104)
        • 4.2.6.2. Phân tích các yếu tố vi mô có ảnh hưởng đến hoạt động thị trường của các tác nhân tham gia trong CGT cá tra (111)
  • CHƯƠNG 5: PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SẢN XUẤT CỦA CÁC HỘ NUÔI CÁ (121)
    • 5.1. GIỚI THIỆU (121)
    • 5.2. PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SẢN XUẤT VÀ XÁC ĐỊNH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT (122)
      • 5.2.1. Phương pháp thu thập thông tin (122)
        • 5.2.1.1. Thông tin thứ cấp (122)
        • 5.2.1.2. Thông tin sơ cấp (123)
      • 5.2.2. Đo lường và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến TE của các hộ nuôi (123)
        • 5.2.2.1. Mô hình ước lượng TE và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến TE (123)
        • 5.2.2.2. Mô tả số liệu thống kê của các biến trong mô hình (125)
        • 5.2.2.3. Phân tích TE (126)
      • 5.2.3. Đo lường và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến CE của các hộ nuôi (134)
        • 5.2.3.1. Mô hình ước lượng CE và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến CE (134)
        • 5.2.3.2. Mô tả số liệu thống kê của các biến trong mô hình (134)
        • 5.2.3.3. Phân tích CE (135)
  • CHƯƠNG 6: GIẢI PHÁP NÂNG CẤP CHUỖI GIÁ TRỊ CÁ TRA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (144)
    • 6.1. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT CỦA CÁC HỘ NUÔI CÁ (144)
      • 6.1.1. Thuận lợi và khó khăn của các hộ nuôi cá tra (144)
      • 6.1.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi cá tra ở ĐBSCL (145)
    • 6.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DNCBXK CÁ (151)
      • 6.2.1. Thuận lợi và khó khăn của các DNCBXK cá tra (151)
      • 6.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNCBXK cá tra (151)
  • CHƯƠNG 7: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (155)
    • 7.1. KẾT LUẬN (155)
    • 7.2. KIẾN NGHỊ (157)
      • 7.2.1. Đối với các cơ quan Trung Ương (157)
      • 7.2.2. Đối với Chính quyền và các cơ quan địa phương (158)
      • 7.2.3. Đối với Nhà khoa học (159)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (162)

Nội dung

Phân tích chuỗi giá trị và hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long.Phân tích chuỗi giá trị và hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long.Phân tích chuỗi giá trị và hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long.Phân tích chuỗi giá trị và hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long.Phân tích chuỗi giá trị và hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long.

GIỚI THIỆU

BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU

1.1.1 Bối cảnh lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm

Phương pháp phân tích chuỗi giá trị (CGT) được sử dụng để phát triển các chiến lược nhằm gia tăng giá trị sản phẩm và lợi nhuận cho toàn bộ chuỗi giá trị Nhiều tác giả và tổ chức quốc tế, như Porter (1985), Gereffi (1994, 1999), và Kaplinsky (1999, 2001), đã áp dụng phương pháp này để tối ưu hóa hiệu quả trong các lĩnh vực khác nhau.

(2005) Thêm vào đó, năm 2006, FAO cũng đã đưa ra những hướng dẫn cho việc phân tích một CGT Kế đó, đến 2007, cách tiếp cận liên kết chuỗi giá trị

"Valuelinks" được tổ chức GTZ áp dụng, và vào năm 2008, DFID đã triển khai phương pháp CGT nhằm cải thiện hiệu quả thị trường cho người nghèo.

Vào năm 2014, IFAD đã đề xuất phương pháp phân tích CGT tích hợp các tác nhân yếu thế vào CGT Các cách tiếp cận này đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, bao gồm nông nghiệp, thủy sản và du lịch.

Trong các nghiên cứu về chuỗi giá trị (CGT) trước đây, các tác giả đã áp dụng nhiều công cụ khác nhau, bao gồm cả phương pháp định tính và định lượng Các công cụ định tính như phân tích sự tương tác giữa các tác nhân, mối liên kết ngang và dọc, cùng với việc đánh giá chất lượng sản phẩm và điểm nghẽn trong CGT đã được sử dụng Bên cạnh đó, các công cụ định lượng như phân tích chi phí, lợi nhuận và phân phối thu nhập giữa các tác nhân cũng đóng vai trò quan trọng Tại Việt Nam, phương pháp tiếp cận CGT đang ngày càng được chú trọng và phát triển.

1 Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức (Gesellschaft Technische Zusammenarbeit)

2 Bộ Phát triển Quốc tế Anh (Department for International Development)

Quỹ Quốc tế về Phát triển Nông nghiệp (IFAD) đã được áp dụng rộng rãi từ sau năm 2000, với các nhà nghiên cứu Việt Nam kế thừa các phương pháp và công cụ để thực hiện nghiên cứu liên quan đến chuỗi giá trị (CGT) trong nhiều lĩnh vực kinh tế Để phát triển chiến lược nâng cấp CGT, nhiều tác giả đã kết hợp các công cụ phân tích như PEST, năm áp lực cạnh tranh của Porter và ma trận SWOT Phân tích CGT tập trung vào các yếu tố nội bộ, trong khi PEST và Porter phân tích các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động của các tác nhân trong CGT Ma trận SWOT kết hợp cả yếu tố nội bộ và bên ngoài để xây dựng các chiến lược nâng cấp CGT Các nghiên cứu tiêu biểu bao gồm nghiên cứu của Anton (2015) xây dựng khung chiến lược bằng cách kết hợp ba công cụ này, nghiên cứu của Barashkova (2018) về chiến lược marketing cho doanh nghiệp xây dựng tại Cộng hòa Czech, và nhiều nghiên cứu khác của Muzi và Wong (2014), Rutta (2015), Yildirim và Erbaṣ (2011), Farova (2011), và Anna (2015) liên quan đến quản trị chiến lược và phân tích môi trường trong các lĩnh vực khác nhau.

