Mục đích của Khoá luận nhằm đánh giá tình hình thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới của nhà nước tại xã Phi Hải, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng. Đề xuất một số giải pháp để xây dựng thành công nông thôn mới tại xã Phi Hải, Huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng. Mời các bạn cùng tham khảo!
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
Cơ sở lí luận
2.1.1 Một số khái niệm liên quan
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, sử dụng đất để trồng trọt và chăn nuôi, cung cấp lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp Đây là một lĩnh vực sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành như trồng trọt, chăn nuôi, và sơ chế nông sản, đồng thời còn bao gồm lâm nghiệp và thủy sản.
Nông dân là những người lao động sống ở nông thôn và tham gia vào sản xuất nông nghiệp, chủ yếu dựa vào ruộng vườn và các ngành nghề liên quan đến đất đai Quyền sở hữu ruộng đất của nông dân thay đổi tùy theo từng quốc gia và thời kỳ lịch sử Họ tạo thành giai cấp nông dân, đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc xã hội.
Nông thôn là khu vực nằm ngoài nội thành, nội thị của các thành phố, thị xã và thị trấn, được quản lý bởi các cấp hành chính cơ sở, cụ thể là Ủy ban Nhân dân xã.
Nông thôn mới (NTM) theo Nghị quyết 26-NQ/T.W của Trung ương là khu vực nông thôn có hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, với cơ cấu kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất hợp lý NTM gắn kết nông nghiệp với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp và dịch vụ, đồng thời kết nối phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch xã hội nông thôn dân chủ Khu vực này cũng bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn an ninh trật tự, và nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tinh thần đó, NTM có năm nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất là nông thôn có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại. Hai là sản xuất bền vững, theo hướng hàng hóa.
Đời sống vật chất và tinh thần của người dân đang ngày càng được cải thiện, đồng thời bản sắc văn hóa dân tộc cũng được bảo tồn và phát triển.
Năm là xã hội nông thôn được quản lý tốt và dân chủ.
Xây dựng nông thôn mới là một cuộc cách mạng quan trọng, khuyến khích cộng đồng nông thôn hợp tác để cải thiện cơ sở hạ tầng thôn, xã, và gia đình Mục tiêu là phát triển toàn diện các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đồng thời nâng cao văn hóa, bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh nông thôn Qua đó, thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của người dân sẽ được cải thiện đáng kể.
Xây dựng nông thôn mới là một nhiệm vụ cách mạng quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị Đây không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội mà còn là một vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp.
Xây dựng nông thôn mới tạo niềm tin cho nông dân, khuyến khích họ tích cực, chăm chỉ và đoàn kết trong việc hỗ trợ lẫn nhau Điều này góp phần phát triển nông thôn trở nên giàu đẹp, dân chủ và văn minh.
Phát triển nông thôn là quá trình cải thiện bền vững về kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân ở khu vực nông thôn.
2.1.2 Vai trò của nông dân trong quá trình xây dựng NTM
Trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng NTM hiện nay, nông dân giữ vị trí là
Khẳng định "chủ thể" là yếu tố quan trọng để phát huy tiềm năng con người, đặc biệt là nông dân, trong quá trình xây dựng nông thôn về kinh tế, văn hóa và xã hội, đồng thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của họ.
Vì vậy, vai trò của nông dân trong xây dựng NTM văn minh, hiện đại, được thể hiện là:
(1) Chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng, quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng NTM
(2) Chủ thể chủ động và sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
(3) Chủ thể trực tiếp trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn
(4) Chủ thể tích cực, sáng tạo trong xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá – xã hội, môi trường ở nông thôn
(5) Là nhân tố góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống chính trị - xã hội vững mạnh, bảo đảm ANTT xã hội ở cơ sở.
