Luận văn Thạc sĩ Y khoa Nghiên cứu tác dụng bảo vệ và hiệu quả phục hồi suy giảm chức năng buồng trứng của bài thuốc HV trên mô hình thực nghiệm trình bày các nội dung chính sau: Đánh giá tác dụng bảo vệ của bài thuốc HV trên buồng trứng và tử cung chuột nhắt trắng trên mô hình thực nghiệm; Đánh giá hiệu quả phục hồi suy giảm chức năng buồng trứng của bài thuốc HV trên mô hình thực nghiệm.
TỔNG QUAN
Suy giảm chức năng buồng trứng theo YHHĐ
1.1.1 Vai trò tr ục dưới đồ i - tuy ế n yên - bu ồ ng tr ứ ng đố i v ớ i ch ức năng sinh sả n 1.1.1.1.Vùng dưới đồi
Trung khu sinh dục của vùng dưới đồi, nằm ở nền trung não, bao gồm một nhóm nhân thần kinh giàu mạch máu có khả năng tiết hormone Các cấu trúc như củ xám, nhân bụng giữa, nhân lưng giữa và nhân cung đều tiết ra hormone giải phóng Gn-RH Hormone này được chuyển xuống thùy trước tuyến yên qua hệ tĩnh mạch gánh của Poga và Fielding.
Gn-RH kích thích thùy trước của tuyến yên để sản xuất FSH và LH Hormone này được bài tiết theo chu kỳ, với tần suất 1-3 giờ một lần và mỗi lần kéo dài trong vài phút.
Tuyến yên, nặng khoảng 0,5g và nằm trong hố yên, bao gồm hai thùy Thùy trước của tuyến yên đóng vai trò quan trọng trong việc tiết ra các hormone FSH và LH, kích thích các tuyến sinh dục, đồng thời sản xuất prolactin để kích thích tuyến vú.
FSH đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích sự phát triển và trưởng thành của nang noãn trong buồng trứng Mặc dù FSH không thể tự mình kích thích tiết estrogen, nhưng nhờ sự hỗ trợ từ một lượng nhỏ LH, nang noãn mới có khả năng tiết estrogen LH không chỉ thúc đẩy sự trưởng thành và phóng noãn của nang noãn mà còn kích thích hình thành hoàng thể và sự tiết hormone từ hoàng thể Bên cạnh đó, LH cũng có tác dụng kích thích sự sản sinh của các tế bào kẽ trong tinh hoàn.
Là tuyến sinh dục nữ, thường có 2 buồng trứng, mỗi buồng trứng có kích thước 2,5-5 x 2,0 x 1,0 cm và nặng 4-8g Trọng lượng của chúng thay đổi trong thời kỳ kinh nguyệt
Buồng trứng có hai chức năng chính: chức năng ngoại tiết tạo noãn bào và chức năng nội tiết sản xuất hormone sinh dục Trong buồng trứng chứa nhiều nang noãn, nhưng số lượng này giảm nhanh theo thời gian Khi thai nhi đạt 20 tuần tuổi, mỗi bên buồng trứng có khoảng 1,5 – 2 triệu nang noãn nguyên thủy, nhưng sau khi em bé ra đời, số lượng giảm xuống còn 200.000-300.000 Đến tuổi dậy thì, chỉ còn khoảng 20.000 – 30.000 nang noãn Suốt cuộc đời, số noãn bào chín và phóng ra từ buồng trứng không vượt quá 400-500.
Theo các nghiên cứu của Hiệp hội Sinh sản người và Phôi thai học Châu Âu (ESHRE) tỷ lệ mắc SGCNBT như sau:
Trước tuổi 40 tỷ lệ mắc bệnh là 1/100
Trước tuổi 30 bệnh có tỷ lệ mắc là 1/1000
Trước tuổi 20 bệnh có tỷ lệ mắc là 1/10000
Theo phân tích dữ liệu về ung thư ở trẻ em, 6,3% bệnh nhi trải qua sự giảm mạnh chức năng buồng trứng ngay sau khi điều trị Ngoài ra, 8% trong số họ mắc hội chứng giảm chức năng buồng trứng sau điều trị, so với chỉ 0,8% ở nhóm chứng.
