TỔNG QUAN
Định nghĩa bệnh lao
Bệnh lao, do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra, là một bệnh truyền nhiễm có thể ảnh hưởng đến mọi bộ phận của cơ thể Trong đó, lao phổi là thể bệnh phổ biến nhất, chiếm 80-85% tổng số ca mắc và là nguồn lây chính cho những người xung quanh.
Dịch tễ bệnh lao
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), năm 2017 ghi nhận 10 triệu ca mắc bệnh lao mới, với 2/3 số ca tập trung tại 8 quốc gia, bao gồm Ấn Độ (27%), Trung Quốc (9%), Indonesia (8%), Philippines (6%), Pakistan (5%), Nigeria (4%), Bangladesh (4%) và Nam Phi (3%) Hiện tại, lao phổi là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu, nằm trong top 10 nguyên nhân tử vong hàng năm.
Hiện nay, việc điều trị bệnh lao gặp nhiều khó khăn do tỷ lệ lao kháng thuốc đang gia tăng Cụ thể, tỷ lệ lao kháng đa thuốc đạt 4,8%, trong khi tỷ lệ lao kháng thuốc tiên phát với ít nhất một loại thuốc là 17%, dao động từ 0% đến 56,3% Tỷ lệ kháng isoniazid là 10,3%, và tỷ lệ kháng đa thuốc biến động từ 0% đến 22,3%.
Ngoài ra, ước tính rằng có khoảng 37% các trường hợp không được chẩn đoán và phát hiện (do tâm lý dấu bệnh hoặc kỹ thuật cận lâm sàng yếu) [10]
Tỷ lệ mắc bệnh lao năm 2017 của Việt Nam là 129/100.000 dân, nằm trong
Theo thống kê, có 30 quốc gia có số người mắc bệnh lao cao nhất thế giới, trong đó 20 nước chịu gánh nặng bệnh lao đa kháng thuốc Chiến lược Quốc gia phòng, chống lao đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2014, đặt mục tiêu giảm tỷ lệ mắc bệnh lao xuống dưới 20/100.000 dân vào năm 2030.
Năm 2015, Việt Nam đã phát hiện và điều trị thành công 102.655 bệnh nhân lao, với tỷ lệ điều trị khỏi vượt quá 90% Đặc biệt, Việt Nam nằm trong nhóm năm quốc gia hàng đầu thế giới về tỷ lệ điều trị thành công lao kháng thuốc.
Bệnh học bệnh lao
Vi khuẩn lao do Robert Koch tìm ra năm 1882, vì vậy, nó còn được gọi là Bacillus Koch [3]
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Vi khuẩn lao có các đặc điểm sau:
Trực khuẩn ái khí có khả năng tồn tại trong môi trường tự nhiên từ 3 đến 4 tháng, do đó vi khuẩn lao thường phát triển chủ yếu ở phổi, nơi diễn ra quá trình trao đổi khí với môi trường xung quanh.
- Sinh sản chậm, thời gian nhân đôi là 12-55 giờ [6,14] Do đó, việc sử dụng phác đồ kháng sinh trong điều trị lao cần tuân thủ vô cùng chặt chẽ
- Vi khuẩn lao kháng cồn – kháng acid, bắt màu đỏ trên tiêu bản nhuộm Ziehl – Neelsen [6,25]
Cấu trúc thành của vi khuẩn lao bao gồm lớp ngoài kị nước, chứa acid mycolic và lipid, giúp vi khuẩn tồn tại lâu trong môi trường Cấu trúc này không chỉ chống lại cơ chế đề kháng của cơ thể mà còn làm cho vi khuẩn kháng với các loại kháng sinh thông thường.
Người mắc bệnh lao, đặc biệt là những bệnh nhân lao phổi có AFB (+), được coi là nguồn lây chính Trên toàn cầu, khoảng 1/3 dân số mang vi khuẩn lao tiềm tàng, tức là họ có vi khuẩn trong cơ thể nhưng chưa phát triển thành bệnh và không lây lan cho cộng đồng.
Bệnh lao lây lan chủ yếu qua đường hô hấp, khi vi khuẩn lao phát tán vào không khí từ những người mắc bệnh thông qua việc nói chuyện, ho hoặc khạc Những vi khuẩn này có thể dễ dàng nhiễm vào cơ thể người khỏe mạnh.
Ngoài ra, bệnh lao còn có thể lây qua những đường khác như đường máu, đường tiêu hóa
Những đối tượng dễ mắc bệnh lao bao gồm:
Thứ nhất, người có hệ miễn dịch suy giảm [1]:
- Người bệnh nhiễm HIV/AIDS nằm trong nhóm có nguy cơ mắc lao rất cao
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trong giai đoạn 2008 - 2011, hơn 1/3 người nhiễm HIV cũng mắc lao Bệnh lao là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở người nhiễm HIV, chiếm khoảng 25% tổng số ca tử vong trong nhóm này.
Sử dụng thuốc ức chế miễn dịch trong thời gian dài có thể dẫn đến suy giảm hệ miễn dịch, đặc biệt ở những bệnh nhân điều trị ung thư bằng hóa chất Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm nhập và phát triển của vi khuẩn lao.
Người tiếp xúc với nguồn lây bệnh lao phổi AFB (+) có nguy cơ cao, đặc biệt là những người sống và sinh hoạt chung Bệnh lao chủ yếu lây qua đường hô hấp.
Người tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân lao phổi có nguy cơ cao nhiễm vi khuẩn lao, với tỷ lệ nhiễm lao tiềm ẩn là 4,2% ở Nam châu Phi, 1,7% ở Việt Nam và 0,03% ở Mỹ Nghiên cứu của Đỗ Phúc Thanh và cộng sự tại Bình Định cho thấy 36,5% người nhà bệnh nhân lao phổi AFB (+) có kết quả IGRAs dương tính, trong đó 5% phát sinh bệnh lao sau 12 tháng tiếp xúc và 7% sau 18 tháng tiếp xúc.
Thứ ba, đối tượng nghiện rượu, bia, người hút thuốc lá [1,14]
Thứ tư, người mắc bệnh đái tháo đường hay các bệnh mạn tính khác [1,14]
Ngoài ra, yếu tố môi trường cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển của vi khuẩn lao, tác động lên sức khỏe cộng đồng [1]
Có nhiều cách phân loại bệnh lao:
Theo cơ quan tổn thương: lao phổi, lao màng phổi, lao hạch, lao da, lao màng não…[1] Trong đó, lao phổi là thể hay gặp nhất
Theo độ tuổi: Lao trẻ em và lao người lớn [1]
Theo điều trị: Lao mới, lao tái phát, lao kháng thuốc [1], cụ thể:
Lao mới: người bệnh chưa bao giờ dùng thuốc chống lao hoặc mới dùng thuốc chống lao dưới 1 tháng [14]
Lao tái phát là tình trạng xảy ra khi người bệnh đã được chẩn đoán và điều trị lao, hoàn thành ít nhất một phác đồ điều trị, nhưng sau đó lại xuất hiện các triệu chứng và được chẩn đoán mắc lao một lần nữa.
Lao kháng thuốc: Người bệnh không đáp ứng với phác đồ điều trị [14]
Nguyên nhân có thể do nhiễm chủng vi khuẩn lao kháng thuốc hoặc điều trị không đúng các nguyên tắc
1.3.4 Triệu chứng lâm sàng của người bệnh lao phổi
Người bệnh mắc lao thường có các triệu chứng sau:
- Người bệnh sút cân nhanh, chán ăn, mệt mỏi [17]
- Người bệnh thường ra nhiều mồ hôi về đêm, sốt nhẹ về chiều [17]
- Ho là triệu chứng kéo dài thường gặp nhất [3,17] Có thể ho khan hoặc ho có đờm Ở giai đoạn sau, người bệnh có thể ho ra máu
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
- Đau ngực vùng tổn thương, có thể khó thở [17]
Tuy nhiên, ngay cả khi người bệnh không có triệu chứng nào kể trên cũng có thể bị mắc lao
1.3.5 Xét nghiệm cận lâm sàng chẩn đoán lao phổi
Xét nghiệm máu là một phương pháp quan trọng trong chẩn đoán lao phổi, đặc biệt khi có sự gia tăng số lượng và tỷ lệ lympho cũng như tốc độ máu lắng Tuy nhiên, các chỉ số này không đặc hiệu và có thể xuất hiện trong nhiều bệnh lý khác Bên cạnh đó, kháng thể kháng lao cũng có thể được phát hiện trong máu ngay cả khi vi khuẩn lao không có mặt trong đờm.