2.1.3 Cơ sở của việc ban hành chương trình xây dựng NTM
Sau hơn 20 năm đổi mới, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu lớn, với tốc độ phát triển cao, nâng cao năng suất và chất lượng, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực quốc gia Kinh tế nông thôn đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa và dịch vụ hóa, cải thiện hạ tầng và đời sống người dân Tuy nhiên, thành tựu chưa tương xứng với tiềm năng, còn nhiều bất cập như phát triển nông nghiệp không bền vững, sức cạnh tranh thấp, và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm Công nghiệp và dịch vụ phát triển chưa mạnh mẽ, trong khi hình thức tổ chức sản xuất còn lạc hậu Hơn nữa, nông thôn còn thiếu quy hoạch, hạ tầng yếu kém, ô nhiễm môi trường gia tăng, và đời sống vật chất, tinh thần của người dân vẫn còn thấp, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa Tình trạng nghèo đói và chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành phố vẫn còn lớn, gây ra nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết.
Các hạn chế trong phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan và chủ quan Hiện nay, chưa có hệ thống quan điểm lý luận rõ ràng về các lĩnh vực này, trong khi cơ chế và chính sách phát triển thiếu đồng bộ và đột phá Nhiều chủ trương không hợp lý và chưa khả thi vẫn chậm được điều chỉnh, dẫn đến việc đầu tư từ ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp còn thấp, không đáp ứng nhu cầu phát triển Công tác tổ chức, chỉ đạo và quản lý nhà nước vẫn còn nhiều bất cập, và vai trò của các cấp uỷ, chính quyền cũng như các đoàn thể trong việc triển khai chính sách về nông nghiệp tại nhiều địa phương còn hạn chế.
Tại hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 đã được ban hành với mục tiêu xây dựng nông thôn mới có hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, và tổ chức sản xuất hiệu quả Nghị quyết nhấn mạnh sự gắn kết giữa nông nghiệp và phát triển công nghiệp, dịch vụ, đồng thời liên kết phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch Mục tiêu là tạo ra một xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, và duy trì an ninh trật tự Đời sống vật chất và tinh thần của người dân sẽ được nâng cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa Để thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW, chính phủ đã ban hành Nghị quyết 24/2008/NQ-CP và Quyết định số 491/QĐ-TTg về bộ tiêu chí nông thôn mới.
Chương trình xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới là chương trình phát triển toàn diện về kinh tế-xã hội, hệ thống chính trị và an ninh quốc phòng Chương trình này đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân, nhằm mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp, cải thiện đời sống người dân, và hiện đại hóa diện mạo nông thôn theo hướng văn minh và quản lý dân chủ.
Xây dựng nông thôn mới nhằm hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, cơ cấu kinh tế hợp lý và tổ chức sản xuất hiệu quả Quy hoạch phát triển nông nghiệp gắn liền với công nghiệp-dịch vụ, đồng thời kết nối nông thôn với đô thị Mục tiêu là tạo ra một xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, duy trì an ninh trật tự, và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Đặc trưng của nông thôn mới giai đoạn 2010-2020
Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao
Nông thôn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ
Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hoá dân tộc được giữ gìn và phát huy
An ninh tốt, quản lý dân chủ
Chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao
* Mục tiêu là xây dựng nông thôn mới[8]
Nông thôn mới kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại
Cơ cấu kinh tế, tổ chức sản xuất hợp lý
Phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, gắn với phát triển nông nghiệp
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
- nghiên cứu tình hình xây dựng NTM ở xã Phi Hải và tình hình đời sống nhân dân của xã Phi Hải
Nội dung nghiên cứu
- Thực trạng kinh tế-xã hội của xã Phi Hải theo 19 tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM ở xã Phi Hải
- Thực trạng về điều kiện kinh tế, đời sống của hộ
- Một số giải pháp để xây dựng NTM ở Phi Hải
Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Chọn điểm nghiên cứu Điểm nghiên cứu là xã Phi Hải, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng
3.3.2 Phương pháp thu thập thông tin
3.3.2.1 Thu thập số liệu thứ cấp
Tài liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn thông tin chính thức của cơ quan nhà nước và các nghiên cứu của cá nhân, tổ chức về tình hình xây dựng nông thôn mới (NTM) Các báo cáo và tổng kết liên quan đến chính sách xây dựng NTM tại địa phương cùng với thông tin thống kê về phát triển kinh tế địa phương cũng được xem xét Đặc biệt, các tài liệu về tình hình kinh tế - xã hội của huyện Quảng Uyên và tỉnh Cao Bằng được thu thập từ UBND xã Phi Hải và Phòng NN&PTNT huyện Quảng Uyên.