Nghiên cứu của Hội Liên hiệp sức khỏe phụ nữ xuyên quốc gia cho thấy sự phổ biến của POI khác nhau giữa các chủng tộc, với tỷ lệ từ 0,1% ở người Nhật, 1% ở người da trắng và 1,4% ở các nhóm khác Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê rõ ràng trong nhiều nhóm dân cư.
Mỹ gốc Phi và người Tây Ban Nha [11][10]
Tiêu chuẩn được đồng thuận của ESHRE 2016:
Một phụ nữ được bị SGCNBT sớm khi tuổi nhỏ hơn 40 và có bộ 3 tiêu chuẩn sau [10]:
1 Thiểu kinh hoặc vô kinh trên 04 tháng
2 Nồng độ FSH > 25 IU/L ở 2 lần thử cách nhau ít nhất 4 tuần
3 Nồng độ E2 < 50 pg/ml cùng thời điểm xét nghiệm FSH
Cơ chế chính xác của SGCNBTchưa được biết rõ Nó có thể do:
Suy giảm lượng nang trứng nguyên thủy ban đầu
Sự tăng nhanh tốc độ phân hủy nang trứng
Sai sót trong quá trình phát triển hay tuyển chọn nang trứng
Sự gia tăng tốc độ phân hủy nang trứng có thể liên quan đến sự thay đổi trong quá trình chết theo chương trình, gây ra sai sót trong việc chín trứng và bất thường trong hoạt hóa nang trứng nguyên thủy, dẫn đến giảm số lượng nang trứng chức năng hoặc tăng tốc độ phân giải của chúng.
Các nhân tố gây ra cơ chế này rất đa dạng và phức tạp, bao gồm đột biến gen, đột biến trên nhiễm sắc thể, lây nhiễm, rối loạn tự miễn, vấn đề chuyển hóa và các tác nhân hậu phẫu.
Có nhiều nguyên nhân gây ra SGCNBT, bao gồm di truyền, bệnh tự miễn, nhiễm trùng, và các nguyên nhân iatrogenic như phẫu thuật, xạ trị hoặc hóa trị Ngoài ra, yếu tố môi trường và các nguyên nhân vô căn cũng có thể góp phần vào sự phát triển của bệnh.
Nguyên nhân di truyền của POI
Rối loạn nhiễm sắc thể X
Rối loạn di truyền trên cánh tay dài và ngắn của nhiễm sắc thể X
Tiểu não và rối loạn chức năng tuyến sinh dục
Rối loạn tiền đình và hội chứng dị tật nhiều Đột biến trong enzyme cần thiết cho sinh sản
Thiếu hụt galactose 1-phosphate uridylyltransferase (galactosemia)
Thiếu hụt 17-hydroxylase / 17,20 desmolase Đột biến Aromatase Đột biến trong thụ thể / hành động của hormon Đột biến trong thụ thể hoóc môn FSH / luteinizing
Nguyên nhân tự miễn liên quan đến POI
Hội chứng polyendocrine tự miễn
Suy giáp, suy tuyến thượng thận, suy tuyến cận giáp và đái tháo đường tuýp 1 Hội chứng khô mắt
Lupus ban đỏ hệ thống
Bất sản tuyến ức bẩm sinh
Nguyên nhân Iatrogenic của POI
Việc quản lý và điều trị SGCNBT cần được thực hiện ngay lập tức để ngăn ngừa hậu quả lâu dài Phụ nữ mắc SGCNBT có nhu cầu chăm sóc tâm lý và sinh lý phức tạp, do đó cần một phương pháp tiếp cận đa ngành bao gồm phụ khoa, nội tiết, sinh sản, hiếm muộn, tâm lý học, dinh dưỡng và hỗ trợ bệnh nhân Liệu pháp hormon thay thế là chiến lược chính trong điều trị SGCNBT, giúp giảm triệu chứng và hệ quả lâu dài do thiếu hụt estrogen, đồng thời kích thích các đặc điểm sinh dục thứ cấp ở trẻ vị thành niên.