(2009) ở Hàn Quốc; Brnjas và Tripunoski (2015) ở Serbia Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc kết hợp các công cụ này với các công cụ phân tích CGT để xây dựng các giải

5 Chính trị/Thể chế; Kinh tế; Xã hội; Công nghệ (Political, Economical, Social, Technical)

6 Điểm mạnh, Điểm yếu, Cơ hội, Thách thức pháp hoặc chiến lược phát triển hoặc nâng cấp CGT ngành hàng thủy sản hầu như chưa được ứng dụng

Dựa vào bối cảnh và mục tiêu nghiên cứu, tác giả sẽ kết hợp các công cụ phân tích chuỗi giá trị (CGT) như vẽ sơ đồ chuỗi giá trị, phân tích tương tác giữa các tác nhân, mối liên kết ngang và dọc, nâng cấp CGT, phân tích rủi ro, và phân phối chi phí, giá trị gia tăng và lợi nhuận của các tác nhân trong CGT Ngoài ra, nghiên cứu cũng sử dụng ba công cụ phân tích PEST, năm áp lực cạnh tranh của Porter, và ma trận SWOT để đề xuất giải pháp nâng cấp CGT cho cá Tra ở ĐBSCL Chi tiết về các công cụ này sẽ được trình bày trong Chương 3.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về chuỗi giá trị (CGT) trong ngành nông nghiệp và đặc biệt là ngành cá tra, nhưng các nghiên cứu trước đây chủ yếu chỉ sử dụng phương pháp phân tích CGT một cách đơn lẻ mà chưa kết hợp với các phân tích định lượng khác Điều này đã hạn chế khả năng đề xuất các giải pháp nâng cao CGT, đặc biệt là trong việc hướng dẫn các hộ nuôi cá tra sử dụng hiệu quả các yếu tố đầu vào để tối ưu hóa sản xuất Nghiên cứu này kết hợp phân tích CGT với phân tích hiệu quả sản xuất (HQSX) nhằm đạt được mục tiêu nêu trên và bổ sung cho các nghiên cứu thực nghiệm trong lĩnh vực thủy sản, đặc biệt là ngành cá tra, đánh dấu một điểm mới trong phương pháp nghiên cứu.

Trước năm 2010, phương pháp đo lường hiệu quả sản xuất (HQSX) ở Việt Nam chủ yếu dựa vào Data Envelopment Analysis (DEA) và Stochastic Frontier Analysis (SFA) chưa phổ biến Từ năm 2010 trở đi, việc áp dụng hai phương pháp này đã gia tăng, đặc biệt trong ngành thủy sản, nơi DEA được ưa chuộng hơn SFA DEA có ưu điểm không cần xác định hàm sản xuất và phù hợp với nhiều đầu vào, đầu ra, nhưng lại không xem xét các yếu tố ngẫu nhiên bên ngoài Ngược lại, SFA khắc phục được nhược điểm của DEA và thích hợp trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, nơi có nhiều yếu tố tác động không kiểm soát Do đó, nghiên cứu này áp dụng SFA để nâng cao độ chính xác trong đo lường HQSX.

Từ đầu những năm 2000, thủy sản đã trở thành một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, với tôm và cá tra nổi bật Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu ngành thủy sản đạt 6,09 tỷ đô la Mỹ, chiếm 5,3% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước Sau khi gia nhập WTO năm 2006, xuất khẩu thủy sản tăng bình quân 10,4% mỗi năm từ 2006 đến 2012 Đến tháng 11 năm 2017, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,6 tỷ đô la Mỹ, mặc dù thị trường Mỹ giảm 2%, nhưng b bù lại, bốn thị trường lớn tiếp theo như EU, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc tăng trưởng gần 20%/năm Đến 2017, bốn thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc, chiếm 64% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản.

Trong giai đoạn 2006-2011, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 12,8%, nhưng từ 2012-2017, con số này giảm xuống còn 6,3% (VASEP, 2006, 2012 và 2018) Tốc độ tăng trưởng giảm chủ yếu do năm 2015 gặp nhiều khó khăn, bao gồm thuế chống bán phá giá cá tra tăng, biến động tỷ giá hối đoái làm giảm giá trị đồng VND, và sự sụt giảm mạnh lượng xuất khẩu tôm, cá tra và cá ngừ Ngoài ra, EU và Mỹ đã tăng cường quản lý và giám sát đối với thủy sản khai thác, cùng với rào cản kỹ thuật từ các nước nhập khẩu ngày càng gia tăng.

Quyết định của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) triển khai Chương trình Giám sát cá da trơn (FSIS) đối với cá tra nhập khẩu, có hiệu lực từ tháng 03/2016, đã dẫn đến sự sụt giảm đáng kể trong sản lượng xuất khẩu cá tra của Việt Nam.

Cá tra phi lê của Việt Nam là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng trong ngành thủy sản, đóng góp 28,6% và 21,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành, tương ứng với 1,745 tỷ USD vào năm 2012 và 1,785 tỷ USD vào năm 2017.

Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cá tra của Việt Nam đang gia tăng, cho thấy nhu cầu tiêu dùng sản phẩm này trên thị trường quốc tế Nghề nuôi cá tra đã mở rộng cả về diện tích và sản lượng, từ 3.797 ha và 500 ngàn tấn vào năm 2006 ở đồng bằng sông Cửu Long, lên 5.910 ha và 1,28 triệu tấn vào năm 2012 Đến năm 2017, diện tích nuôi đạt 6.078 ha với sản lượng 1,25 triệu tấn Số lượng thị trường xuất khẩu cũng tăng đáng kể, từ 51 quốc gia năm 2003 lên 142 quốc gia vào năm 2012 và hơn 160 quốc gia vào năm 2017 (VASEP, 2017).