Tất cả những người có triệu chứng nghi ngờ lao phổi cần được xét nghiệm đờm để phát hiện bệnh Mẫu đờm thường được nhuộm soi trực tiếp tìm AFB, nhưng trong trường hợp đặc biệt như bệnh nhân nhiễm HIV hoặc nghi ngờ nhiễm lao kháng thuốc, mẫu đờm sẽ được xét nghiệm bằng phương pháp Xpert MTB/RIF Xét nghiệm này cho kết quả sau khoảng hai giờ với độ nhạy và độ đặc hiệu cao, đồng thời cũng giúp phát hiện chủng vi khuẩn kháng rifampicin.
X-quang phổi có giá trị sàng lọc cao, độ nhạy trên 90% với các trường hợp có triệu chứng hô hấp để sàng lọc lao phổi AFB (+) [1] X-quang phổi còn có tác dụng đánh giá đáp ứng với điều trị thử hay kết quả điều trị lao sau 2 tháng và kết thúc điều trị [1] Kết quả chụp cắt lớp vi tính cũng cho kết quả tương tự
Người bệnh lao thường có phản ứng dương tính với tuberculin trong xét nghiệm tiêm TST Tuy nhiên, có thể xảy ra kết quả âm tính giả ở những người có hệ miễn dịch yếu như bệnh nhân HIV, người dùng thuốc ức chế miễn dịch lâu dài, hoặc người suy dinh dưỡng Ngược lại, kết quả dương tính giả có thể xuất hiện ở những người mắc lao tiềm ẩn Do đó, xét nghiệm TST thường không được chỉ định trong chẩn đoán lao.
1.3.6 Các biện pháp hạn chế lây lan bệnh
Lao phổi lây qua đường hô hấp [3] Vì vậy, người bệnh cần có ý thức để hạn chế lây lan bệnh trong cộng đồng:
- Khạc nhổ đúng nơi quy định [9]
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
- Xử lý dịch máu, đờm đúng cách [9]
1.3.7 Các biện pháp dự phòng bệnh
Để ngăn chặn sự lây lan của bệnh, việc cắt đứt nguồn lây là rất quan trọng Trước hết, người bệnh cần được phát hiện sớm để nhận được điều trị kịp thời Bên cạnh đó, việc giáo dục và tư vấn cho người bệnh về thái độ và hành động cần thiết để tránh lây lan bệnh cho cộng đồng cũng là một yếu tố thiết yếu.
Thứ hai, cần chủ động tránh tiếp xúc với nguồn lây [14]
Tiêm vắc xin BCG cho trẻ em giúp tăng cường khả năng bảo vệ chống lại vi khuẩn lao, nhưng thời gian bảo vệ chỉ kéo dài từ 5 đến 10 năm.
Bên cạnh đó, người bệnh có thể tự tập luyện, sinh hoạt, ăn uống điều độ để làm giảm các yếu tố nguy cơ mắc bệnh
Điều trị bệnh lao
Phối hợp các thuốc chống lao: Cần phối hợp các thuốc chống lao vì mỗi loại thuốc có tác dụng khác nhau [1,25]
Việc sử dụng thuốc chống lao đúng liều lượng là rất quan trọng, vì các loại thuốc này có tác dụng hiệp đồng Nếu dùng liều thấp, hiệu quả điều trị có thể không đạt được, trong khi liều cao có thể gây ra tai biến Đặc biệt, việc sử dụng không đúng liều còn có thể dẫn đến sự phát triển của các chủng vi khuẩn kháng thuốc.
Để đạt hiệu quả hấp thu tốt nhất, thuốc chống lao cần được uống đều đặn vào cùng một thời điểm trong ngày và cách xa bữa ăn.
Để điều trị hiệu quả, cần sử dụng thuốc trong hai giai đoạn: giai đoạn tấn công kéo dài 2-3 tháng nhằm tiêu diệt nhanh chóng số lượng lớn vi khuẩn trong các vùng tổn thương, từ đó ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn lao kháng thuốc.
Giai đoạn duy trì kéo dài 4-6 tháng nhằm tiêu diệt triệt để các vi khuẩn lao trong vùng tổn thương để tránh tái phát [1]
1.4.2 Các thuốc điều trị lao
Các thuốc chống lao thiết yếu [1,5]: isoniazid (H), rifampicin (R), pyrazinamid (Z), streptomycin (S), ethambutol (E)
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Các thuốc chống lao hàng 2 [1]:
Bảng 1.1 Các thuốc chống lao hàng 2
Nhóm thuốc Thuốc Viết tắt
C Các thuốc hàng 2 chủ đạo khác
Eto/Pto Cs/Trd Lzd Cfz
Pyrazinamide Ethambutol Isoniazid liều cao
D3 p-aminosalicylic acid Imipenem-cilastatin Meropenem Amoxicillin-clavulanate Thioacetazone
PAS Ipm Mpm Amx-Clv
Giai đoạn tấn công kéo dài 2 tháng, gồm 4 loại thuốc R, H, Z và E, dùng hàng ngày
Giai đoạn duy trì kéo dài 4 tháng, gồm 3 loại thuốc R, H, E, dùng hàng ngày
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Phác đồ A1 được chỉ định cho các trường hợp bệnh lao người lớn không có bằng chứng kháng thuốc
Giai đoạn tấn công kéo dài 2 tháng, gồm 4 loại thuốc R, H, Z và E, dùng hàng ngày
Giai đoạn duy trì kéo dài 4 tháng, gồm 2 loại thuốc R và H dùng hàng ngày
Phác đồ A2 chỉ định cho các trường hợp bệnh lao trẻ em không có bằng chứng kháng thuốc
Giai đoạn tấn công kéo dài 2 tháng, người bệnh dùng 4 loại thuốc H, R, Z và
Giai đoạn duy trì kéo dài trong 10 tháng, gồm 3 loại thuốc R, H và E, dùng hàng ngày
Phác đồ B1 được chỉ định cho bệnh nhân lao màng não, lao xương khớp và lao hạch ở người lớn Trong điều trị lao màng não, việc sử dụng corticosteroid như dexamethasone hoặc prednisolone với liều giảm dần trong 6-8 tuần đầu là cần thiết Ngoài ra, Streptomycin nên được sử dụng thay cho E trong giai đoạn tấn công.
Giai đoạn tấn công kéo dài 2 tháng, gồm 4 loại thuốc H, R, Z, E, người bệnh dùng hàng ngày
Giai đoạn duy trì kéo dài 10 tháng, gồm 2 loại thuốc là R, H dùng hàng ngày
Phác đồ B2 được chỉ định cho bệnh nhân mắc lao màng não, lao xương khớp và lao hạch ở trẻ em Trong điều trị lao màng não, cần sử dụng corticosteroid như dexamethasone hoặc prednisolone với liều giảm dần trong 6-8 tuần đầu Ngoài ra, Streptomycin nên được sử dụng thay cho E trong giai đoạn tấn công.
Sau khi được chẩn đoán xác định, người bệnh cần được đăng ký quản lý điều trị tại m ột đơn vị chống lao tuyến quận, huyện và tương đương [1]
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Trong quá trình điều trị, bệnh nhân sẽ nhận thuốc hàng tháng tại đơn vị đăng ký Khi đến nhận thuốc, bệnh nhân có thể thực hiện các xét nghiệm theo yêu cầu của bác sĩ để đánh giá hiệu quả điều trị và đáp ứng với thuốc.