3.3.2.2 Thu thập số liệu sơ cấp a Phỏng vấn hộ: Phiếu điều tra đã được xây dựng để phục vụ cho mục tiêu đề tài Nội dung phiếu phỏng vấn hộ bao gồm những thông tin cơ bản về năng lực sản xuất, tình hình sản xuất và thực trạng đời sống của hộ nhằm tìm hiểu tình hình sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật của hộ Đồng thời xem xét khả năng quản lí, sử dụng nguồn vốn để đầu tư cho hoạt động tái sản xuất của hộ Từ đó đưa ra các giải pháp phát triển kinh tế, cải thiện thu nhập cho người dân
Phiếu điều tra đã trải qua quá trình thử nghiệm để đảm bảo tính logic và phản ánh chính xác hoạt động sản xuất của địa phương Thông tin thu thập được kiểm tra kỹ lưỡng để đảm bảo độ chính xác, sau đó phiếu được chỉnh sửa và hoàn thiện trước khi tiến hành điều tra chính thức.
Để tiến hành nghiên cứu, 80 hộ gia đình đã được chọn lựa theo phương pháp ngẫu nhiên có định hướng từ danh sách hộ của 4 thôn, đảm bảo đại diện cho các nhóm thu nhập khác nhau như khá, trung bình và nghèo Các hộ tham gia nghiên cứu đều hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ tại xã Phi Hải.
Phương pháp điều tra bao gồm phỏng vấn trực tiếp các đại diện hộ được chọn thông qua phiếu điều tra đã chuẩn bị sẵn Ngoài ra, phỏng vấn sâu cũng được thực hiện ở hai cấp độ: cấp xã và cấp thôn, nhằm thu thập thông tin chi tiết từ những người am hiểu.
Tại cấp xã, chúng tôi đã phỏng vấn Chủ tịch UBND xã, Chủ tịch Hội Nông dân và cán bộ phụ trách nông nghiệp để nắm bắt thực trạng xây dựng NTM và các giải pháp mà địa phương đã thực hiện Qua đó, chúng tôi tìm hiểu hoạt động sản xuất và nguyên nhân nghèo đói tại địa phương, từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm đạt được các tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM.
Tại cấp thôn, chúng tôi thực hiện phỏng vấn với trưởng thôn và chủ nhiệm HTX để tìm hiểu về sự tham gia của người dân trong xây dựng NTM Đồng thời, chúng tôi cũng khảo sát thực trạng sản xuất và nguyên nhân nghèo đói tại địa phương Dựa trên những thông tin thu thập được, chúng tôi đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng NTM, giúp họ trở thành chủ thể của chương trình Ngoài ra, chúng tôi cũng đưa ra giải pháp phát triển sản xuất, tăng thu nhập và giảm tỷ lệ nghèo, góp phần vào thành công của chương trình xây dựng NTM Cuối cùng, chúng tôi tổ chức 3 cuộc thảo luận nhóm với sự tham gia của 10 - 15 người mỗi nhóm.
Cuộc thảo luận nhóm cán bộ, bao gồm các vị trí như Phó chủ tịch xã, chủ tịch hội nông dân, chủ tịch hội phụ nữ, bí thư đoàn thanh niên, cán bộ y tế xã và các trưởng thôn, nhằm phân tích những khó khăn và thuận lợi trong việc xây dựng NTM Từ đó, nhóm sẽ đề xuất các giải pháp hiệu quả, phù hợp với thực tế địa phương, góp phần khắc phục khó khăn và phát huy thế mạnh địa phương để thực hiện thành công chương trình NTM.