Trong thời gian qua, nghề nuôi cá tra đã gặp phải một nghịch lý khi giá bán cá tra nguyên liệu tăng chậm hơn so với chi phí sản xuất, với mức tăng giá bán chỉ đạt 9,67% hàng năm trong giai đoạn 2007-2012, trong khi chi phí sản xuất tăng 12,2% Từ 2014-2017, giá bán cá tra nguyên liệu biến động mạnh, có lúc thấp hơn hoặc gần bằng giá thành sản xuất, dẫn đến tình trạng nhiều hộ nuôi ngưng hoạt động từ 2008-2016 Nguyên nhân chủ yếu là do giá xuất khẩu cá tra phi lê giảm và giá thức ăn thủy sản tăng Theo VASEP, giá cá tra phi lê xuất khẩu đã giảm từ gần 5 USD/kg (1997-1998) xuống còn 1,8 USD/kg vào năm 2012 Đồng thời, giá nguyên liệu chế biến thức ăn thủy sản như đậu tương khô và bột đạm cũng tăng trên thị trường thế giới Bên cạnh các yếu tố khách quan, khả năng kết hợp các yếu tố đầu vào của người nuôi còn hạn chế, dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp Sự mất cân đối giữa cung và cầu cá tra nguyên liệu cũng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi cá tra ở ĐBSCL.

Trong bối cảnh thị trường đầu ra gặp nhiều bất cập, việc tìm giải pháp cắt giảm chi phí sản xuất cho hộ nuôi cá tra trở nên cấp thiết Để đạt được điều này, cần dựa trên cơ sở khoa học để đo lường và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quy trình nuôi trồng.

VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Ngành hàng cá tra là một trong những ngành chủ lực của thủy sản Việt Nam, đóng góp gần 2 tỷ đô la mỗi năm cho nguồn ngoại tệ và tạo cơ hội việc làm cho người dân ĐBSCL Sự phát triển của ngành này nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, góp phần vào tái cơ cấu nông nghiệp của Nhà nước Tuy nhiên, cá tra Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức ảnh hưởng đến chuỗi giá trị, giảm năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế Do đó, phân tích chuỗi giá trị cá tra để tìm giải pháp nâng cao lợi nhuận cho các hộ nuôi cá tra là rất cần thiết Mặc dù nhiều nghiên cứu đã được thực hiện, nhưng chưa có ai kết hợp phân tích chuỗi giá trị với phân tích hiệu quả sản xuất để đề xuất giải pháp cải thiện hoạt động trong ngành Nghiên cứu này kỳ vọng sẽ đóng góp lý thuyết cho phân tích chuỗi giá trị và cung cấp thêm một nghiên cứu thực nghiệm sử dụng SFA để phân tích hiệu quả sản xuất trong ngành cá tra.

Cũng vậy, thông qua việc áp dụng phương pháp SFA để đo lường TE 7 và

CE 8 của các HSX cho đến thời điểm nghiên cứu này, còn rất hiếm tác giả sử dụng trong các nghiên cứu cho ngành hàng thủy sản nói chung và cho ngành hàng cá tra nói riêng Ngoài ra, nghiên cứu cũng sẽ hướng đến việc xác định các yếu tố có ảnh hưởng ý nghĩa đến các hệ số hiệu quả TE và CE để bổ sung thêm vào hệ thống các giải pháp nâng cấp CGT cá tra nói chung và giải pháp nâng cao HQSX của các hộ nuôi cá tra nói riêng Việc tiếp cận theo hướng cắt giảm chi phí sản xuất có ý nghĩa thực tế trong bối cảnh thị trường như hiện nay – phụ thuộc nhiều vào giá cả thị trường đầu ra, trong khi chi phí đầu vào có xu hướng gia tăng – do vậy, giải pháp mang tính bền vững cả trong ngắn hạn và dài hạn là làm sao cắt giảm được chi phí sản xuất để đối phó và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thương trường quốc tế Do vậy, việc phân tích HQSX của các hộ nuôi cá tra ở ĐBSCL một mặt đáp ứng được nhu cầu thực tế, một mặt hy vọng sẽ đóng góp thêm vào các nghiên cứu thực nghiệm đối với việc sử dụng SFA trong phân tích HQSX trong lĩnh vực thủy sản nói chung và cho ngành hàng cá tra nói riêng Do vậy, việc kết hợp phân tích CGT với phân tích HQSX, thông qua việc sử dụng SFA được xem là khoảng trống trong nghiên cứu về mặt lý thuyết mà trước đây chưa thấy các tác giả khác ứng dụng trong nghiên cứu trong lĩnh vực thủy sản nói chung và cá tra nói riêng

Nghiên cứu "Phân tích Chuỗi giá trị và Hiệu quả Sản xuất của các hộ nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long" là cần thiết, không chỉ vì tính phù hợp với bối cảnh thực tế mà còn vì nó góp phần bổ sung lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về phân tích chuỗi giá trị (CGT) và hiệu quả sản xuất (HQSX) trong lĩnh vực thủy sản, đặc biệt là ngành cá tra.