1.4.5 Một số tác dụng không mong muốn thường gặp
Trong quá trình dùng thuốc điều trị bệnh lao phổi, người bệnh có thể gặp một số tác dụng không mong muốn
Bảng 1.2 Những tác dụng không mong muốn của thuốc chống lao
Tác dụng không mong muốn Thuốc (nguyên nhân chính) Loại nhẹ
Buồn nôn, nôn, đau bụng R
Nước tiểu có màu cam hoặc đỏ R Đau khớp, sưng khớp Z >> E > H Ngứa, phát ban ngoài da H < R < Z < E < S
Sốc phản vệ S Ù tai, chóng mặt, điếc S
Suy thận cấp R < Km = Am > S Vàng da, viêm gan H + R > H >> Z > R
Xuất huyết, thiếu máu tan huyết R
ADR trên da mức độ nặng H < R < Z < E < S
Chương trình Chống lao Quốc gia
Việt Nam bắt đầu triển khai các hoạt động chống lao từ năm 1957 với việc thành lập Viện Chống Lao Trung ương (nay là Bệnh viện Phổi Trung ương) [7,24]
Chương trình Chống lao Quốc gia Việt Nam được thành lập năm 1986 [7]
Chương trình Chống lao Quốc gia đạt được độ bao phủ toàn bộ về địa lý vào năm 2000 [24]
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Chương trình Chống lao Quốc gia Việt Nam là một trong những chương trình thành công nhất trong điều trị bệnh lao, với tỷ lệ điều trị thành công các ca lao AFB(+) mới đạt trên 90% từ năm 1998 Tổ chức Y tế Thế giới đã đánh giá chương trình này là một trong những hoạt động chất lượng và hiệu quả nhất, không chỉ trong khu vực mà còn trên toàn cầu, trở thành hình mẫu cho nhiều quốc gia khác.
Mục tiêu hết năm 2020 của Chương trình Chống lao Quốc gia là:
- Giảm số người mắc bệnh lao xuống dưới 131/100.000 người dân [4]
- Giảm số người chết do bệnh lao xuống dưới 10/100.000 người dân [4]
- Khống chế số người mắc bệnh lao đa kháng thuốc với tỷ lệ dưới 5% trong tổng số người bệnh lao mới phát hiện [4]
DOTS là chiến lược xuyên suốt các hoạt động của Chương trình chống lao quốc gia [25], bao gồm 5 yếu tố:
- Có sự cam kết chính trị của các cấp chính quyền, đảm bảo tạo mọi điều kiện cho công tác chống lao
- Phát hiện thụ động nguồn lây bằng soi đờm trực tiếp
- Điều trị bệnh lao có kiểm soát bằng thuốc điều trị ngắn ngày
- Cung cấp thuốc chống lao đầy đủ với chất lượng tốt
- Có hệ thống ghi chép và báo cáo tốt, chính xác.
Các nghiên cứu về tuân thủ điều trị lao
Để kiểm soát hiệu quả bệnh lao, việc nâng cao kiến thức và thái độ của người bệnh là rất quan trọng Tuy nhiên, hiện tại vẫn thiếu nhiều nghiên cứu phân tích mối liên hệ giữa kiến thức và mức độ tuân thủ điều trị ở bệnh nhân lao, đặc biệt là lao mới.
1.6.1 Nghiên cứu tuân thủ điều trị lao quốc tế
Nghiên cứu của Wahyuni AS và cộng sự (2018) về hành vi điều trị bệnh nhân lao tại Indonesia đã chỉ ra mối liên hệ giữa sự hỗ trợ của nhân viên y tế và kết quả điều trị Tuy nhiên, nghiên cứu này không phát hiện thấy ảnh hưởng của kiến thức và hành vi đối với kết quả điều trị (p > 0,05) [32].
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Năm 2015, nghiên cứu của Westerlund EE và cộng sự về kiến thức và hiệu quả điều trị của 943 bệnh nhân lao cho thấy chỉ khoảng 50% trong số họ có kiến thức cơ bản về bệnh Hơn nữa, kết quả điều trị phụ thuộc nhiều vào sự hiểu biết của bệnh nhân, với những người không học hết cấp 2 có nguy cơ thất bại trong điều trị cao hơn, với tỷ lệ Odds Ratio (OR) là 1,6 (p = 0,01).
Theo Nwankwo (2015) [27] cũng cho kết quả tương tự, tỷ lệ người bệnh tuân thủ tốt các nguyên tắc điều trị lao tại Kigali là 50%
Năm 2013, một nghiên cứu của Ahmed Esmael tại Ethiopia trên 422 bệnh nhân lao cho thấy mức độ hiểu biết của họ về bệnh rất thấp Trong số đó, các triệu chứng phổ biến nhất được nhận diện là ho (65,6%), ho kéo dài trên 2 tuần (32,7%) và sút cân (33,2%).
1.6.2 Nghiên cứu tuân thủ điều trị lao trong nước
Theo nghiên cứu của tác giả Ngô Thị Tho và cộng sự (2016), chỉ 46,5% trong số 71 đối tượng có triệu chứng nghi lao tại huyện Đắk Tô nhận thức được rằng bệnh lao do vi khuẩn gây ra, trong khi 54,9% biết rằng lao lây truyền qua đường hô hấp.
Năm 2016, Vũ Văn Thành và Nguyễn Thị Khánh đã tiến hành đánh giá kiến thức và thực hành điều trị bệnh lao trên 55 bệnh nhân tại bệnh viện phổi tỉnh Nam Định Kết quả cho thấy chỉ 29,1% bệnh nhân có hiểu biết đầy đủ về bệnh lao, trong khi chỉ có 27,3% thực hiện tốt việc điều trị.
Nguyễn Xuân Tình (2014) đã thực hiện nghiên cứu về tuân thủ điều trị của bệnh nhân tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Bắc Giang, cho thấy có tới 63,6% bệnh nhân không tuân thủ tốt các nguyên tắc điều trị lao Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do mức độ hiểu biết của bệnh nhân về các nguyên tắc điều trị còn thấp, chỉ đạt 11,2% Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng 42,4% bệnh nhân gặp phải các tác dụng không mong muốn trong quá trình điều trị.
Năm 2009, Uông Thị Mai Loan và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu tại quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, nhằm đánh giá mức độ tuân thủ các nguyên tắc điều trị của bệnh nhân lao Kết quả cho thấy tỷ lệ bệnh nhân không tuân thủ điều trị ở hai giai đoạn khảo sát lần lượt là 88,5% và 66,7%.
[11] Trong khi đó, tỷ lệ không tuân thủ từ 3 nguyên tắc trở lên cao, lần lượt chiếm 30% và 22,4% [11]
Ngoài ra, một số nghiên cứu khác đã xem xét kiến thức, thái độ và thực hành của bệnh nhân lao Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường có cỡ mẫu nhỏ, do đó chưa phản ánh đầy đủ mức độ hiểu biết và sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các người bệnh được chẩn đoán lao phổi mới và đang được quản lý điều trị tại Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Phổi Trung ương
Bảng 2.1 Tiêu chuẩn lựa chọn người bệnh
Tiêu chuẩn lựa chọn Tiêu chuẩn loại trừ
- Người bệnh từ 15 tuổi trở lên, được chẩn đoán lao phổi mới
- Có hồ sơ quản lý tại Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Phổi Trung ương
- Đến khám lần đầu, hoặc khám định kỳ theo lịch hẹn
- Đồng ý tham gia nghiên cứu
- Người bệnh mắc lao điều trị lại
- Người bệnh có kết quả xét nghiệm Gene Xpert (+)
- Người bệnh không có khả năng trả lời phỏng vấn: người bệnh tâm thần,
- Người bệnh không tự uống thuốc, người bệnh đang có vấn đề về nuốt
- Người bệnh đồng nhiễm HIV, người bệnh có thai, cho con bú
Người bệnh tham gia nghiên cứu sẽ được phân loại như sau:
Người bệnh tháng thứ nhất: người bệnh đã dùng thuốc dưới 1 tháng
Người bệnh tháng thứ 2: người bệnh đã dùng thuốc từ 1 – 2 tháng
Người bệnh tháng thứ 3: người bệnh đã dùng thuốc từ 2-3 tháng.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm: Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Phổi Trung ương Thời gian: từ tháng 1/2019 đến tháng 3/2019
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả kết hợp với nghiên cứu định lượng nhằm đánh giá sự hiểu biết và mức độ tuân thủ điều trị của người bệnh
Các phương pháp thu thập số liệu
Sử dụng Bộ câu hỏi nghiên cứu (phụ lục) [20,21]
Bệnh nhân được chẩn đoán lao phổi mới và quản lý tại Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Phổi Trung ương trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2019 sẽ được mời tham gia vào nghiên cứu khi quay lại khám.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Bước 1: Các bác sĩ trong khoa được thông báo về nghiên cứu
Khi bệnh nhân lao phổi đến khám và đáp ứng các tiêu chí lựa chọn, họ sẽ được thông báo về nghiên cứu Nếu đồng ý tham gia, bệnh nhân sẽ được hướng dẫn để gặp nghiên cứu viên.