Cuộc thảo luận nhóm hộ khá tập trung vào các hộ sản xuất có kinh tế phát triển trong xã, nhằm tìm hiểu các hoạt động và phương pháp sản xuất hiệu quả để tăng thu nhập Qua đó, các hộ có thể chia sẻ kinh nghiệm và áp dụng các biện pháp phát triển kinh tế phù hợp, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất tại địa phương.
Cuộc thảo luận nhóm với các hộ nghèo nhằm tìm hiểu hoạt động sản xuất và những khó khăn mà họ gặp phải Qua đó, chúng ta có thể nhận diện nguyên nhân dẫn đến nghèo đói và đề xuất các giải pháp hiệu quả để giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho các hộ này.
Nội dung của chủ đề và tiểu chủ đề thảo luận nhóm được thể hiện ở phụ lục 3
Một số công cụ sử dụng trong thảo luận nhóm gồm: SWOT, so sánh cặp đôi
3.3.3 Phương pháp xử lí thông tin
Các số liệu thu thập được tổng hợp mã hoá và xử lý bằng phần mềm EXCEL, SPSS 16.0 for Window để tính các tham số thống kê.
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở XÃ PHI HẢI – HUYỆN QUẢNG UYÊN – TỈNH CAO BẰNG
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã phi hải
Phi Hải là một trong 16 xã của huyện Quảng Uyên, nằm ở phía bắc huyện này, cách trung tâm huyện khoảng 6 km và cách thành phố Cao Bằng khoảng 43 km về phía Tây Nam Địa giới hành chính của xã được xác định rõ ràng.
- Phía bắc giáp: xã Xuân Hội huyện Trà Lĩnh
- Phía nam giáp: xã Quốc Dân và Xã Quốc Phong
- Phía đông giáp: xã Quảng Hưng
- Phía tây giáp: xã Quốc Toản huyện Trà Lĩnh
Xã Phi Hải có địa hình thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, được chia thành ba vùng rõ rệt: vùng núi đá, vùng núi đất và vùng thung lũng bằng phẳng.
4.1.1.3 Đặc điểm khí hậu, thời tiết
Xã nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9, đặc trưng bởi thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều và gió mùa đông nam, cùng với hiện tượng gió lốc hiếm gặp; mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, có gió mùa đông bắc, thời tiết khô hanh và rét đậm, đôi khi có sương muối Nhiệt độ trung bình hàng năm là 21,4°C, với nhiệt độ tối cao đạt 39°C và nhiệt độ tối thấp không được đề cập.
2 0 c, lượng mưa trung bình năm khoảng 1400 - 1600mm
4.1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội
Bảng 4.1 Hiện trạng sử dụng đất ở xã Phi Hải
STT Chỉ tiêu Đơn vị tính Diện tích
Tổng diện tích đất tự nhiên ha 5057.54
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp ha 642.01
1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản ha 5.82
1.4 Đất nông nghiệp khác ha
2 Đất phi nông nghiệp ha 156.74
2.1.2 Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp ha 0.37
2.1.5 Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp ha 0.12
2.2 Đất tôn giáo, tín ngưỡng ha
2.3 Đất nghĩa trang, nghĩa địa ha 10.87
2.4 Đất mặt nước chuyên dùng ha 18.42
3 Đất chưa sử dụng ha 157.9
(Nguồn: Báo cáo tình hình sử dụng đất xã Phi Hải, 2018)
Kinh tế sản xuất nông nghiệp đã có những chuyển biến mạnh mẽ trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi, cũng như tăng năng suất và sản lượng Tuy nhiên, vùng nông nghiệp vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của mình.
Mạng lưới truyền thanh đã nhận được sự đầu tư chú trọng, góp phần quan trọng vào công tác tuyên truyền và thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Hệ thống giáo dục tại xã được tổ chức đồng bộ với 01 trường mầm non, 03 trường tiểu học và 01 trường trung học cơ sở, đảm bảo cung cấp đầy đủ các cấp học cho trẻ em trong khu vực.