7 Hiệu quả kỹ thuật (Technical efficiency)

8 Hiệu quả chi phí (Cost efficiency)

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1.3.1 Mục tiêu chung Đề xuất các giải pháp nâng cấp CGT và nâng cao HQSX của các hộ nuôi cá tra ở ĐBSCL, thông qua việc phân tích CGT cá tra ở ĐBSCL và đo lường, đánh giá các yếu tố có ảnh hưởng đến HQSX của các hộ nuôi

1.3.2 Mục tiêu cụ thể Để đạt được mục tiêu chung nói trên, luận án này được thực hiện nhằm thỏa mãn các mục tiêu cụ thể sau:

(i) Phân tích CGT cá tra ở ĐBSCL để phát hiện các điểm nghẽn và thuận lợi trong hoạt động của các tác nhân tham gia trong CGT;

(ii) Phân tích HQSX và các yếu tố có ảnh hưởng đến HQSX của các hộ nuôi cá tra ở ĐBSCL;

Để nâng cấp chuỗi giá trị cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long, cần tập trung vào việc cải thiện hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1.4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là đánh giá hoạt động của các tác nhân tham gia trong CGT cá tra, để tìm ra những điểm nghẽn cần được cải thiện và các yếu tố kinh tế-kỹ thuật ảnh hưởng đến HQSX của các hộ nuôi cá tra ở ĐBSCL, đồng thời nhận diện được những thuận lợi cần được tận dụng và khai thác nhằm nâng cấp CGT

Nghiên cứu này tập trung vào hoạt động của hai tác nhân chính trong chuỗi giá trị ngành hàng cá tra ở ĐBSCL, bao gồm các hộ nuôi và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu (DNCBXK) Luận án phân tích hiệu quả sản xuất thông qua việc xem xét chi phí, nhằm đề xuất các giải pháp cắt giảm chi phí sản xuất thay vì chỉ tập trung vào việc nâng cao năng suất hay sản lượng.

Luận án tập trung nghiên cứu tại bốn tỉnh có diện tích nuôi cá tra lớn nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm thành phố Cần Thơ, tỉnh An Giang, tỉnh Đồng Tháp và tỉnh Vĩnh Long.

DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án áp dụng các công cụ phân tích định tính và định lượng từ các phương pháp nghiên cứu trước đây như Valuelinks, M4P, DFID, IFAD, FAO nhằm xác định những điểm nghẽn và thuận lợi trong chuỗi giá trị cá tra Dữ liệu phân tích được thu thập từ hộ nuôi, nhà cung cấp đầu vào, doanh nghiệp xuất khẩu, và các chuyên gia trong lĩnh vực thủy sản Đối với mục tiêu thứ hai, phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (SFA) được sử dụng để đánh giá hiệu quả sản xuất và các yếu tố nhân khẩu học ảnh hưởng đến hiệu quả này, dựa trên thông tin từ hộ nuôi và tài liệu nghiên cứu Để hoàn thành mục tiêu thứ ba, nghiên cứu áp dụng các công cụ phân tích định tính và định lượng, kết hợp với mô hình PEST và mô hình 5 áp lực cạnh tranh của M Porter, nhằm phân tích tác động của các yếu tố môi trường bên ngoài đến hoạt động của các tác nhân trong chuỗi giá trị Dữ liệu cho phân tích này cũng được thu thập từ các đối tượng tương tự như mục tiêu 1 và 2.

Từ kết quả phân tích đạt được, tổng hợp với kết quả phân tích đạt được từ mục tiêu

Bằng cách áp dụng công cụ phân tích ma trận SWOT, tác giả đề xuất các giải pháp nâng cấp chuỗi giá trị thủy sản, tập trung vào việc cải thiện hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu (DNCBXK) và hộ nuôi cá tra tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Ý NGHĨA CỦA NGHIÊN CỨU

Theo khảo sát tài liệu từ các cơ sở dữ liệu điện tử trong nước và các tạp chí nghiên cứu khoa học quốc tế, tính đến cuối năm, chúng tôi đã thu thập được nhiều thông tin quý giá.

Tính đến năm 2017, chưa có nghiên cứu nào về sản phẩm cá tra ở Việt Nam áp dụng phương pháp kết hợp phân tích chuỗi giá trị (CGT) với phân tích biên ngẫu nhiên SFA hoặc DEA nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL Mặc dù một số tác giả đã áp dụng phân tích tương tự cho cây trồng, nhưng họ chỉ sử dụng phương pháp DEA, không tính đến các sai số do yếu tố bên ngoài không kiểm soát, điều này đặc biệt quan trọng trong ngành thủy sản Do đó, việc kết hợp đồng thời CGT, mô hình PEST, mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Porter và SFA trong nghiên cứu này được coi là một đóng góp lý thuyết mới.

Một trong những đóng góp mới của luận án là nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cắt giảm chi phí sản xuất trong phát triển CGT cá tra Mặc dù việc tăng cường mối liên kết dọc giữa các hộ sản xuất cũng đóng góp quan trọng, nhưng nghiên cứu cho thấy rằng giải pháp cắt giảm chi phí sản xuất trở nên ưu tiên hơn trong bối cảnh hiện tại.

Một điểm mới trong mối liên kết giữa các DNCBXK và hộ sản xuất là hình thức nuôi gia công, điều này chưa phổ biến trong các nghiên cứu trước đây về CGT cá tra ở ĐBSCL Việc áp dụng phương pháp SFA và DEA để ước lượng hiệu quả kỹ thuật và chi phí giúp các chuyên gia khuyến nông có thể kế thừa kết quả nghiên cứu, từ đó phát triển các mô hình trình diễn dựa trên những hộ có hiệu quả cao Điều này sẽ góp phần hoàn thiện quy trình kỹ thuật và kinh tế, và mở rộng mô hình nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất cho các hộ nuôi.

CẤU TRÚC CỦA NGHIÊN CỨU

Luận án được chia thành 7 chương, bắt đầu với Chương 1 “Giới thiệu” nêu rõ tính cấp thiết của dự án, vấn đề, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu, cùng với dữ liệu và phương pháp nghiên cứu tổng quát Chương 2 “Tổng quan tài liệu nghiên cứu” trình bày các nghiên cứu liên quan nhằm xây dựng khung lý thuyết và khung phân tích cho luận án Tiếp theo, Chương 3 “Phương pháp nghiên cứu” giới thiệu các công cụ phân tích CGT và SFA, tạo nền tảng cho việc đưa ra kết quả nghiên cứu khoa học Chương 4 “Phân tích chuỗi giá trị cá tra ở ĐBSCL” sử dụng các công cụ phân tích CGT để phát hiện điểm nghẽn trong hoạt động thị trường, đồng thời chỉ ra thuận lợi và khó khăn của các tác nhân tham gia Chương 5 “Phân tích HQSX của các hộ nuôi cá tra ở ĐBSCL” áp dụng phương pháp SFA để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất Chương 6 “Giải pháp nâng cấp CGT và nâng cao HQSX” đề xuất các giải pháp dựa trên kết quả phân tích trước đó, sử dụng công cụ phân tích ma trận SWOT Cuối cùng, Chương 7 tổng kết những kết quả đạt được và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo.