Bước 3: Nghiên cứu viên tiến hành phỏng vấn người bệnh về kiến thức và tuân thủ điều trị
Bước 4: Người bệnh quay trở lại phòng khám gặp bác sĩ sau khi đã được phỏng vấn để được tiếp tục khám bệnh.
Nội dung nghiên cứu và biến số đo lường kết quả
Đánh giá mức độ hiểu biết của người bệnh về bệnh lao phổi là rất quan trọng, bao gồm các khía cạnh như nguyên nhân gây bệnh, yếu tố nguy cơ, đường lây truyền, triệu chứng lâm sàng và phương pháp chẩn đoán lao.
Đánh giá sự hiểu biết của người bệnh về các phương pháp phòng, chống bệnh lao là rất quan trọng, bao gồm các biện pháp giảm sự lây lan của bệnh và các phương pháp dự phòng hiệu quả.
Các câu trả lời của người bệnh sẽ được cho điểm theo thang điểm sau [21]:
Bảng 2.2 Điểm đánh giá mức độ hiểu biết về bệnh lao của người bệnh
Tiêu chí 0 điểm 1 điểm 2 điểm
Nguyên nhân gây bệnh Không biết, trả lời sai Trả lời đúng
Yếu tố nguy cơ Biết 3 nguy cơ
Bệnh có lây hay không Không Có Đường lây Không biết, trả lời sai ≥1 đường lây
Dấu hiệu nhận biết Không biết 1-2 dấu hiệu >2 dấu hiệu
Xét nghiệm chẩn đoán có vai trò quan trọng trong việc phát hiện bệnh, với các nhóm người không biết, biết 1-2 xét nghiệm hoặc hơn 2 xét nghiệm Để hạn chế nguồn lây, cần áp dụng nhiều phương pháp khác nhau, từ những người không biết đến những người đã biết 1-2 phương pháp hoặc hơn 2 phương pháp Ngoài ra, việc áp dụng các phương pháp phòng chống cũng rất cần thiết, từ những người không biết đến những người đã biết 1-2 phương pháp và hơn 2 phương pháp.
Kết quả đánh giá hiểu biết về bệnh lao
0-5: Ít hiểu biết; 6-11: Hiểu biết trung bình; 12-16: Hiểu biết tốt
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Đánh giá sự hiểu biết của người bệnh về điều trị lao là rất quan trọng, bao gồm việc nắm rõ các nguyên tắc điều trị, chính sách của Chương trình chống lao quốc gia, cũng như quyền lợi của họ như nhận thuốc miễn phí và được cán bộ y tế tư vấn, giải thích về bệnh và theo dõi trong suốt quá trình điều trị.
Thang điểm được đánh giá như sau [20]:
Bảng 2.3 Điểm đánh giá mức độ hiểu biết về điều trị bệnh lao của người bệnh
Bệnh có thể chữa khỏi không Không Có
Chính sách điều trị của Chương trình chống lao quốc gia *
Người bệnh phải trả tiền thuốc
Người bệnh được phát thuốc miễn phí
Phối hợp thuốc chống lao Người bệnh biết nguyên tắc này
Người bệnh không biết nguyên tắc này
Uống thuốc đều đặn Người bệnh biết nguyên tắc này
Người bệnh không biết nguyên tắc này
Uống thuốc đúng cách Người bệnh biết nguyên tắc này
Người bệnh không biết nguyên tắc này
Uống thuốc đủ thời gian Người bệnh biết nguyên tắc này
Người bệnh không biết nguyên tắc này
Kết quả đánh giá hiểu biết về điều trị bệnh lao
0 – 3: Ít hiểu biết; 4 – 8: Hiểu biết trung bình; 9 – 12: Hiểu biết tốt
(*): Sự tư vấn, hỗ trợ, theo dõi của nhân viên y tế được đánh giá riêng
Đánh giá mức độ tuân thủ điều trị của bệnh nhân lao được thực hiện qua bốn nguyên tắc chính: phối hợp các loại thuốc chống lao, uống thuốc đều đặn, uống thuốc đúng cách và duy trì thời gian điều trị đủ Mỗi tháng, bệnh nhân sẽ được chấm điểm dựa trên các tiêu chí này để theo dõi hiệu quả điều trị.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Bảng 2.4 Điểm cho mức độ tuân thủ điều trị của người bệnh
Nguyên tắc Tiêu chí đánh giá 0 điểm 1 điểm 2 điểm
Phối hợp các thuốc chống lao
Dùng đủ số loại thuốc >1 thuốc 1 thuốc Uống đủ số loại thuốc Uống đủ liều trong 1 ngày >1 lần/tuần 1 lần/tuần Uống đủ tất cả các liều
Uống thuốc đều đặn Uống thuốc đều đặn >2 lần/tuần 1-2 lần/tuần Không quên uống thuốc
Uống các thuốc cùng lúc Không Có
Uống các thuốc vào thời gian nhất định Không Có
Uống thuốc đủ thời gian
Không đánh giá được vì không theo dõi người bệnh đến hết thời gian điều trị
Kết quả đánh giá mức độ tuân thủ điều trị của người bệnh
4 – 7: Tuân thủ bình thường
Nghiên cứu đã đánh giá mức độ hỗ trợ của nhân viên y tế đối với bệnh nhân trong việc tuân thủ nguyên tắc điều trị Cụ thể, nhân viên y tế hướng dẫn bệnh nhân về thuốc, liều lượng, thời gian và thời điểm sử dụng thuốc, đồng thời thực hiện việc hỏi thăm và nhắc nhở bệnh nhân Kết quả đánh giá được thu thập thông qua bảng hỏi từ bệnh nhân, phản ánh rõ ràng mức độ hỗ trợ mà họ nhận được.
Thứ năm, bài viết sẽ mô tả các tác dụng không mong muốn mà bệnh nhân có thể gặp phải trong quá trình điều trị, dựa trên những phản hồi của họ về những triệu chứng phụ mà họ đã trải qua.
Kỹ thuật xử lý và phân tích kết quả
Số liệu thu thập được mã hóa, nhập liệu bằng công cụ ODK và tổng hợp trên website https://odk.ona.io
Các số liệu thu thập được phân tích bằng phần mềm Microsoft Office Excel
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Đạo đức trong nghiên cứu
Các đối tượng nghiên cứu đều được thông báo về mục đích và nội dung nghiên cứu và có quyền từ chối trả lời phỏng vấn
Toàn bộ thông tin cá nhân của người bệnh được giữ bí mật
Mọi thông tin thu thập được chỉ nhằm mục đích phục vụ nghiên cứu
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
KẾT QUẢ
Mô tả đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Khảo sát thu nhận được 101 người bệnh tham gia nghiên cứu
Bảng 3.1 Kết quả mô tả sự phân bố người bệnh Đặc điểm
Trong khảo sát của Trường Đại học Y Dược, VNU, đối tượng tham gia chủ yếu là bệnh nhân đang trong giai đoạn điều trị tháng thứ 3, chiếm 55,45% Bệnh nhân ở tháng thứ 2 chiếm 24,75%, trong khi 19,80% là những người đang điều trị tháng đầu tiên Đáng chú ý, 44,55% bệnh nhân tham gia nghiên cứu đang trong giai đoạn điều trị tấn công với các loại thuốc như R, H, Z, E, trong khi những bệnh nhân còn lại được điều trị bằng các thuốc R, H, E.