Phụ nữ SGCNBT nên sử dụng liệu pháp estrogen để ngăn ngừa giảm mật độ xương, trừ khi có chống chỉ định tuyệt đối Nếu còn tử cung, cần kết hợp với progestogen.
Ngoài việc sử dụng Estrogen để ngăn ngừa giảm mật độ xương, các biện pháp quan trọng khác cho sức khỏe bao gồm tập thể dục, duy trì chế độ ăn uống lành mạnh, đảm bảo hấp thu đủ canxi và vitamin D, và đặc biệt là khuyến khích bệnh nhân bỏ thuốc lá.
Hiện nay, phương pháp điều trị chủ yếu là sử dụng hormon estrogen thay thế với liều tương đương gần nhất với mức sinh lý bình thường cho đến khoảng 51 tuổi, thời điểm trung bình của mãn kinh tự nhiên Estrogen 17β-estradiol là loại hormone hoạt động bình thường trước mãn kinh, tuy nhiên, nồng độ estrogen tối ưu cho phụ nữ SGCNBT vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Hiện nay, phác đồ điều trị thay thế estrogen chủ yếu sử dụng miếng dán estradiol với liều phóng thích 100mcg mỗi ngày hoặc estradiol đường uống với liều 2mg/ngày Miếng dán estradiol mang lại một số lợi ích so với các chế phẩm thuốc viên.
Miếng dán phóng thích qua da có cấu trúc giống 17β-estradiol của buồng trứng
Tránh được chuyển hóa của gan, tránh được tác động của các yếu tố đông máu
Hấp thu ổn định hơn
Giảm nguy cơ huyết khối tĩnh mạch và giảm nguy cơ các bệnh về túi mật
Tổng quan suy buồng trứng sớm theo YHCT
1.2.1 B ệ nh danh suy bu ồ ng tr ứ ng s ớ m theo YHCT
Trong các tài liệu cổ về y học Trung Quốc, chưa từng có đề cập đến giải phẫu buồng trứng hay bệnh suy buồng trứng sớm Tuy nhiên, dựa vào các triệu chứng liên quan đến sự thay đổi kinh nguyệt và vô sinh, có thể nhận diện các bệnh như bế kinh, ngừng kinh trước tuổi, thiểu kinh và vô sinh.
Trong tác phẩm “Tố Vấn âm dương ứng tượng đại luận”, có đề cập rằng "năng trí thất tổn bát ích, tắc nhị giả khả điều", nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cân bằng giữa tổn thương và ích lợi để tránh suy yếu sớm Đặc biệt, ở tuổi 40, nếu âm khí chỉ còn một nửa, cơ thể sẽ dễ rơi vào tình trạng suy giảm Tác phẩm này lần đầu tiên nhắc đến khái niệm “suy sớm”, phù hợp với nhận thức hiện đại về bệnh lý này Bế kinh được xem là một trong những triệu chứng chính của suy buồng trứng sớm, và “Hoàng đế nội Kinh” đã ghi chép nhiều nội dung liên quan đến bế kinh, đồng thời mô tả chi tiết lý pháp và phương dược điều trị.
“bế kinh” là “huyết khô”, đồng thời ghi lại phương thuốc đầu tiên của phụ khoa …
Mất kinh trước 40 tuổi là đặc trưng của suy buồng trứng sớm, theo “Trần Tố Am phụ khoa bổ giải”, nếu kinh kỳ ngừng ở tuổi 40, nguyên nhân có thể là huyết suy hoặc huyết trệ, không nên điều trị như huyết khô Bài viết trong “Phó thanh chủ nữ khoa” cũng chỉ ra rằng mất kinh sớm không chỉ là huyết khô mà còn liên quan đến khí uất của tâm can tỳ Phương thuốc ích kinh thang được lựa chọn để điều trị, và lý luận này đã ảnh hưởng sâu sắc đến các y gia sau này Về vô sinh, “Châu dịch” ghi nhận lần đầu tiên, với khái niệm “vô sinh” được chính thức đưa ra trong “Tố vấn cốt không luận”, trong khi các y gia sau này thường sử dụng thuật ngữ “vô tử” để chẩn đoán và điều trị các chứng liên quan đến vô sinh.