Chương “Kết luận và Kiến nghị” sẽ tóm tắt các kết quả nghiên cứu đạt được theo mục tiêu đã đề ra, đồng thời đưa ra những kiến nghị cụ thể cho từng tổ chức và các tác nhân tham gia trong CGT Những kiến nghị này nhằm hướng dẫn cách thức can thiệp và hỗ trợ để thực thi các giải pháp đã được trình bày trong Chương 6.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ

Thị trường tiêu thụ cá tra của ĐBSCL đã phát triển mạnh mẽ trong 20 năm qua, nhưng gần đây đã gặp nhiều khó khăn như rào cản kỹ thuật từ các nước nhập khẩu, thuế chống bán phá giá tăng từ Bộ Thương mại Mỹ, và cạnh tranh gia tăng từ sản phẩm thay thế Nhu cầu nhập khẩu từ hai thị trường lớn (Mỹ và EU) đang giảm, trong khi giá nguyên liệu cho thức ăn thủy sản liên tục tăng, dẫn đến khó khăn trong xuất khẩu cá tra phi lê và thu nhập không ổn định cho các hộ nuôi Hơn nữa, sự lỏng lẻo trong liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu và các nhà cung cấp đầu vào đã tạo ra mất cân đối cung-cầu, khiến nhiều hộ nuôi rời bỏ ngành và làm tăng giá thành sản phẩm, từ đó làm giảm thị phần và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.

Trong 20 năm qua, nghề nuôi cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL đã phát triển mạnh mẽ, với sự gia tăng về quy mô diện tích và năng suất, góp phần cung cấp nguồn nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu Tuy nhiên, ngành nuôi cá tra hiện đang đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm giá thức ăn thủy sản tăng cao, nguồn cung con giống sạch bệnh hạn chế, và thiếu liên kết giữa các hộ nuôi và nhà cung cấp Mặc dù đã có sự hỗ trợ từ các tổ chức địa phương nhằm nâng cao năng lực sản xuất, nhưng trình độ sản xuất của các hộ nuôi vẫn còn hạn chế Nghiên cứu này phân tích chuỗi giá trị cá tra ở ĐBSCL bằng các công cụ phân tích định tính và định lượng, nhằm phát hiện những điểm nghẽn và cơ hội trong chuỗi giá trị Từ đó, tác giả mong muốn đề xuất giải pháp giúp các hộ nuôi nâng cao thu nhập, thay đổi hành vi sản xuất theo định hướng thị trường, và tối đa hóa lợi nhuận bằng cách cắt giảm chi phí sản xuất Việc phân tích chuỗi giá trị là cần thiết để đạt được những mục tiêu này.

3.1.2 Các công cụ được sử dụng trong phân tích chuỗi giá trị

3.1.2.1 Vẽ sơ đồ chuỗi giá trị

Vẽ sơ đồ chuỗi giá trị (CGT) là công cụ thiết yếu trong phân tích CGT, giúp dễ dàng nhận diện đường đi của sản phẩm trong chuỗi Mục tiêu của việc vẽ sơ đồ CGT bao gồm khái quát hóa CGT, xác định cản trở và giải pháp để vượt qua chúng, mô tả các tác nhân tham gia và mối liên kết giữa họ, cũng như vai trò của các tác nhân trong thị trường Khi thực hiện sơ đồ CGT, cần xem xét các khâu chính trong chuỗi, các tác nhân và chức năng của họ, số lượng kênh phân phối, tỷ trọng sản phẩm qua các kênh, giá trị gia tăng qua từng khâu, các mối quan hệ hiện có, dịch vụ hỗ trợ CGT, cùng với các cản trở và giải pháp khả thi, cũng như các dòng sản phẩm đang được sản xuất và tiêu thụ trong CGT.

Khi sử dụng công cụ này, các bước cần thực hiện bao gồm: vẽ các khâu chính của chuỗi giá trị (CGT); xác định các tác nhân tham gia trong từng khâu; xác định luồng sản phẩm qua các khâu; mô tả thông tin và kiến thức được chia sẻ giữa các tác nhân; mô tả lượng sản phẩm và số tác nhân qua các kênh phân phối; mô tả giá trị gia tăng của sản phẩm qua từng khâu; mô tả mối quan hệ giữa các tác nhân; mô tả dịch vụ từ bên ngoài hỗ trợ CGT; và mô tả các cản trở cùng giải pháp để tháo gỡ Kết quả cuối cùng sau khi hoàn thành các bước này sẽ được tóm tắt trong một sơ đồ CGT.

3.1.2.2 Phân tích cơ chế quản trị giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị

Phân tích này nhằm khảo sát các quy tắc hoạt động trong chuỗi giá trị (CGT) giữa các tác nhân, bao gồm cả quy tắc chính thức và phi chính thức Nó tập trung vào ba vấn đề chính: cấu trúc phối hợp giữa các tác nhân, luật lệ và quy định trong và ngoài CGT, cùng với cơ chế kiểm soát thông tin và dịch vụ Mục tiêu của phân tích là hiểu cách thức sắp xếp CGT, mô tả các quy tắc và tiêu chuẩn ảnh hưởng đến CGT, đánh giá tác động của các quy tắc này đến các tác nhân, và xác định lợi ích mà các tác nhân nhận được từ sự hỗ trợ bên ngoài Các vấn đề chính được đặt ra bao gồm hệ thống phối hợp hiện tại có đáp ứng mục tiêu thương mại không, ai là những tác nhân chính trong CGT, và sự phối hợp dựa vào hợp đồng pháp lý hay thỏa thuận phi chính thức Ngoài ra, cần xác định quy tắc nào cần thực hiện, ai đưa ra các quy tắc này và ảnh hưởng của chúng đến các tác nhân trong CGT.