Tỷ lệ nam giới mắc bệnh chiếm 64,36%, với đa số người bệnh nằm trong độ tuổi từ 20 đến 29 (40,59%) và từ 30 đến 39 (24,75%) Nhóm tuổi 50 đến 59 có số lượng người bệnh thấp nhất, chỉ chiếm 8,91%.
Có 60 người bệnh (chiếm 59,41%) có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên Số người bệnh có trình độ học vấn thấp (cấp 1 và cấp 2) chiếm tỷ lệ không cao (dưới 7%).
Mô tả mức độ hiểu biết của người bệnh về bệnh và điều trị bệnh lao phổi 18 1 Mô tả mức độ hiểu biết của người bệnh về bệnh lao phổi
➢ Mô tả hiểu biết của người bệnh về nguyên nhân gây bệnh
Hình 3.1 Đồ thị thể hiện hiểu biết của người bệnh về nguyên nhân gây bệnh lao
Có 39,60% người bệnh biết nguyên nhân gây bệnh lao là do vi khuẩn lao
Bên cạnh đó còn tỷ lệ khá cao người bệnh không biết nguyên nhân gây ra bệnh lao (chiếm 31,68%)
Vi khuẩn lao Không biết Nguyên nhân khác (virus, môi trường, thuốc lá,…)
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Các nguyên nhân khác được người bệnh kể tới bao gồm virus, yếu tố môi trường, thuốc lá, rượu, bia…
➢ Mô tả hiểu biết biết của người bệnh về yếu tố nguy cơ của bệnh
Đồ thị trong Hình 3.2 cho thấy rằng đa số người bệnh hiểu rõ về các yếu tố nguy cơ gây bệnh lao Cụ thể, 58,42% người bệnh nhận thức rằng tiếp xúc với nguồn lây là nguyên nhân chính, trong khi 39,60% cho rằng sự suy giảm miễn dịch cũng đóng vai trò quan trọng.
Một yếu tố nguy cơ mà ít bệnh nhân nhận thức được là việc mắc các bệnh mãn tính như đái tháo đường và suy thận mạn Chỉ khoảng 3,96% người bệnh biết về nguy cơ này.
Chỉ có 10% người bệnh không biết yếu tố nguy cơ của bệnh lao
➢ Mô tả hiểu biết của người bệnh về sự lây nhiễm của bệnh
Trong 101 người bệnh tham gia khảo sát, có 98 người bệnh (97,03%) biết bệnh lao (thể lao phổi) có lây
Nghiên cứu về hiểu biết của bệnh nhân về đường lây nhiễm của bệnh lao phổi cho thấy, 97,96% trong số 98 người được khảo sát nhận thức rằng bệnh lao lây qua đường hô hấp Tuy nhiên, chỉ có 4 người cho rằng bệnh có thể lây qua đường máu hoặc tiêu hóa, và chỉ một người biết bệnh lao có khả năng lây nhưng không rõ đường lây.
Không biết Yếu tố môi trường Người mắc các bệnh mạn tính Dùng thuốc lá, rượu, bia Tiếp xúc với nguồn lây
Do hệ thống miễn dịch suy giảm
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
➢ Mô tả hiểu biết của người bệnh về triệu chứng lâm sàng bệnh lao phổi
Hình 3.3 Đồ thị thể hiện hiểu biết của người bệnh về triệu chứng của bệnh lao
Kết quả khảo sát cho thấy, triệu chứng người bệnh biết nhiều nhất là ho, có
85 người bệnh (83,17%) biết triệu chứng này
Hơn 50% người bệnh nhận biết các triệu chứng như sốt, mệt mỏi và sút cân Trong khi đó, đau ngực và khó thở cũng là những triệu chứng điển hình của bệnh lao phổi, nhưng chỉ có 31,68% người bệnh biết đến những triệu chứng này.
Có 7 người bệnh (6,93%) không biết các triệu chứng của bệnh
➢ Mô tả hiểu biết của người bệnh về xét nghiệm chẩn đoán bệnh lao phổi
Hình 3.4 Đồ thị thể hiện hiểu biết của người bệnh về phương pháp xét nghiệm chẩn đoán bệnh lao phổi
Ho (ho khan, ho có đờm, ho ra máu)
Mệt mỏi, gầy sút, kém ăn
Sốt Đau ngực, khó thở Khác (đau bụng, tiêu chảy, buồn nôn,…)
Tiêm TST Xét nghiệm đờm X-quang phổi Chụp CT Xét nghiệm máu
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Trong một nghiên cứu, 91,09% đối tượng cho thấy có kiến thức về các xét nghiệm chẩn đoán bệnh lao phổi Trong số đó, xét nghiệm đờm được biết đến nhiều nhất với 88,12% người bệnh, tiếp theo là chụp X-quang phổi với 82,18% và xét nghiệm máu với 81,19%.
Không người bệnh nào biết xét nghiệm tiêm dưới da TST
➢ Mô tả hiểu biết của người bệnh về phương pháp hạn chế lây bệnh
Bảng 3.2 Hiểu biết của người bệnh về các phương pháp hạn chế lây lan bệnh lao
Phương pháp Số lượng Tỷ lệ
Khạc nhổ đúng nơi quy định 40 39,60%
Xử lý dịch đờm, máu đúng cách 13 12,87% Đeo khẩu trang 95 94,06%
Biện pháp phổ biến nhất để hạn chế lây lan bệnh là đeo khẩu trang, được 94,06% người bệnh nhận thức Tuy nhiên, dưới 40% người bệnh biết cách khạc nhổ đúng nơi quy định và che miệng khi ho để ngăn ngừa sự lây lan của bệnh.
Có 4 người bệnh không biết các phương pháp để hạn chế sự lây lan của bệnh
➢ Mô tả hiểu biết của người bệnh về biện pháp dự phòng bệnh
Bảng 3.3 Hiểu biết của người bệnh về các biện pháp dự phòng bệnh lao
Biện pháp dự phòng bệnh Số lượng Tỷ lệ
Tránh tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây 79 78,22%
Phát hiện sớm để tiếp nhận điều trị 41 40,59%
Làm giảm các yếu tố nguy cơ 17 16,83%
Tỷ lệ người bệnh hiểu biết về các biện pháp phòng ngừa bệnh lao đạt 90,10% Trong số đó, biện pháp phổ biến nhất được nhiều bệnh nhân biết đến là tránh tiếp xúc với nguồn lây nhiễm.
Theo nghiên cứu của Trường Đại học Y Dược, VNU, 78,22% người tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây bệnh Trong khi đó, biện pháp tiêm vắc xin BCG và giảm yếu tố nguy cơ ít được biết đến, với tỷ lệ nhận thức về hai biện pháp này chỉ đạt 17,82% và 16,83%.
➢ Mô tả hiểu biết chung của người bệnh bệnh lao phổi
Bảng 3.4 Kết quả điểm đánh giá hiểu biết của người bệnh về bệnh lao phổi
Tiêu chí 0 điểm 1 điểm 2 điểm
Bệnh có lây hay không 3 (2,97%) 98 (97,03%) Đường lây 2 (2,04%) 96 (97,96%)
Xét nghiệm chẩn đoán 9 (8,91%) 15 (14,85%) 77 (76,24%) Phương pháp hạn chế nguồn lây 5 (4,95%) 68 (67,33%) 28 (27,72%) Phương pháp phòng chống 10 (9,90%) 77 (76,24%) 14 (13,86%)
Một tỷ lệ cao bệnh nhân không nhận biết được nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của bệnh, với 60,40% và 58,42% tương ứng Mặc dù đa số bệnh nhân lao (hơn 97%) hiểu rằng bệnh lao có khả năng lây lan và biết được đường lây truyền, chỉ có 27,72% có kiến thức tốt về các phương pháp hạn chế nguồn lây, và chỉ 13,86% có thể liệt kê hơn 2 phương pháp phòng chống lây bệnh.