Y tế: Trên địa bàn xã có 1 trạm y tế được trang bị hiện đại, hệ thống y tế cơ sở được quan tâm đầu tư
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ và an ninh trật tự được thực hiện hiệu quả, đảm bảo không xảy ra tình huống bị động hay bất ngờ, đồng thời không có điểm nóng nào xuất hiện trên địa bàn xã.
Xã Phi Hải gồm 24 xóm trong đó :
Bảng 4.2 Dân số và lao động của xã Phi Hải
STT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2018
2 Tổng số nhân khẩu Người 3457
3 Tổng số lao động Người 1936
4 Bình quân nhân khẩu/hộ Người/hộ 4
5 Bình quân lao động/hộ Người/hộ 2
(Nguồn:Phòng thống kê xã Phi Hải, năm 2015)
- Xã Phi Hải là một xã thuần nông, do đó lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn ( chiếm 56% ) Tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 10%
- Xã Phi hải có 3 dân tộc anh em gồm :
Vai trò và chức năng của các bên liên quan tại địa phương
Cấp ủy và chính quyền có vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo và chỉ đạo, nhằm tổ chức thực hiện và khuyến khích tinh thần của người dân, từ đó phát huy vai trò chủ thể của họ trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Các ban ngành, tổ chức, đoàn thể
Đoàn thanh niên đã phát huy vai trò xung kích của tuổi trẻ thông qua việc tổ chức các hoạt động tình nguyện nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội Các đoàn viên, thanh niên tích cực thi đua sản xuất, bảo vệ môi trường và vận động người dân tham gia xây dựng nông thôn mới (NTM).
Hội nông dân đóng vai trò quan trọng trong việc vận động hội viên và nông dân tham gia đóng góp tiền, ngày công lao động, và hiến đất để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn Họ khuyến khích người dân tham gia vào việc làm mới và sửa chữa đường giao thông nông thôn, cũng như cải tạo và kiên cố hóa hệ thống kênh mương thủy lợi, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
- Hội phụ nữ: tham gia vận động, tổ chức tổng vệ sinh đường làng ngõ xóm theo định kỳ, đóng góp tiền mặt và giờ công lao động
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò quan trọng trong việc vận động và tuyên truyền cho người dân về chương trình phát triển nông thôn mới (NTM) Đồng thời, Ủy ban cũng lắng nghe ý kiến và kiến nghị của người dân để cải thiện và thực hiện hiệu quả chương trình xây dựng NTM tại các xã.
Trưởng xóm đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền cho người dân về mục tiêu xây dựng nông thôn mới (NTM) Họ không chỉ là người đại diện cho cộng đồng mà còn tổng hợp những khó khăn và thắc mắc của người dân liên quan đến quá trình xây dựng NTM, từ đó góp phần thúc đẩy sự tham gia và đồng thuận trong cộng đồng.
- Các ban ngành và đoàn thể khác cũng tích cực trong việc tham gia, vận động người dân thực hiện chương trình xây dựng NTM
Trong các cuộc họp xóm, các thành viên cùng thảo luận để xác định nhu cầu xây dựng và nâng cấp các tuyến đường, bao gồm đường nội đồng và đường trong xóm Họ sẽ quyết định thứ tự ưu tiên cho các tuyến đường, ước tính chiều dài và chi phí xây dựng cần thiết.
Người dân đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nông thôn mới (NTM), không chỉ tham gia ý kiến mà còn trực tiếp thực hiện các chương trình Sự tham gia của họ đặc biệt thể hiện rõ trong việc xây dựng giao thông nông thôn (GTNT), góp phần nâng cao hiệu quả và tính bền vững của các dự án.
Người dân đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát và quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM), vì những chương trình này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của họ Các công trình được xây dựng dựa trên nhu cầu thực tế của cộng đồng, do đó, người dân cần có trách nhiệm trong việc tham gia vào quá trình này, đặc biệt là trong việc quản lý các dự án giao thông nông thôn (GTNT).
Cách thức tiển khai xây dựng nông thôn mới của xã Phi Hải
Ủy ban nhân dân xã Phi Hải đã ban hành Quyết định số 24/QĐ-UBND vào ngày 25 tháng 6 năm 2011, quyết định thành lập Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011.
2020 gồm có 08 đồng chí do đồng chí Bí thư Đảng ủy làm trưởng ban
- xây dựng Kế hoạch số 03/KH-UBND về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2011 – 2015, định hướng đến năm 2020
Vào ngày 06 tháng 4 năm 2012, Hội đồng Nhân dân xã Phi Hải đã tổ chức kỳ họp bất thường nhằm thông qua Nghị quyết số 08/NQ - HĐND, liên quan đến đề án xây dựng nông thôn mới (NTM) cho giai đoạn 2011 – 2020.
Đánh giá nguồn lực cho thực hiện NTM tại xã
- Có sự chỉ đạo của Đảng, sự thống nhất của các cơ quan tổ chức
Do xã có mức xuất phát điểm thấp và chưa thu hút được đầu tư từ doanh nghiệp, ngân sách cho quá trình xây dựng nông thôn mới chủ yếu dựa vào nguồn vốn từ nhà nước.
Năm 2011, tổng kinh phí 79.677.571đ từ ngân sách Nhà nước đã được sử dụng để bê tông hóa 898 m đường tại các xóm Bản Quản I, Sộc Phạ, Bản Chang, Bó Lạ, Đoỏng Chang và Bản Thiết.
Năm 2012, tổng kinh phí 60.000.000đ từ ngân sách Nhà nước đã được sử dụng để bê tông hóa 987 m đường tại các xóm Bản Thiết, Bản Chang, Bó Lạ, Lũng Búng, Sộc Phạ, Bản Cải, Lũng Diễn và Bản Rẳng.
Năm 2013, bê tông hóa được 950 m đường các xóm Lũng Diễn, Bản thiết, Sộc huỳnh, Bó lạ, Cốc Phia với tổng kinh phí 109.700.000đ
Năm 2014, bê tông hóa 470 m đường tại các xóm Bó Lạ, Sộc Huỳnh, Nà Lái với tổng kinh phí 59.000.000 đồng, đạt 117,5% chỉ tiêu năm 2013 Dự án đã được nghiệm thu và đưa vào sử dụng đúng chất lượng Đồng thời, tuyến đường mới xóm Khuổi Sàm, Khuổi Sỏm dài 7 km cũng đã được hoàn thành với tổng kinh phí gần 600 triệu đồng.
Đến hết tháng 10/2015, đã hoàn thành bê tông hóa 222 mét đường tại các xóm Lũng Diến, Cốc Phia, Nà Lái với tổng kinh phí 30 triệu đồng Đồng thời, mặt bằng tuyến đường từ xóm Nà Giáng lên xóm Lũng Rượi dài khoảng 1,8 km cũng đã được mở, với tổng kinh phí 1,5 tỷ đồng từ nguồn vốn nông thôn mới.