Khi sử dụng công cụ này, các bước cần thực hiện bao gồm mô tả các tác nhân và xác định điều kiện cung cầu của CGT Tiếp theo, cần xác định sự sắp xếp phối hợp chính trong CGT và phân tích cách các nhóm tác nhân mục tiêu tham gia Bên cạnh đó, việc xác định các quy tắc và luật lệ liên quan đến hoạt động của CGT là rất quan trọng Phân tích tác động của các quy tắc và luật lệ đến các tác nhân tham gia trong CGT cũng cần được thực hiện Ngoài ra, cần xem xét nhận thức của các tác nhân về các quy tắc và luật lệ, đồng thời xác định các điểm nghẽn chính Cuối cùng, cần phân tích thông tin và dịch vụ mà các tác nhân tham gia trong CGT nhận được từ CGT và từ các tác nhân bên ngoài.

3.1.2.3 Phân tích mối liên kết và quan hệ thương mại của các tác nhân trong CGT

Sự tin cậy và mối liên kết trong chuỗi giá trị (CGT) có mối quan hệ chặt chẽ với nhau Các tổ chức không có sự liên kết thường thiếu lý do để tin tưởng lẫn nhau, trong khi sự tin cậy có thể trở nên không quan trọng nếu có cơ chế bắt buộc thực hiện cam kết hiệu quả Tuy nhiên, nếu không có cơ chế như vậy, sự liên kết thiếu lòng tin sẽ không bền vững Phân tích này không chỉ xác định các tổ chức liên kết mà còn lý do và lợi ích của sự liên kết đó Nó cũng chỉ ra những cản trở và tiềm năng phát triển dựa trên lòng tin giữa các bên Các mối liên kết trong CGT bao gồm liên kết ngang và liên kết dọc Mục tiêu của phân tích là mô tả và đánh giá tác động, tính bền vững của các mối liên kết Những câu hỏi quan trọng trong phân tích bao gồm loại mối liên kết nào đang tồn tại, tầm quan trọng của chúng, số lượng tác nhân tham gia, cũng như chi phí và lợi ích của các mối liên kết.

Khi sử dụng công cụ này, các bước thực hiện bao gồm mô tả cấu trúc của đáp viên được phỏng vấn về các liên kết ngang và dọc, xác định các mối liên kết này, khảo sát các tác nhân, phân tích kết quả khảo sát, xác định sự phân phối quyền lực giữa các tác nhân trong CGT, và phân tích mức độ tin cậy giữa các tác nhân.

3.1.2.4 Phân tích những lựa chọn nâng cao tiềm năng về kiến thức, kỹ năng, công nghệ và dịch vụ hỗ trợ

Công cụ này giúp phân tích các điểm nghẽn giữa yêu cầu chất lượng của thị trường và nhận thức về chất lượng từ các tác nhân trong chuỗi giá trị (CGT) Qua đó, chúng tôi sẽ xác định những cơ hội để nâng cao kiến thức, kỹ năng và công nghệ, đồng thời tìm ra các nhà cung cấp dịch vụ tiềm năng cho thị trường.

Mục tiêu của công cụ này là phân tích hiệu quả kỹ thuật trong CGT, phân loại các kỹ thuật hiện có và yêu cầu, và đánh giá sự phù hợp của các kỹ thuật được sử dụng Nó cũng nhằm phân tích các lựa chọn nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra và tác động của đầu tư bên ngoài về kiến thức và kỹ thuật Các vấn đề cần xem xét bao gồm tiêu chuẩn sản phẩm hiện tại trên thị trường, công nghệ và chất lượng sản phẩm của các tác nhân trong CGT, cũng như nhận thức về chất lượng giữa họ Bên cạnh đó, cần xác định ai là người định hướng và đầu tư công nghệ, tổ chức kiểm tra chất lượng, và mức độ kiến thức, kỹ năng của các tác nhân có đủ để đáp ứng yêu cầu thị trường hay không Ngoài ra, cần xem xét các can thiệp nâng cao đã thử nghiệm trước đây, các lựa chọn hiện có trên thị trường, và ai là người dẫn dắt những thay đổi cũng như sẵn lòng chia sẻ Cuối cùng, cần phân tích chi phí và lợi nhuận của công nghệ đang sử dụng và ai có thể cung cấp giải pháp nâng cao.

Các bước sử dụng công cụ này bao gồm: phân tích sự khác biệt trong công nghệ, kỹ năng và kiến thức của các tác nhân trong cùng một khâu của chuỗi giá trị (CGT); xác định và mô tả tiêu chuẩn sản phẩm từ cả hai phía cung và cầu; phân loại các chuỗi thị trường dựa trên kiến thức, kỹ năng, công nghệ và chất lượng sản phẩm; xác định cơ hội nâng cao kỹ năng, kiến thức và công nghệ nhằm cải thiện CGT; và phân tích các dịch vụ cần thiết để phát triển kiến thức, kỹ năng và công nghệ, cùng với việc xác định những nhà cung cấp dịch vụ tiềm năng.