Trên 90% người bệnh kể tên được ít nhất 1 dấu hiệu nhận biết bệnh lao và trên 76% người bệnh kể tên được hơn 02 xét nghiệm chẩn đoán bệnh lao
Người bệnh có kiến thức khá tốt về dấu hiệu, chẩn đoán và tính chất lây nhiễm của bệnh, tuy nhiên, họ vẫn còn thiếu sót trong việc hiểu biết về nguyên nhân, các yếu tố nguy cơ, phương pháp hạn chế nguồn lây và các biện pháp phòng chống bệnh.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Hình 3.5 Đồ thị thể hiện sự đánh giá chung kiến thức của người bệnh về bệnh lao phổi
Kết quả từ hình 3.5 chỉ ra rằng 64,36% người bệnh có mức độ hiểu biết về bệnh lao phổi ở mức trung bình Điều này được thể hiện rõ ràng ở cả ba nhóm bệnh nhân trong tháng đầu tiên, tháng thứ hai và tháng thứ ba của quá trình điều trị.
Chỉ có rất ít người bệnh có hiểu biết kém về bệnh, chiếm 4,95%
3.2.2 Mô tả hiểu biết của người bệnh về điều trị bệnh
Bảng 3.5 Kết quả điểm đánh giá sự hiểu biết của người bệnh về điều trị bệnh
Bệnh có thể chữa khỏi không 2 (1,98%) 99 (98,02%) Chính sách điều trị của CTCLQG * 0 (0%) 101 (100%) Phối hợp thuốc chống lao 54 (53,47%) 47 (46,53%)
Uống thuốc đúng cách 6 (5,94%) 95 (94,06%) Uống thuốc đủ thời gian 74 (73,27%) 27 (26,73%)
(*) CTCLQG: Chương trình chống lao quốc gia
Sự tư vấn và hỗ trợ từ nhân viên y tế được đánh giá cao, với phần lớn người bệnh có kiến thức tốt về điều trị bệnh lao Đặc biệt, 100% đối tượng tham gia khảo sát đều nhận thức rằng thuốc điều trị lao được phát miễn phí.
Tháng thứ 1 Tháng thứ 2 Tháng thứ 3
Hiểu biết tốt Hiểu biết trung bình Ít hiểu biết
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Chương trình chống lao quốc gia đã giúp nâng cao nhận thức về bệnh lao, với hơn 98% người bệnh hiểu rằng bệnh này có thể được chữa khỏi hoàn toàn Tuy nhiên, có 3/101 người bệnh vẫn tự ý mua thuốc điều trị ngoài chương trình, điều này cần được chú ý để đảm bảo hiệu quả điều trị.
Nhiều bệnh nhân lao chưa nắm rõ nguyên tắc điều trị, với 53,47% không biết về việc phối hợp thuốc và 73,27% không hiểu cần uống thuốc đủ thời gian Chỉ 26,73% bệnh nhân nhận thức được việc điều trị cần chia thành hai giai đoạn tấn công và duy trì Đáng lưu ý, có 4,95% bệnh nhân không biết thời gian điều trị cần thiết, trong khi phần lớn còn lại đều hiểu rõ thời gian dùng thuốc của mình.
Hình 3.6 Đồ thị thể hiện sự đánh giá chung kiến thức của người bệnh về các nguyên tắc điều trị
Người bệnh lao phổi có kiến thức điều trị tương đối tốt, với 100% người bệnh trong cả 3 nhóm đạt mức hiểu biết trung bình trở lên Đặc biệt, có đến 49,50% người bệnh có mức hiểu biết tốt về bệnh.
3.2.3 Các phương tiện giúp người bệnh có hiểu biết về bệnh lao phổi
Tháng thứ 1 Tháng thứ 2 Tháng thứ 3
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Hình 3.7 Đồ thị thể hiện các phương tiện giúp người bệnh có hiểu biết về bệnh lao
Mô tả về việc tuân thủ điều trị của người bệnh lao phổi
Bảng 3.6 Kết quả điểm tuân thủ điều trị của người bệnh
Nguyên tắc Tiêu chí đánh giá 0 điểm 1 điểm 2 điểm
Phối hợp các thuốc chống lao
Dùng đủ số loại thuốc 0 (0%) 0 (0%) 101
Uống các thuốc cùng lúc 0 (0%) 101 (100%)
Uống vào thời gian nhất định 0 (0%) 101 (100%)
Uống thuốc đủ thời gian Không đánh giá được vì không đủ thời gian theo dõi
Tư vấn của cán bộ y tế Sách, báo, tờ rơi
Ti vi, đài phát thanh
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Kết quả từ bảng 3.6 cho thấy người bệnh lao tuân thủ điều trị rất tốt, với 100% bệnh nhân sử dụng đúng cách các loại thuốc chống lao.
Có 22 người bệnh (chiếm 21,78%) đã quên uống thuốc 1 – 2 lần Khi quên uống thuốc, có 1 người bệnh hỏi ý kiến của bác sĩ, 10 người bệnh bỏ liều, không làm gì cả và 11 người bệnh uống bù sau đó 1 – 2 giờ, nhưng vẫn đảm bảo việc uống thuốc cách xa bữa ăn
Một nguyên tắc quan trọng trong điều trị bệnh lao là sử dụng thuốc đủ thời gian Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu có hạn, nguyên tắc này không được đánh giá đầy đủ Trong quá trình nghiên cứu, có 5 bệnh nhân (4,95%) cho biết họ không biết thời gian cần thiết để điều trị bệnh lao.
Các người bệnh khác đều biết được thời gian cần dùng thuốc của mình.
Mô tả các tác dụng không mong muốn người bệnh gặp trong quá trình dùng thuốc
Hình 3.8 Đồ thị thể hiện những tác dụng không mong muốn người bệnh gặp trong quá trình dùng thuốc (N1)
Tác dụng không mong muốn người bệnh gặp trong quá trình dùng thuốc là các tác dụng nhẹ Trong đó, thường gặp nhất là ngứa, phát ban ngoài da (32,67%)
Ngoài ra, người bệnh còn cảm thấy mệt mỏi, men gan tăng, đau khớp, sưng khớp
Trong quá trình dùng thuốc, có 3,96% người bệnh gặp hiện tượng kháng isoniazid
Có 35 người bệnh (34,65%) không gặp tác dụng không mong muốn trong thời gian điều trị
Không gặp Khác (rối loạn tiêu hóa nhẹ, phù,…)
Buồn nôn, nôn, đau bụng Đau khớp, sưng khớp Ngứa, phát ban ngoài da
Vàng da, đau mắt Ù tai, chóng mặt
Mệt mỏiMen gan tăng
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu “Đánh giá mức độ hiểu biết và tuân thủ điều trị của bệnh nhân lao phổi tại Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Phổi Trung ương” được thực hiện trong 3 tháng từ tháng 1 đến hết tháng 3 năm 2019, đã thu thập dữ liệu từ 101 bệnh nhân Tất cả bệnh nhân được chỉ định điều trị theo phác đồ A1 (2RHZE/4RHE), trong đó hơn 50% bệnh nhân đang ở tháng thứ 3 của quá trình điều trị, bắt đầu sử dụng thuốc giai đoạn 2 (giai đoạn duy trì) Ở giai đoạn này, bệnh nhân có sự thay đổi nhỏ về số lượng và liều lượng thuốc so với giai đoạn trước.
Những thay đổi này có thể ảnh hưởng đến mức độ tuân thủ điều trị của người bệnh
Tỷ lệ người bệnh nam là 64,36% Nghiên cứu của Uông Thị Mai Loan
Trong nghiên cứu năm 2011, 82,2% người bệnh tham gia là nam giới Theo báo cáo của WHO, từ 2007 đến 2017, tỷ lệ mắc lao ở nam giới cao gấp đôi so với nữ giới trên toàn thế giới, trong khi tại Việt Nam, tỷ lệ này lên tới 4,5 lần Điều này cho thấy tỷ lệ người bệnh theo giới tính trong nghiên cứu phù hợp với xu hướng chung, với nam giới có tỷ lệ mắc lao cao hơn Tuy nhiên, tỷ lệ này không quá cao do đối tượng nghiên cứu chỉ bao gồm những bệnh nhân lao phổi mới, không đại diện cho toàn bộ bệnh nhân lao.