1.2.2 B ệ nh nguyên b ệnh cơ suy buồ ng tr ứ ng s ớ m theo YHCT
Theo “Tố Vấn âm dương ứng tượng đại luận”, thận khí có vai trò quan trọng trong việc sản sinh kinh nguyệt: “thận khí thịnh, nguyệt kinh thủy; thận khí suy, nguyệt kinh kiệt.” Tương tự, “Phó thanh chủ nữ khoa” cũng nhấn mạnh rằng “Kinh thủy xuất chư thận” và “kinh bản dư thận” Điều này cho thấy thận không chỉ tàng tinh mà còn chủ quản sinh dục, đặc biệt ở nữ giới trong độ tuổi 27 Khi thận khí thực và thiên quý thịnh, kinh nguyệt sẽ đến, cho thấy thận quyết định quá trình sản sinh kinh nguyệt.
Thận đóng vai trò quan trọng trong sinh lý nữ, là gốc rễ của nguyên khí và nơi lưu giữ âm dương Sự thịnh vượng của thận khí quyết định sự sản sinh và trưởng thành của thiên quý, đồng thời điều hòa các tạng, giúp khí huyết lưu thông và duy trì chu kỳ kinh nguyệt đều đặn Khi tinh noãn của cha mẹ kết hợp, khả năng thụ thai sẽ xảy ra thuận lợi Do đó, sự thịnh suy của thận có mối liên hệ trực tiếp với sự phát triển sinh dục của nữ giới.
Nếu bẩm tố tiên thiên không đủ và hậu thiên sinh hoạt quá độ, có thể dẫn đến thận suy, ảnh hưởng đến xung nhâm Nguyên nhân chủ yếu là do thận tinh hư, thận khí bất cố, thận âm hư và thận dương hư Khi thận tinh hư, thiên quý kiệt sớm có thể gây bế kinh hoặc vô sinh do huyết hải không đầy đủ Nếu thận khí suy, chức năng tàng giữ bị mất, dẫn đến kinh nguyệt ra nhiều và có thể gây mãn kinh sớm hoặc vô sinh, như đã nêu trong “Thánh tề tổng luận”.
Vô sinh có thể xảy ra do sự thiếu hụt xung nhâm và thận khí hư hàn Thận âm đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì âm dịch của cơ thể; nếu thận âm không đủ, sẽ dẫn đến rối loạn trong quá trình sinh hóa tinh huyết, gây thiếu hụt vật chất cơ bản Điều này ảnh hưởng đến sự chuyển hóa âm dương, làm cho tinh noãn không được bài xuất đều đặn, từ đó có thể dẫn đến các vấn đề như kinh nguyệt không đều, bế kinh và vô sinh.
Thận dương đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì dương khí toàn thân, giúp ôn ấm các tạng phủ và thúc đẩy hoạt động của chúng Khi thận dương yếu, xung nhâm tử cung không còn được giữ ấm, dẫn đến rối loạn kinh nguyệt và tình trạng khí hóa không ổn định Theo Trần Hà, bệnh liên quan đến âm phận, với nguyên nhân chính là thận âm bất túc, do đó cần tập trung điều trị để phục hồi âm phận Ngụy Thiệu Bân cũng nhấn mạnh rằng sự suy yếu của thận tinh có thể dẫn đến bế kinh do suy buồng trứng, vì vậy việc bổ thận và cân bằng âm dương là rất quan trọng trong điều trị.