3.1.2.5 Phân tích phân phối chi phí, giá trị gia tăng và giá trị gia tăng thuần (lợi nhuận) của các tác nhân trong CGT

Trước khi quyết định tham gia thị trường, nhà sản xuất cần xác định ngành hàng mang lại lợi nhuận cao nhất bằng cách phân tích thu nhập, chi phí và lợi nhuận Chi phí là số tiền cần thiết để sản xuất sản phẩm, trong khi lợi nhuận là số tiền thu được sau khi trừ chi phí Có năm mục tiêu chính khi sử dụng công cụ phân tích này: xác định chi phí hoạt động và đầu tư giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị (CGT); phân phối lợi nhuận giữa các tác nhân; theo dõi sự thay đổi chi phí và lợi nhuận theo thời gian; so sánh lợi nhuận của các chuỗi hàng hóa khác nhau để xem có nên thay đổi ngành kinh doanh; và so sánh lợi nhuận giữa các chuỗi sản phẩm tương tự để đánh giá khả năng nâng cấp CGT Các câu hỏi quan trọng cần trả lời bao gồm chi phí của mỗi tác nhân, đầu tư cần thiết, thu nhập và lợi nhuận của các tác nhân, điểm hòa vốn, cùng với sự thay đổi theo thời gian và phân phối cho các tác nhân Ngoài ra, cần xem xét chi phí cơ hội khi tham gia CGT và so sánh lợi nhuận với các CGT tương tự ở nơi khác, cùng nguyên nhân của việc phân chia chi phí và lợi nhuận.

Các bước sử dụng công cụ này bao gồm xác định chi phí cơ hội hoặc chi phí tài chính khi tham gia vào CGT, tính toán chi phí và các khoản đầu tư cần thiết, cũng như thu nhập của các tác nhân Ngoài ra, cần tính toán các chỉ số tài chính như giá trị gia tăng, phần trăm phân bổ giá trị gia tăng, lợi nhuận và phần trăm phân phối lợi nhuận.

Trong phân tích tài chính, tổng doanh thu (TR) được tính bằng sản lượng sản phẩm bán ra trên thị trường nhân với đơn giá bán Tổng chi phí bao gồm chi phí bất biến và chi phí khả biến, trong đó chi phí trung gian (IC) là những chi phí trực tiếp mà nhà sản xuất phải chi để tạo ra sản phẩm Chi phí gia tăng (AC) bao gồm thuế, lãi phải trả, thuê mướn lao động và khấu hao tài sản cố định Giá trị gia tăng (VA) được xác định là chênh lệch giữa TR và IC, trong khi giá trị gia tăng thuần hay lợi nhuận (NVA hay P) là chênh lệch giữa VA và AC.

3.1.2.6 Phân tích mô hình PEST

PEST là viết tắt của bốn yếu tố: Chính trị, Kinh tế, Văn hóa-Xã hội và Công nghệ, được sử dụng để phân tích ảnh hưởng của các chính sách và thể chế trong và ngoài nước đến hoạt động của các tác nhân trong chuỗi giá trị Phân tích này giúp đánh giá tác động tích cực hoặc tiêu cực của các chính sách liên quan đến thuế, xuất nhập khẩu và môi trường.

PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SẢN XUẤT

3.2.1 Tổng quan lý thuyết đo lường hiệu quả sản xuất

3.2.1.1 Các khái niệm cơ bản về hiệu quả sản xuất

Có sự khác biệt giữa năng suất (Productivity) và hiệu quả (Efficiency) Năng suất được định nghĩa là một chỉ số tỷ lệ, trong khi hiệu quả là tỷ số giữa sản lượng đầu ra và nhập lượng đầu vào Mặc dù hai khái niệm này có thể được sử dụng tương tự, nhưng theo Coelli và cộng sự (1998), hiệu quả phản ánh khả năng của một hộ sản xuất (HSX) đạt sản lượng tối đa từ các nhập lượng hiện có, cho thấy HSX hoạt động một cách hiệu quả.

Để đạt hiệu quả sản xuất, các hộ sản xuất có thể áp dụng hai phương pháp: tăng lượng đầu ra trong khi giữ nguyên lượng đầu vào, hoặc giảm lượng đầu vào mà vẫn duy trì được lượng đầu ra không đổi (Rogers, 1998).

Hình 3.3 Biên sản xuất và hiệu quả kỹ thuật

Hiệu quả bao gồm hai thành phần chính: hiệu quả kỹ thuật (TE) và hiệu quả phân phối (AE) Hiệu quả kỹ thuật (TE) đạt được khi một hộ sản xuất (HSX) sản xuất tối đa sản lượng với các yếu tố đầu vào hiện có Ngược lại, hiệu quả phân phối (AE) xảy ra khi HSX lựa chọn kết hợp tối ưu giữa các yếu tố đầu vào với giá cả và công nghệ sẵn có Do đó, một HSX không thể kết hợp các yếu tố đầu vào một cách hiệu quả với giá cả và công nghệ hiện tại sẽ không đạt hiệu quả phân phối, mặc dù có thể đạt được hiệu quả kỹ thuật.

TE và AE sẽ tạo ra hiệu quả chung Khi một HSX tạo ra được sản lượng tối đa từ

Nhập lượng (X) từ một tập hợp nhập lượng sẵn có với chi phí thấp nhất giúp xác định HSX đạt hiệu quả chung Khái niệm về TE được minh họa rõ hơn qua Hình 3.3.

Các điểm A, B và C thể hiện mối quan hệ giữa nhập lượng và xuất lượng của ba hệ sản xuất khác nhau, đồng thời chỉ ra mức độ năng suất tương ứng của mỗi hệ Đường OQ biểu thị mức xuất lượng tối đa có thể đạt được từ các mức nhập lượng khác nhau, được gọi là "Đường biên sản xuất" (Coelli và cộng sự, 1996) Những hệ sản xuất nằm trên đường biên được coi là đạt hiệu quả kỹ thuật (TE), trong khi những hệ sản xuất dưới đường biên được xem là hoạt động không hiệu quả Do đó, các hệ sản xuất tại điểm B và C trên đường biên được đánh giá là đạt TE.