Người bệnh tham gia nghiên cứu tập trung chủ yếu ở hai nhóm tuổi từ 20 –
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người bệnh lao chủ yếu tập trung ở độ tuổi 29 (chiếm 40,59%) và 30 – 39 tuổi (chiếm 24,75%), điều này trái ngược với kết quả của Ngô Thị Tho (2016) khi tỷ lệ người bệnh trên 60 tuổi cao nhất (28,6%) Sự khác biệt này có thể do đối tượng nghiên cứu của tác giả là những người có triệu chứng nghi lao Trong khi đó, nghiên cứu của Uông Mai Loan tại quận Hai Bà Trưng chỉ ra độ tuổi trung bình của người mắc lao là 42 tuổi, cho thấy sự tương đồng với kết quả hiện tại Ngoài ra, nghiên cứu của Vũ Văn Thành (2018) cũng cho thấy 34,5% người bệnh thuộc nhóm tuổi 30 – 39.
Trong một cuộc khảo sát về trình độ học vấn của người bệnh, có 59,41% người tham gia có trình độ đại học trở lên Nghiên cứu của Ngô Thị Tho (2016) cho thấy 64,3% người bệnh chưa hoàn thành trung học cơ sở, trong khi nghiên cứu của Nguyễn Xuân Tình (2014) tại Bắc Giang chỉ ra rằng 46,4% người bệnh chưa đạt trình độ trung học phổ thông Theo Uông Thị Mai Loan (2011), 39,7% người bệnh đã tốt nghiệp trung học phổ thông Điều này cho thấy rằng trình độ học vấn của người bệnh có sự đa dạng, nhưng vẫn có một tỷ lệ đáng kể chưa đạt được các bậc học cao hơn.
Sự khác biệt trong các nghiên cứu trước đây có thể được lý giải bởi những điều kiện kinh tế và xã hội không đồng nhất giữa các khu vực.
Do quy mô khảo sát hạn chế và đối tượng chọn lọc, tỷ lệ phân bố bệnh nhân lao phổi theo độ tuổi, giới tính và trình độ học vấn không phản ánh chính xác mô hình bệnh tật tại Bệnh viện Phổi Trung ương cũng như tình hình dịch tễ bệnh lao ở Việt Nam.
Đánh giá mức độ hiểu biết của người bệnh về bệnh lao và điều trị bệnh lao phổi…
4.2.1 Đánh giá sự hiểu biết của người bệnh về bệnh lao phổi
Theo khảo sát, 97,96% người bệnh nhận thức rằng bệnh lao phổi có thể lây qua đường hô hấp, cho thấy sự hiểu biết quan trọng trong việc phòng ngừa và hạn chế lây lan bệnh lao trong cộng đồng Tỷ lệ này cao hơn đáng kể so với nghiên cứu trước đây của Nguyễn Thị Tho (2016), chỉ có 54,9% người bệnh biết về con đường lây truyền này.
(2012), 86,1% người bệnh biết đường lây chính là đường hộ hấp [16], 86% người bệnh trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Cư biết điều này [8]
Tuy nhiên, chỉ có 39,6% người bệnh biết bệnh lao do vi khuẩn lao gây ra
Nghiên cứu cho thấy chỉ khoảng 46,5% người bệnh hiểu đúng nguyên nhân gây bệnh, tương tự như kết quả của Ngô Thị Tho (2016) Ngoài ra, theo Nguyễn Quốc Bảo (2004), chỉ có 40,3% người dân nhận thức rằng bệnh lao do vi khuẩn gây ra.
Tỷ lệ hiểu biết thấp về bệnh lao có thể do người bệnh nhầm lẫn giữa nguyên nhân và yếu tố nguy cơ Có đến 58,42% người bệnh không nắm rõ hơn 2 yếu tố nguy cơ, dẫn đến thiếu kiến thức về nguồn lây, ảnh hưởng đến công tác dự phòng và làm tăng khả năng phát tán vi khuẩn lao Việc nâng cao hiểu biết cho người bệnh thông qua tư vấn và giáo dục về nguyên nhân gây bệnh là cần thiết để cải thiện công tác phòng ngừa Đồng thời, cần tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng về các yếu tố nguy cơ để giúp những người dễ mắc lao chủ động phòng chống bệnh.
Khi được hỏi về các biện pháp hạn chế nguồn lây và dự phòng bệnh lao, chỉ có 27,72% và 13,86% người bệnh biết đến trên 2 phương pháp Kiến thức hạn chế về dự phòng bệnh khiến việc kiểm soát nguồn lây trở nên khó khăn, góp phần làm khoảng 1/3 dân số thế giới nhiễm lao tiềm ẩn và gia tăng số ca mắc lao mới.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Triệu chứng điển hình của bệnh lao bao gồm ho kéo dài, ho có đờm, sốt nhẹ vào chiều, mệt mỏi và sút cân, giúp bác sĩ chẩn đoán sớm và chính xác Có 41,58% người bệnh nhận biết hơn 2 triệu chứng lâm sàng, trong khi 6,93% không biết bất kỳ triệu chứng nào Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Nguyễn Minh Lương và Trương Phi Hùng (2010), cho thấy chỉ 44,9% người bệnh hiểu rõ các triệu chứng quan trọng Kiến thức về dấu hiệu nhận biết bệnh lao của người bệnh còn hạn chế, trong khi phát hiện sớm là biện pháp quan trọng để điều trị và hạn chế lây lan trong cộng đồng Do đó, nhân viên y tế cần tăng cường tuyên truyền và cung cấp thông tin về triệu chứng bệnh lao cho người bệnh và cộng đồng.
Các xét nghiệm phổ biến nhất mà người bệnh biết đến bao gồm xét nghiệm đờm (88,12%), chụp X-quang phổi (82,18%) và xét nghiệm máu (81,19%) Hầu hết người bệnh khi đến khám và theo dõi kết quả điều trị đều được chỉ định các xét nghiệm này, do đó, việc nhiều người biết đến xét nghiệm đờm, xét nghiệm máu và chụp X-quang phổi là điều dễ hiểu.
Trong quá trình khảo sát, khoảng 91% người bệnh đã nhận được sự tư vấn từ nhân viên y tế Nghiên cứu của Ngô Thị Tho (2016) cho thấy hơn 90% người bệnh có hiểu biết về bệnh lao nhờ các buổi học từ nhân viên y tế thôn làng và cán bộ y tế địa phương Tuy nhiên, đánh giá cho thấy sự tư vấn này chưa toàn diện và hiệu quả không cao Do đó, cần bổ sung nội dung và thay đổi hình thức tuyên truyền, giáo dục để cải thiện khả năng tiếp cận thông tin về bệnh cho người bệnh.
4.2.2 Đánh giá sự hiểu biết của người bệnh về điều trị bệnh lao phổi
Tất cả 100% người tham gia khảo sát đều nhận thức rằng thuốc điều trị lao được phát miễn phí trong Chương trình chống lao quốc gia, cho thấy bệnh nhân lao đã hiểu rõ quyền lợi của mình Điều này không chỉ giúp họ nhận thức về quyền lợi mà còn tạo động lực để hoàn thành phác đồ điều trị Đặc biệt, 98,02% người bệnh tin rằng bệnh lao có thể được chữa khỏi.
Kết quả cho thấy tỷ lệ người bệnh biết bệnh lao có thể chữa khỏi cao hơn 81,7% so với nghiên cứu của Ngô Thị Tho (2016) Sự khác biệt này xuất phát từ việc trong nghiên cứu của Ngô Thị Tho, một số bệnh nhân phải điều trị lại do các nguyên nhân như thất bại điều trị, bỏ trị hoặc kháng thuốc.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Kết quả khảo sát cho thấy, hai nguyên tắc sử dụng thuốc trong điều trị lao mà người bệnh nắm rõ nhất là uống thuốc đều đặn (95,05%) và uống thuốc đúng cách (94,06%) Việc hiểu biết các nguyên tắc này sẽ giúp người bệnh tuân thủ điều trị hiệu quả hơn Tỷ lệ nhận thức này cao hơn so với nghiên cứu của Vũ Văn Thành và Nguyễn Thị Khánh tại Bệnh viện lao và bệnh phổi Nam Định (2016), trong đó chỉ có 80% người bệnh biết nguyên tắc uống thuốc đều đặn và 3,2% biết nguyên tắc uống thuốc đúng cách.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Tình (2013) cho thấy 77,5% người bệnh hiểu nguyên tắc uống thuốc đều đặn và 83,4% biết cách uống thuốc đúng cách, cho thấy tỷ lệ này cao hơn so với các nghiên cứu trước đó.