Trong "Cảnh nhạc toàn nãi Phụ nhân quy", có nhấn mạnh rằng nữ tử huyết là chủ, và khi huyết vượng, kinh nguyệt sẽ được điều hòa, dẫn đến khả năng sinh con Việc can tàng huyết và huyết vượng đóng vai trò quan trọng, vì vậy có câu: "nữ tử lấy can làm tiên thiên" Can chủ sơ tiết giúp thông sướng khí cơ toàn thân; khi khí cơ được thông suốt, khí huyết sẽ vận hành bình thường, tạo điều kiện cho bào cung hoạt động ổn định "Vạn thị nữ khoa" cũng đề cập đến những khía cạnh này.
Sự u sầu và căng thẳng có thể dẫn đến tình trạng khí uất, làm ảnh hưởng đến chu kỳ kinh nguyệt Khi khí uất kết hợp với huyết dịch không lưu thông, có thể gây ra tình trạng kinh nguyệt không đều, ít hoặc thậm chí ngừng hẳn Can và thận có mối liên hệ chặt chẽ, khi thận tàng tinh và can tàng huyết, giúp duy trì sự cân bằng và điều hòa chu kỳ kinh nguyệt Tuy nhiên, nếu cả can và thận đều yếu, dẫn đến tình trạng thiếu hụt tinh huyết, có thể gây ra kinh nguyệt sớm hoặc mãn tính, đây là dấu hiệu cho thấy tình trạng sức khỏe tâm lý đang gặp vấn đề nghiêm trọng.
Theo "Cảnh nhạc toàn thư Kinh bất điều", để điều hòa kinh nguyệt, cần bổ tỳ vị nhằm cung cấp nguồn huyết và dưỡng thận khí Tỳ là gốc của hậu thiên, nếu tỳ vị khỏe mạnh, khí huyết sẽ đầy đủ, hỗ trợ cho quá trình kinh nguyệt Ngược lại, khi tỳ vị hư, nguồn sinh hóa khí huyết không đủ, dẫn đến tình trạng thiếu hụt huyết hải và có thể gây mất kinh Sự suy yếu của tỳ làm cho thủy dịch không được vận hóa, tạo ra đàm ẩm, gây trở ngại cho khí huyết, làm cho kinh nguyệt ít hoặc thậm chí bế kinh Giáo sư Trương Vĩnh Thần cho rằng suy buồng trứng sớm bắt nguồn từ thận hư, ảnh hưởng đến tỳ, do đó, nguyên tắc điều trị là bổ thận kiện tỳ và điều lý xung nhâm.
Tâm chủ thần minh và huyết mạch, đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa lục phủ ngũ tạng Theo “Phụ nhân đại toàn lương phương”, tâm khí ảnh hưởng đến ngũ tạng, đặc biệt là khi ngũ tạng mệt mỏi có thể dẫn đến kinh nguyệt bế tắc Tâm thuộc hỏa và thận thuộc thủy, sự tương tác giữa tâm hỏa và thận thủy rất cần thiết để duy trì cân bằng Khi tâm khí bị uất kết, việc truyền thông xuống thận gặp trở ngại, dẫn đến tình trạng kinh nguyệt không đều Giáo sư Hạ Quế Thành nhấn mạnh rằng nguyên nhân của bệnh thường xuất phát từ tâm âm bất túc, gây ra sự bất giao giữa tâm và thận Do đó, việc điều trị cần tập trung vào việc “điều tâm” để duy trì sự ấm áp của tâm hỏa, từ đó giúp thận thủy được điều hòa.
Phụ nữ thường phải đối mặt với tình trạng khí huyết mất cân bằng do những yếu tố như kinh nguyệt, mang thai, sinh đẻ và cho con bú Khi âm huyết bị tổn hại, có thể dẫn đến tình trạng ra máu không đều, lượng kinh nguyệt ít hoặc trễ kỳ Nếu tà khí tác động lên huyết và âm, tình trạng này có thể nghiêm trọng hơn, gây ra bế kinh và vô sinh do khí trệ và ứ huyết trong tử cung.
Xung mạch là nơi hội tụ khí huyết của 12 đường kinh, được gọi là “xung chi huyết hải”, trong khi nhâm mạch chủ âm toàn thân, còn được gọi là “minh mạch chi hải” Vương Băng đã viết rằng nhâm mạch có vai trò quan trọng đối với nữ giới, đặc biệt trong việc dưỡng thai Khi chức năng tạng phủ không ổn định, khí huyết bị rối loạn và xung nhâm bị tổn thương, điều này có thể ảnh hưởng đến chức năng sinh dục, dẫn đến tình trạng kinh nguyệt không đều, lượng kinh ít, thậm chí có thể gây bế kinh.
1.2.3 Phương pháp điề u tr ị suy bu ồ ng tr ứ ng s ớ m theo YHCT
Bệnh suy buồng trứng sớm chưa được ghi chép rõ ràng trong các tài liệu cổ, và các giáo trình trung y phụ khoa không phân loại biện chứng SGCNBT một cách cụ thể Theo Tử Tung Nham, SGCNBT được chia thành hai thể chính là can thận âm hư và tỳ thận dương hư, cùng với bốn thể kiêm chứng như can khí uất trệ, thấp trọc nội uẩn, huyết phận nhiệt thịnh, và mạch lạc ứ trệ Để điều trị can thận âm hư, thường sử dụng các thảo dược như bắc sa sâm, thạch hộc, thục địa hoàng, và kỷ tử nhằm dưỡng âm huyết Đối với tỳ thận dương hư, các vị thuốc như thỏ ty tử, đỗ trọng, và tục đoạn được dùng để ôn bổ can thận, đồng thời chú trọng sơ can, trừ thấp và thông trệ.
Tổng quan một số mô hình gây SGCNBT
1.3.1 Mô hình gây SGCNBT b ằ ng t ự mi ễ n d ị ch
Năm 1988, LaBarbera và cộng sự đã phát hiện mối liên hệ giữa bệnh buồng trứng tự miễn và suy buồng trứng sớm ở một số phụ nữ Nghiên cứu của Horejsi cho thấy trong số 13 bệnh nhân vô kinh nguyên phát, có 5 người dương tính với kháng thể kháng zona pellucida, trong khi 14 trong số 60 bệnh nhân vô kinh thứ phát cũng có kháng thể này Điều này cho thấy việc nghiên cứu viêm buồng trứng tự miễn có thể mang lại ý nghĩa lâm sàng trong việc phát triển mô hình động vật, mặc dù cơ chế cụ thể vẫn chưa được làm rõ.
Thiếu tế bào điều tiết T có thể gây ra phản ứng quá mức của buồng trứng với kháng thể tự thân, dẫn đến viêm buồng trứng tự miễn và tổn thương buồng trứng Các phương pháp mô hình phổ biến để nghiên cứu tình trạng này bao gồm nhiều kỹ thuật khác nhau.
1.3.1.1 Cắt bỏ tuyến ức ở chuột sơ sinh
Hai ngày sau khi loại bỏ tuyến ức, 74% chuột B6A và 92% chuột C31 xuất hiện kháng thể chống buồng trứng qua phương pháp miễn dịch huỳnh quang gián tiếp Tong thực hiện phẫu thuật mở xương ức trên những con chuột sinh ra 2-4 ngày sau gây mê, sau khi hai tuyến ức được hút ra, vết mổ được đóng lại và chuột tiếp tục được nuôi dưỡng bởi chuột mẹ Sau 14 ngày, 90% chuột nhắt phát hiện viêm buồng trứng tự miễn và suy buồng trứng sớm, đồng thời phát hiện kháng thể trong huyết thanh có kích thước 125 kDa, được đặt tên là protein đặc hiệu ooplasm-1 (OP1).
1.3.1.2 Gây viêm buồng trứng tự miễn bằng kháng nguyên Zona pellucida (ZP)
Năm 1994, Smith và cộng sự lần đầu tiên báo cáo rằng kháng thể chống zona pellucida (ZP) liên quan đến sự phát sinh của suy buồng trứng nguyên phát (POI) Nghiên cứu của Rhim cho thấy viêm buồng trứng tự miễn xảy ra khi tiếp xúc với kháng nguyên zona pellucida 3, với 86% chuột B6AF1 bị viêm buồng trứng sau tiêm và sự xuất hiện của tế bào lympho trong vùng kẽ buồng trứng vào ngày thứ 6 Dựa trên trình tự axit amin 330-342 của zona pellucida 3, Fu Li và cộng sự đã tổng hợp một polypeptide zona và tiêm vào chuột, kết quả cho thấy 70% chuột trong nhóm mô hình gặp rối loạn chu kỳ tình dục, 50% không có chu kỳ và 80% có kháng thể kháng zonal dương tính, trong khi 90% chuột bị viêm buồng trứng tự miễn.
1.3.2 Mô hình gây SGCNBT b ằ ng bi ến đổ i gen
Hiện nay, nguyên tắc tái tổ hợp tương đồng DNA được áp dụng phổ biến để thay thế đoạn gen mục tiêu nhằm loại bỏ gen Mô hình loại bỏ gen POI đã thu hút nhiều sự chú ý trong nghiên cứu, đóng góp quan trọng vào việc hiểu nguyên nhân của POI, mặc dù vẫn chưa được giải thích đầy đủ Năm 2010, Jagarlamudi đã nghiên cứu các mô hình chuột liên quan đến POI, kết hợp với các gen mới được phát hiện Schmidt và cộng sự cũng đã phát hiện rằng đột biến gen FOXL2 ở chuột dẫn đến sự ngừng phát triển của tế bào hạt, khiến tế bào trứng dần đóng lại, và sau 8 tuần, nhóm nang ban đầu cạn kiệt, không còn tế bào trứng và nang trứng bình thường trong buồng trứng.
16 tuần Vô sinh, chỉ ra rằng FOXL2 có liên quan đến sự phát triển nang trứng [64]
1.3.3 Mô hình gây SGCNBT b ằ ng hoá ch ấ t
1.3.3.1 Mô hình gây SGCNBT bằng thuốc hóa trị
Fatih và cộng sự đã chỉ ra rằng sau 5 đến 6 tuần tiêm paclitaxel với liều 2,5, 5,0 và 7,5 mg/kg, số lượng nang trứng ở chuột giảm đáng kể, với nhóm tiêm 7,5 mg/kg giảm 36% so với nhóm đối chứng (P = 0,001) Đồng thời, Mehmet và cộng sự cũng đã thiết lập mô hình suy buồng trứng tiên phát (POI) trên chuột bằng cách sử dụng paclitaxel và cisplatin, với liều 7,5 mg/kg paclitaxel và 5 mg/kg cisplatin Kết quả thống kê cho thấy số lượng nang trong nhóm paclitaxel và cisplatin đều giảm so với nhóm chứng (P < 0,01), tuy nhiên sự khác biệt giữa hai nhóm paclitaxel và cisplatin không đáng kể.
1.3.3.2 Mô hình gây SGCNBT bằng trippetgium glycoside
Trippetgium glycoside (TG) là hoạt chất chiết xuất từ cây Lôi công đằng, có tác dụng chống viêm, giảm đau và ức chế miễn dịch, thường được sử dụng trong điều trị các bệnh tự miễn và viêm như thấp khớp, viêm khớp Gần đây, TG đã thu hút sự chú ý với nghiên cứu cho thấy khả năng chống ung thư tuyến tụy Tuy nhiên, việc sử dụng triptolide lâu dài ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có thể dẫn đến rối loạn kinh nguyệt và vô kinh Do đó, TG có thể được áp dụng để tạo mô hình suy buồng trứng sớm Trong một nghiên cứu, Yu và cộng sự đã tiêm TG 40 mg/kg/ngày cho chuột SD 12 tuần tuổi trong 10 tuần, ghi nhận rối loạn chu kỳ động dục, giảm chỉ số buồng trứng và nồng độ Estrogen huyết thanh so với nhóm đối chứng (p