HSX A được coi là không hiệu quả về mặt kỹ thuật vì có khả năng gia tăng năng suất bằng cách dịch chuyển điểm sản xuất từ Y1 đến Y2 Tại điểm C, HSX hoạt động với mức xuất lượng Y1 nhưng sử dụng lượng nhập thấp hơn, trong khi HSX A đạt cùng mức xuất lượng Y1 nhưng cần nhiều nhập lượng hơn Do đó, đường biên sản xuất thể hiện tất cả các điểm hiệu quả kỹ thuật (TE).

Việc đo lường hiệu quả sản xuất với một xuất lượng và một nhập lượng duy nhất khá đơn giản (Rogers, 1998) Tuy nhiên, khi sản xuất nhiều xuất lượng và sử dụng nhiều nhập lượng, việc xác định chỉ số xuất lượng trên nhập lượng trở nên phức tạp Do đó, các nhà nghiên cứu đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để đo lường hiệu quả, dẫn đến việc các phương pháp này có thể đưa ra những con số khác nhau.

Do vậy, việc lựa chọn cách đo lường hiệu quả thích hợp trở nên rất quan trọng để tránh những sai lệch trong kết quả (Diewert 1992)

Năng suất và hiệu quả có thể được đo lường theo hai cách: năng suất nhân tố từng phần (PFP) và năng suất nhân tố tổng (TFP) Năng suất nhân tố từng phần đề cập đến sự thay đổi mức xuất lượng do sự thay đổi của một nhập lượng, trong khi năng suất nhân tố tổng phản ánh sự thay đổi mức xuất lượng do sự thay đổi của nhiều nhập lượng.

Việc đo lường PFP chỉ tập trung vào một yếu tố duy nhất, mà không xem xét tác động của các yếu tố khác đến sản lượng (Rogers).

1998) Năng suất lao động và thu nhập trên tài sản đầu tư là những thí dụ của PFP

Theo Coelli và cộng sự (1996), PFP không cung cấp thông tin tốt hơn so với TFP vì nó chỉ phản ánh một khía cạnh của hiệu suất Ngược lại, Fried và cộng sự (1993) cho rằng PFP có thể hữu ích trong những trường hợp mà mục tiêu của nhà sản xuất hoặc các ràng buộc mà hệ thống sản xuất phải đối mặt không rõ ràng và không theo một quy chuẩn nào.

Theo hướng tiếp cận PFP, kỹ thuật đo lường hiệu quả sử dụng hàm biên sản xuất, với phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (SFA) là phổ biến Ngược lại, theo hướng tiếp cận TFP, hiệu quả được đo lường thông qua công cụ quy hoạch tuyến tính, với phương pháp phân tích bao phủ dữ liệu (DEA) được ứng dụng rộng rãi.

3.2.1.2 Sử dụng phân tích bao phủ số liệu (Data Envelopment Analysis –

Theo Farrell (1957), hiệu quả của một hệ thống sản xuất (HSX) được đo bằng hai chỉ số chính: hiệu quả kỹ thuật (TE) phản ánh khả năng đạt sản lượng tối đa từ các yếu tố đầu vào sẵn có hoặc sử dụng ít yếu tố đầu vào nhất để đạt sản lượng nhất định; và hiệu quả phân phối (AE) đo lường khả năng sử dụng các yếu tố đầu vào theo tỷ lệ tối ưu trong điều kiện giá cả và công nghệ hiện tại Tích số của hai chỉ số này cho thấy hiệu quả chi phí (CE) của hệ thống sản xuất.

Theo Farrell (1957), hiệu quả có thể được đo lường theo hai cách: định hướng đến nhập lượng và định hướng đến xuất lượng Ví dụ, một HSX sử dụng hai nhập lượng (x1 và x2) để sản xuất xuất lượng (y) với giả thuyết thu nhập qui mô không đổi Đường đồng lượng đơn vị SS’ giúp giải thích kỹ thuật sử dụng và đo lường hiệu quả kỹ thuật (TE) của HSX Khi HSX hoạt động trên đường SS’, nó được coi là đạt hiệu quả kỹ thuật hoàn toàn Nếu HSX hoạt động tại điểm K, không hiệu quả được đo bằng khoảng cách IK, phản ánh lượng nhập lượng có thể giảm mà không làm giảm xuất lượng Tỷ lệ này được tính bằng tỷ số OK/OI, thể hiện phần trăm nhập lượng cần giảm để đạt TE hoàn toàn TE của HSX được đo lường theo công thức cụ thể.

TEi = OI/OK (3.2) Hoặc TEi = 1 – IK/OK (3.3)

Giá trị của TEi dao động từ 0 đến 1, trong khi tỷ số IK/OK phản ánh mức độ không hiệu quả về mặt kỹ thuật của HSX thứ i Ví dụ, nếu HSX thứ i có hệ số kỹ thuật TE là 0,6 (60%), điều này cho thấy HSX thứ i có khả năng giảm 40% lượng nhập vào nhưng vẫn đạt được 1 đơn vị sản lượng y Nếu TE đạt giá trị 1, điều này chỉ ra rằng HSX thứ i hoạt động hoàn toàn hiệu quả, như thể hiện tại điểm I trên đường đồng lượng SS’.

Nếu tỷ số giá cả giữa hai nhập lượng x1 và x2 được thể hiện qua đường đồng phí HH’ trong hình 3.4, thì AE của HSX thứ i hoạt động tại điểm K có thể được tính toán theo công thức 3.3.

PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CÁ TRA

PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SẢN XUẤT CỦA CÁC HỘ NUÔI CÁ

GIẢI PHÁP NÂNG CẤP CHUỖI GIÁ TRỊ CÁ TRA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Ngày đăng: 21/07/2021, 15:47

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w