Nguồn lực của địa phương
- Có sự quan tâm và thống nhất trong chính quyền, ban, ngành trong địa phương Chính quyền địa phương luôn quan tâm đến chương trình xây dựng NTM
- Có sự đoàn kết, đồng lòng thống nhất cao của người dân
Người dân ở địa phương đã hiến đất, giờ lao động
- Có sự tham gia, đóng góp ý kiến của người dân trong chương trình xây dựng NTM tại xã
4.5 Hiện trạng xây dựng nông thôn mới tại xã Phi Hải
Hải đã hoàn thành các tiêu chí : 1,
4, 5, 8, 13, 14, 18, 19 Đây là sự nỗ lực của chính quyền xã và người dân xã Phi Hải
Bước sang giai đoạn 2016 – 2020 người dân và chính quyền xã Phi Hải đặt ra mục tiêu hoàn thành một số tiêu chí : 2, 3, 16
4.6 kết quả thực hiện từng tiêu chí NTM ở xã Phi Hải
Bảng 4.3 Đánh giá kết quả thực hiện 19 tiêu chí NTM ở xã Phi Hải
STT Tiêu chí Đạt Chưa đạt
6 Cơ sở vật chất văn hoá x
13 Hình thức tổ chức sản xuất x
(Nguồn: Phòng thống kê xã)
Quá trình xây dựng NTM đã giúp người dân hiểu rõ tầm quan trọng của việc phát triển thôn, xã văn minh và sạch đẹp Nhờ đó, công tác quy hoạch được thực hiện thuận lợi hơn, cơ sở hạ tầng và kinh tế - xã hội phát triển, tạo nên diện mạo mới cho xã.
Nhiều con đường trong xã chưa được bê tông hóa, gây khó khăn trong việc di chuyển và sản xuất, làm tiêu tốn thời gian và công sức của người dân.
Việc thoát nước vào mùa mưa gặp khó khăn do số lượng cầu cống còn ít, dẫn đến tình trạng nước mưa tích tụ và ứ đọng, ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường.
Do đó, so với bộ tiêu chí NTM là chưa đạt.
Hệ thống kênh mương nội đồng chưa được phát triển và một số kênh mương đã xuống cấp, dẫn đến việc người dân chỉ có thể sản xuất một vụ lúa hè - thu Trong khi đó, các xã khác có khả năng trồng thêm vụ hè thu và vụ xuân hè.
Do đó, so với bộ tiêu chí NTM là chưa đạt.
Xã Phi Hải có 100% hộ có điện sử dụng và phục vụ sản xuất xã có 03 trạm biến áp với tổng công suất 225 KVA.
Xã có 5 trường học đủ điều kiện phục vụ con em trong xã học tập
4.6.1 Tiêu chí chưa đạt và nguyên nhân
Dù đã nỗ lực trong thực hiện các tiêu chí nhưng xã Phi Hải vẫn có một số tiêu chí vẫn chưa đạt cụ thể:
Giao thông nông thôn gặp khó khăn do đặc thù dân cư sống không tập trung, dẫn đến chi phí xây dựng lớn Kinh phí cho phát triển hạ tầng giao thông chủ yếu phụ thuộc vào nguồn ngân sách từ trung ương.
- Thủy lợi: Do tác động của thiên tai, nên các công trình thủy lợi đã xuống cấp Thiếu kinh phí cho sửa chữa
Do điều kiện kinh tế các gia đình khó khăn, giá vật liệu và vân chuyển vất liệu cao do đường đi lại khó khăn
Do xã Phi Hải là một xã thuần nông, thu nhập chủ yếu là từ nông nghiệp
Hộ nghèo tại xã Con Cao chủ yếu do thiếu nguồn lực và cơ hội việc làm Trình độ học vấn của nhiều hộ gia đình vẫn còn thấp, và không ít trong số họ không có ý định thoát nghèo, mà phụ thuộc vào các chính sách hỗ trợ từ nhà nước.
Phong tục tập quán của người dân thường xây dựng nhà sàn và nuôi trâu bò ở dưới để thuận tiện cho việc chăm sóc Tuy nhiên, việc tìm kiếm đất quý để xây dựng chuồng nuôi trâu, bò gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng đến vấn đề an ninh.
Xã chưa có nghĩa trang, dẫn đến việc chôn cất người đã mất diễn ra tự do Phong tục của người dân nơi đây thường là chôn cất người đã khuất ngay trên đất của gia đình.
Việc thu gom rác và xử lý rác thải chưa được thực hiện chủ yếu các hộ gia đình tự đốt chứ không gom và xử lý tập chung
Nước thải từ các hộ gia đình được trực tiếp xả thải ra môi trường
Tiêu chí môi trường là tiêu chí khó thực hiện nhất vì người dân nhận thức về bảo vệ môi trường chưa cao
Cơ chế tài chính hiện nay còn nhiều bất cập, với các đơn vị có trách nhiệm chưa nghiên cứu và sáng tạo trong việc áp dụng chính sách phù hợp với các hình thức khác nhau Điều này tạo ra khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch, ra quyết định và huy động nguồn lực kinh tế - xã hội ở cấp xóm, đồng thời hạn chế sự tham gia của người dân.
- Công tác đào tạo, tập huấn cho người dân nông thôn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí của người dân chưa cao.
Trình độ văn hóa và chuyên môn của cán bộ quản lý cấp cơ sở không đồng đều, với một số cán bộ có năng lực và trình độ thấp Họ thiếu nhiệt tình trong công việc và chưa huy động được sức mạnh của các đoàn thể, dẫn đến hiệu quả công tác vận động quần chúng tham gia vào các hoạt động của mô hình không cao.
bài học rút ra
- Muốn xây dựng NTM phải đặt dưới sự chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp
- Hệ thống chính trị và các tổ chức quần chúng phải bàn bạc thống nhất chỉ đạo
- Các chỉ đạo của địa phương phải được sự đoàn kết thống nhất của người dân
Đảng và chính quyền các cấp cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân, đồng thời gần gũi và sát sao với cộng đồng để tập trung giải quyết những bức xúc của người dân.
Sự quan tâm đến lợi ích của người dân là yếu tố then chốt để xây dựng sự đoàn kết trong cộng đồng Nếu không chú trọng đến nhu cầu và mong muốn của người dân, mọi nỗ lực sẽ trở nên vô nghĩa Đoàn kết của người dân là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững.
4.7 Thực trạng điều kiện kinh tế, đời sống của hộ
Bảng 4.4: Tình hình dân số và lao động của hộ
Chỉ tiêu ĐVT Nghèo Trung bình Khá Chung
1 Số nhân khẩu/ hộ Khẩu/hộ 5 5 4
2 Số lao động/hộ Người/hộ 4 3 2
3 Số người ăn theo/hộ Người 3 2 2
4 Trình độ văn hoá chủ hộ
Bảng 4.5 tình hình sử dụng đất canh tác
Diện tích đất sản xuất đất nông nghiệp Nghèo Trung bình Khá
4.7.3 Hoạt động phi nông nghiệp
Bảng 4.6: Thu nhập từ làm thuê của hộ
Loại hộ Số hộ tham gia
4.7.4 Tài sản cơ bản phục vụ đời sống
Bảng 4.13 Tài sản của hộ
Loại tài sản Loại hộ
Số hộ có tài sản (N)
Số lượng trung bình (cái/hộ)
Tỷ lệ hộ có tài sản (%) 1.Ti vi
- Do chưa thực hiện tốt việc kế hoạch hóa gia đình
- Khả năng tiếp thu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất còn thấp
- trình độ dân trí thấp, việc làm không ổn định, thiếu việc làm
- Thiếu kinh nghiệm làm ăn
4.8 Thuận lợi, khó khăn, trong xây dựng NTM ở xã Phi Hải
- Đóng góp tiền của người dân còn hạn chế
- Người dân chưa quan tâm đến vai trò kiểm tra, giám sát, nghiệm thu và quyết toán các công trình
- Người dân chưa nhận thấy vai trò của mình
- Người dân chưa quen với việc làm chủ trong cộng đồng
- trình độ người dân còn hạn chế
- thiếu cán bộ nòng cốt trong xây dựng NTM
Thuận lợi, khó khăn, trong xây dựng NTM ở xã Phi Hải
- Đóng góp tiền của người dân còn hạn chế
- Người dân chưa quan tâm đến vai trò kiểm tra, giám sát, nghiệm thu và quyết toán các công trình
- Người dân chưa nhận thấy vai trò của mình
- Người dân chưa quen với việc làm chủ trong cộng đồng
- trình độ người dân còn hạn chế
- thiếu cán bộ nòng cốt trong xây dựng NTM