Chỉ có 26,73% người bệnh hiểu rõ nguyên tắc uống thuốc đủ thời gian và theo hai giai đoạn tấn công và duy trì Tất cả người bệnh tham gia nghiên cứu được chỉ định phác đồ 2RHZE/4RHE, và đến tháng thứ 3, họ mới được giảm số thuốc và liều dùng Trong tháng thứ 1 và tháng thứ 2, người bệnh có thể chưa nắm rõ việc dùng thuốc theo hai giai đoạn Tuy nhiên, người bệnh ở tháng thứ 3 đã bước vào giai đoạn hai, nhưng có thể không hiểu rõ ý nghĩa của việc giảm số loại và liều dùng Đánh giá kiến thức về điều trị lao phổi cho thấy 49,50% người bệnh có kiến thức tốt và 50,50% có kiến thức trung bình, cho thấy sự chênh lệch không lớn giữa hai nhóm này Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Vũ Văn Thành (2016), khi chỉ có 29,1% người bệnh có kiến thức tốt.
Theo khảo sát, 95,05% bệnh nhân đã nắm rõ thời gian cần thiết để điều trị bệnh lao, một con số cao hơn nhiều so với nghiên cứu của Ngô Thị Tho (2016), khi chỉ có 49,3% bệnh nhân hiểu đúng về thời gian điều trị.
Người bệnh trong khảo sát này thể hiện kiến thức về điều trị vượt trội so với các nghiên cứu trước, điều này có thể được lý giải bởi trình độ học vấn cao của họ, với hơn 90% người bệnh tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên Sự hiểu biết và nhận thức của người bệnh trong nghiên cứu này do đó cao hơn đáng kể.
Đánh giá về việc tuân thủ điều trị của người bệnh lao phổi
Việc tuân thủ sử dụng thuốc trong quá trình điều trị của bệnh nhân là khá tốt, mặc dù vẫn có 22 bệnh nhân quên uống thuốc từ 1 đến 2 lần Kết quả cho thấy sự cần thiết của việc nhắc nhở và hỗ trợ bệnh nhân trong việc duy trì thói quen dùng thuốc đều đặn.
Theo đánh giá chung của Trường Đại học Y Dược, VNU, 100% bệnh nhân tuân thủ tốt các nguyên tắc điều trị Kết quả này cho thấy sự hiểu biết của bệnh nhân về quy trình điều trị khá cao và ý thức chấp hành các nguyên tắc cũng rất tốt Điều này phản ánh thái độ hợp tác và mong muốn khỏi bệnh của bệnh nhân.
Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc trong các nghiên cứu khác nhau cho thấy sự khác biệt rõ rệt: Nwankwo (2015) báo cáo tỷ lệ tuân thủ trên 50%, trong khi Nguyễn Xuân Tình (2022) ghi nhận 63,6% bệnh nhân không tuân thủ tất cả nguyên tắc điều trị Ngược lại, nghiên cứu của Vũ Văn Thành (2016) cho thấy chỉ có 38,2% người bệnh tuân thủ tốt các nguyên tắc điều trị.
Nghiên cứu của Uông Mai Loan (2009) cho biết, tỷ lệ người bệnh không tuân thủ từ
Trong điều trị bệnh, có ba nguyên tắc quan trọng cần tuân thủ, với tỷ lệ tuân thủ đạt 30% ở giai đoạn tấn công và 22,4% ở giai đoạn duy trì Tuy nhiên, nguyên tắc không được tuân thủ nhiều nhất là việc sử dụng thuốc đều đặn, với tỷ lệ không tuân thủ lên tới 90% ở giai đoạn tấn công và 86,2% ở giai đoạn duy trì.
Khi gặp khó khăn trong việc sử dụng thuốc, bệnh nhân nên chủ động liên hệ với bác sĩ để được tư vấn Sự hợp tác và chủ động trong điều trị sẽ nâng cao hiệu quả điều trị Tuy nhiên, do thời gian và quy mô nghiên cứu hạn chế, kết quả khảo sát chưa đủ để đánh giá mối liên hệ giữa việc tuân thủ điều trị và hiệu quả điều trị của bệnh nhân.
Đánh giá tác dụng không mong muốn người bệnh gặp phải trong quá trình dùng thuốc
Trong quá trình sử dụng thuốc, bệnh nhân thường gặp phải các tác dụng không mong muốn nhẹ, trong đó ngứa và phát ban ngoài da là phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ 32,67% Tình trạng này xuất hiện ở cả bốn loại thuốc R, H, Z và E, do đó, tỷ lệ bệnh nhân gặp phải tác dụng không mong muốn này là khá cao.
Chỉ khảo sát những bệnh nhân có tình trạng tăng men gan được chỉ định sử dụng thuốc bổ gan, trong khi các tác dụng không mong muốn khác vẫn chưa được ghi nhận và không có biện pháp xử trí từ bác sĩ.
Khảo sát về tác dụng không mong muốn của thuốc cho thấy sự chủ động của người bệnh trong việc thông báo cho bác sĩ về quá trình sử dụng thuốc Điều này giúp bác sĩ thực hiện những thay đổi và bổ sung kịp thời, từ đó nâng cao sự an toàn và hiệu quả trong điều trị.
Tỷ lệ người bệnh kháng thuốc trong quá trình điều trị là rất thấp (chiếm 3,96%) Trong nghiên cứu của Nguyễn Xuân Tình, có 42,4% người bệnh gặp tác
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng nhóm bệnh nhân được chẩn đoán lao phổi mới có nguy cơ mắc lao kháng thuốc thấp hơn so với những bệnh nhân điều trị lao tái phát hoặc lao bỏ trị Điều này giúp giải thích hiện tượng sử dụng không mong muốn trong điều trị.
Hạn chế của nghiên cứu
Sự hiểu biết và tuân thủ điều trị của người bệnh có ảnh hưởng lớn đến kết quả điều trị và sự lây lan trong cộng đồng Nghiên cứu hiện tại chỉ mô tả mức độ hiểu biết và tuân thủ mà chưa đánh giá sâu về ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị và tình hình dịch tễ Do đó, cần tiến hành các nghiên cứu sâu hơn để xây dựng mối tương quan giữa kiến thức, thái độ tuân thủ của người bệnh và hiệu quả điều trị.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
ĐỀ XUẤT
Dựa trên kết quả đánh giá mức độ hiểu biết của bệnh nhân, cần đề xuất các biện pháp tư vấn và tuyên truyền mới Việc bổ sung nội dung và thay đổi hình thức sẽ giúp bệnh nhân dễ dàng tiếp cận kiến thức về bệnh lao cũng như phương pháp điều trị hiệu quả.
Chúng tôi khuyến nghị thực hiện các nghiên cứu sâu hơn về sự tuân thủ điều trị không điển hình của người bệnh, nhằm khai thác chi tiết quá trình sử dụng thuốc Điều này sẽ giúp đánh giá mối tương quan giữa sự hiểu biết, thái độ và thực hành trong điều trị của bệnh nhân.
Nghiên cứu mở rộng cần được thực hiện để đánh giá vai trò của sự hiểu biết và tuân thủ điều trị của bệnh nhân đối với kết quả điều trị và ảnh hưởng của các yếu tố này trong dịch tễ bệnh lao Điều này sẽ giúp xây dựng mô hình tuyên truyền và giáo dục cho bệnh nhân cũng như cộng đồng, nhằm đẩy lùi bệnh lao vào năm 2030, hoàn thành nhiệm vụ thiên niên kỷ.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU