Bảo vệ quyền con người luôn là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong bối cảnh tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập sâu rộng, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người ngày càng quan trọng hơn bao giờ hết. Song song với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chú trọng xây dựng một nhà nước pháp quyền “của dân, do dân, vì dân”, xây dựng hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Dựa trên tinh thần đó, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác trong thời gian tới (sau đây gọi là Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002) yêu cầu: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, NBC và những người tham gia tố tụng khác... Các cơ quan tư pháp phải có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa”. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 26 tháng 5 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi là Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 26 tháng 5 năm 2005) tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người THTT và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới (sau đây gọi là Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022) nêu rõ: Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá;... Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với luật sư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành nghề luật sư. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư... Qua đó cho thấy, việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa là hoạt động mang tính quyết định đối với việc đổi mới hoạt động tư pháp. Do đó, BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận nổi bật chế định bào chữa thể hiện qua việc xây dựng Chương V về bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bổ sung thêm diện NBC, quyền và nghĩa vụ của NBC. Điều 73 BLTTHS năm 2015 đã chứng tỏ vị trí, vai trò của NBC ngày càng được coi trọng trong thực tiễn lập pháp. Sự tham gia của NBC trong TTHS không chỉ giúp người bị buộc tội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà còn góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng và chính xác, hạn chế oan sai. Tuy nhiên, vị trí và vai trò của NBC chưa thật sự đầy đủ, chưa được đảm bảo thực hiện theo quy định của pháp luật và yêu cầu cải cách tư pháp. Bên cạnh những kết quả tích cực, cũng còn nhiều bất cập. Trong đó có tình trạng NBC không hoặc chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình làm ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng cũng như lợi ích của người được bào chữa. Từ những lý do trên, tác giả thấy rằng việc nghiên cứu và phân tích những quy định về “Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự” là hết sức cần thiết, từ đó giúp hoàn thiện và áp dụng các quy định đó trong thực tiễn một cách dễ dàng hơn.
Trang 1BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Trang 2Hà Nội - 2023
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO
CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Chuyên ngành: Luật
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết luận, số liệu trong khóa luận tốt nghiệp là trung thực, đảm bảo độ tin cậy./.
Xác nhận của
giảng viên hướng dẫn
Tác giả khóa luận tốt nghiệp
(Ký và ghi rõ họ tên)
Trang 5MỤC LỤC
Trang
bìa i
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.2 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.2.2 Ý nghĩa của việc quy định quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.3 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.3.1 Khái niệm và đặc điểm nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.3.2 Ý nghĩa của việc quy định nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.4 Cơ sở quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.4.1 Cơ sở lý luận của việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.4.2 Cơ sở thực tiễn của việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Trang 6Kết luận chương 1
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
2.1 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền của người bào chữa
2.2 Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nghĩa vụ của người bào chữa
Kết luận chương 2
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
3.1 Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
3.1.1 Những kết quả đạt được
3.1.2 Những hạn chế, vướng mắc
3.1.3 Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
3.2.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
3.2.2 Giải pháp khác
Kết luận chương 3
KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang 7MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ quyền con người luôn là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước phápquyền XHCN Việt Nam Trong bối cảnh tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhậpsâu rộng, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người ngày càng quan trọng hơn bao giờhết Song song với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn chú trọng xây dựng một nhà nước pháp quyền “của dân, do dân, vì dân”,
xây dựng hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo các quyền con người, quyền tự do,dân chủ của công dân Dựa trên tinh thần đó, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02tháng 01 năm 2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác trongthời gian tới (sau đây gọi là Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm
2002) yêu cầu: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo
đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, NBC và những người tham gia tố tụng khác Các cơ quan tư pháp phải có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa”
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 26 tháng 5 năm 2005 của Bộchính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi là Nghị quyết
số 49/NQ-TW ngày 26 tháng 5 năm 2005) tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới việc tổ
chức phiên tòa xét xử xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người THTT và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022 của Ban Chấp hànhTrung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước phápquyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới (sau đây gọi là Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09 tháng 11 năm 2022) nêu rõ:
Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng
là đột phá; Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật
sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với luật sư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động
Trang 8hành nghề luật sư Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư
Qua đó cho thấy, việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa là hoạtđộng mang tính quyết định đối với việc đổi mới hoạt động tư pháp Do đó,BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận nổi bật chế định bào chữa thể hiện qua việc xâydựng Chương V về bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộctội, bổ sung thêm diện NBC, quyền và nghĩa vụ của NBC Điều 73 BLTTHS năm
2015 đã chứng tỏ vị trí, vai trò của NBC ngày càng được coi trọng trong thực tiễnlập pháp Sự tham gia của NBC trong TTHS không chỉ giúp người bị buộc tội bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà còn góp phần xác định sự thật kháchquan của vụ án, giúp quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng và chính xác,hạn chế oan sai Tuy nhiên, vị trí và vai trò của NBC chưa thật sự đầy đủ, chưađược đảm bảo thực hiện theo quy định của pháp luật và yêu cầu cải cách tư pháp.Bên cạnh những kết quả tích cực, cũng còn nhiều bất cập Trong đó có tình trạngNBC không hoặc chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình làm ảnh hưởng đếnhoạt động tố tụng cũng như lợi ích của người được bào chữa Từ những lý do
trên, tác giả thấy rằng việc nghiên cứu và phân tích những quy định về “Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự” là hết sức cần thiết, từ đó
giúp hoàn thiện và áp dụng các quy định đó trong thực tiễn một cách dễ dàng hơn
2 Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định NBC là một trong những chế định quan trọng trong TTHS, luônnhận được sự quan tâm ở rất nhiều góc độ khác nhau và được nghiên cứu, đề cậptới trong một số bài báo trên tạp chí, đề tài khoa học cụ thể như:
Nhóm các sách chuyên khảo như: Những điểm mới về chế định bào chữa
trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (TS Phan Trung Hoài, Nxb Chính trị
quốc gia, 2016); Vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự (TS Nguyễn Văn Tuân, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2001); Quyền bào chữa và vai trò luật sư trong tố
tụng hình sự (TS Nguyễn Văn Tuân, Nxb Dân trí, 2018);
Nhóm các luận án: Luận án tiến sĩ luật học “Hoạt động bào chữa của luật
sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” (tác giả Ngô Thị Ngọc Vân,
2016, Trường Đại học Luật Hà Nội) trình bày những vấn đề lý luận về hoạt độngbào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS Nghiên cứu cơ sở
Trang 9pháp lý và thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn này Đề xuấtgiải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS về vấn đề này, qua đó khẳng định tầm quantrọng của chức năng gỡ tội và hoạt động bào chữa của NBC là luật sư.
Luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật
sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay” (tác giả Lê Minh Đức,
2020, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), luận án tiến sĩ phân tích cơ sở
lý luận về quyền và nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động TTHS ở Việt Nam, đưa
ra thực trạng thực hiện pháp luật về vấn đề trên Từ đó, nêu quan điểm và giảipháp bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư trong TTHS
Luận án tiến sĩ luật học “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt
Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn” (tác giả Nguyễn Văn Hiển, 2010, Học
viện Khoa học xã hội) Trong luận án này, tác giả đã nghiên cứu toàn diện các vấn
đề lý luận và thực tiễn để chứng minh sự tồn tại khách quan của nguyên tắc tranhtụng trong các mô hình TTHS; khả năng xây dựng và áp dụng có hiệu quả nguyêntắc này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam Từ đó, khẳng định tầmquan trọng của chức năng gỡ tội và hoạt động bào chữa của NBC
Những tài liệu chuyên khảo và luận án tiến sĩ này nghiên cứu sâu về quyềnbào chữa, quyền và nghĩa vụ của NBC trong tố tụng, đã có những phân tích vềnhững điểm mới trong chế định bào chữa theo BLTTHS năm 2015 Tuy nhiên,những tài liệu nêu trên nghiên cứu về vị trí, vai trò cũng như hoạt động của NBC
mà chủ yếu là nghiên cứu về vị trí, vai trò của Luật sư khi tham gia tố tụng nóichung khi chỉ dừng lại ở việc làm rõ chủ yếu về quyền và nghĩa vụ của NBC hoặcmới chỉ đề cập đến việc xác định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của NBC khitham gia các hoạt động tố tụng khác nhau
Nhóm các bài báo trên tạp chí khoa học: “Những điểm mới về quyền của
người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và việc thực
hiện của luật sư bào chữa” (tác giả Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí Nghề Luật, Học
viện Tư pháp, Số 3/2016, tr 7-10); “Những điểm mới về quyền của người bàochữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và việc thực hiện của
luật sư bào chữa” (tác giả Phan Trung Hiền, Tạp chí Nghề Luật, Số 3/2016, tr.7).
Hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, đầy đủ
và có hệ thống về vấn đề quyền và nghĩa vụ của NBC trong TTHS Tuy nhiên,
Trang 10những kết quả nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo vô cùng hữu ích trongquá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp của tác giả
3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Khóa luận tốt nghiệp đóng góp vào việc hoàn thiện lý luận về địa vị pháp lýcủa NBC và khoa học luật TTHS Việt Nam Đây là tài liệu tham khảo cho ngườihọc tập, nghiên cứu về luật TTHS nói chung và về NBC nói riêng Khóa luận tốtnghiệp cũng là tài liệu có giá trị thực tiễn, tài liệu tham khảo đáng tin cậy cho cánhân, cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực TTHS có liên quan đến hoạtđộng bào chữa nói chung và NBC nói riêng
4 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền và nghĩa
vụ của NBC trong TTHS, tác giả mong muốn làm rõ, phân tích, đánh giá nhữngvấn đề đó và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao, đảm bảo tốt hơn việcthực hiện quyền và nghĩa vụ của NBC trong TTHS, từ đó đáp ứng nhu cầu của cảicách tư pháp
5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tốt nghiệp tập trung nghiên cứu về khía
cạnh lý luận, khía cạnh pháp lý được quy định tại BLTTHS năm 2015 và thực tiễnthực hiện quyền và nghĩa vụ của NBC trong TTHS
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Nội dung của khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu quy định củaBLTTHS năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của NBC, thực tiễn áp dụng các quyđịnh đó và đưa ra kiến nghị để hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về quyền
và nghĩa vụ của NBC trong TTHS, cùng với đó đưa ra giải pháp nâng cao chấtlượng việc thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của NBC trên thực tế
- Về không gian: Khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu quyền và nghĩa vụ củaNBC phạm vi cả nước
- Về thời gian: Khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của NBCtrong TTHS Việt Nam, tính từ thời điểm BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luậtcho đến nay
6 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp chủ yếu dựa trên cơ sở
Trang 11phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và cải cách tư pháp và về xâydựng nhà nước pháp quyền Ngoài ra, khóa luận tốt nghiệp còn sử dụng một sốphương pháp nghiên cứu trong khoa học pháp lý thuộc chuyên ngành luật hình sự
-và TTHS như phương pháp nghiên cứu tình huống pháp lý điển hình, phươngpháp tổng hợp, phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, v.v khi nghiên cứu đềtài này Trong đó, các phương pháp được sử dụng vào từng vấn đề cụ thể:
Thứ nhất, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng để làm
rõ các vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn về quyền và nghĩa vụ của NBC theoquy định của luật TTHS đồng thời so sánh các quy định của pháp luật về quyền
và nghĩa vụ của NBC;
Thứ hai, phương pháp nghiên cứu tình huống pháp lý điển hình được dùng
để đánh giá thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của NBC trong TTHS ViệtNam
7 Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung củaluận gồm 03 chương:
Chương 1 Một số vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
trong tố tụng hình sự
Chương 2 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa
Chương 3 Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong
tố tụng hình sự Việt Nam và giải pháp nâng cao chất lượng
Trang 12CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 Khái niệm người bào chữa trong tố tụng hình sự
Vấn đề xác định diện chủ thể thực hiện chức năng “gỡ tội” là NBC và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội còn có nhiều ý kiến, nhiều cáchhiểu, nhiều cách tiếp cận khác nhau Trong khoa học pháp lý hiện nay có rất nhiềuquan điểm về khái niệm NBC Cụ thể, có quan điểm cho rằng:
NBC là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền THTT chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền THTT tiếp nhận việc đăng ký bào chữa, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị buộc tội không có tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội, giúp họ về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa1.
Quan điểm khác lại cho rằng: “NBC là người tham gia tố tụng với mục đích
làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết”2.
Theo PGS.TS Võ Khánh Vinh: “Người bào chữa là người tham gia tố tụng
với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo ”3.
Với một quan điểm khác, tác giả Trần Văn Bảy cho rằng: “Người bào chữa
trong tố tụng hình sự là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời thông qua
đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”4.
Khái niệm NBC lần đầu tiên được ghi nhận trong Sắc lệnh quy định tổ chứccác đoàn luật sư ngày 10 tháng 10 năm 1945 Nhưng chỉ quy định cho luật sư
1 Hoàng Thị Minh Sơn (chủ biên) (2022), Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr 167.
2 Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, tr 153.
3 Nguyễn Trần Vĩnh Linh (2023), “Người bào chữa trong tố tụng hình sự”, chu-a-trong-to-tu-ng-hi-nh-su-1694361786.html (truy cập ngày 01/10/2023).
https://lsvn.vn/nguo-i-ba-o-4 Nguyễn Trần Vĩnh Linh (2023), tlđd 3.
Trang 13quyền bào chữa và các điều kiện trở thành luật sư5 Kế thừa các VBPL trước,cùng với sự đòi hỏi cần phải thay đổi để phù hợp với xã hội ngày nay, BLTTHSnăm 2015 ra đời và có những sửa đổi căn bản trong quy định về quyền, nghĩa vụ
và địa vị pháp lý của NBC Đặc biệt tại Điều 72 BLTTHS năm 2015 quy định:
“Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”.
Đối với quá trình tố tụng trong VAHS, sự tham gia của NBC nhằm bảo đảmtính dân chủ, quyền con người trong TTHS, góp phần trong việc xác định sự thậtkhách quan của vụ án, giúp đẩy nhanh quá trình giải quyết vụ án và tăng tínhchính xác, loại bỏ phần nào sự chuyên quyền của cơ quan THTT, từ đó đảm bảo
sự tin tưởng của người dân đối với các cơ quan, người có thẩm quyền THTT Sựtham gia của NBC trong TTHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngườiđược bào chữa; giúp họ nắm được quy định của pháp luật, quy trình, thời gian tốtụng, quá trình giải quyết vụ án Ngoài ra, khi tham gia tố tụng, NBC có thể pháthiện ra hành vi vi phạm của các cơ quan THTT để khiếu nại đến các cơ quan chứcnăng có thẩm quyền giải quyết nhằm bảo vệ công lý, lẽ phải
Theo khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015, NBC có thể là những đối tượngsau:
NBC là Luật sư: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề
theo quy định của pháp luật, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân,
cơ quan, tổ chức6 Đối với VAHS luật sư tham gia tố tụng với tư cách là NBC chongười bị buộc tội, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác,người kiến nghị khởi tố hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại,đương sự Luật sư tham gia TTHS có tư cách tố tụng độc lập, có các quyền vànghĩa vụ tương ứng với quyền và nghĩa vụ của NBC theo BLTTHS Hoạt độngbào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp
NBC là người đại diện của người bị buộc tội: Người đại diện cho người bị
buộc tội là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị buộc tội chưa thành niên
5 Cục Công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp, Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật,
https://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=776 (truy cập ngày 01/10/2023).
6 Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012.
Trang 14hoặc người có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa hoặc người cónhược điểm về tâm thần; đại diện theo pháp luật của bị can, bị cáo là pháp nhân7.
NBC là bào chữa viên nhân dân: Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt
Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, cókiến thức pháp lí, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủyban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham giabào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình8 Họ tham gia tốtụng để bào chữa cho người bị buộc tội khi người bị buộc tội hoặc người đại diệnhợp pháp của họ không mời NBC thì cơ quan có thẩm quyền THTT đề nghị Mặttrận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viêncủa tổ chức mình9 hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viêncủa Mặt trận tự cử bào chữa viên nhân dân tham gia TTHS
NBC là trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý: Trợ giúp viên pháp lý là viên chức của Trung
tâm trợ giúp pháp lý được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm và cấpthẻ Họ vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật về viên chức, vừa phải đáp ứng cácđiều kiện, tiêu chuẩn về Trợ giúp viên pháp lý và quy trình cử người tham gia tốtụng theo quy định của pháp luật trợ giúp pháp lý, vừa đáp ứng điều kiện về NBCtheo quy định của pháp luật TTHS Trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng với tưcách NBC khi được người bị buộc tội nhờ bào chữa và được Trung tâm trợ giúppháp lý nhà nước cử tham gia tố tụng hoặc thuộc trường hợp chỉ định NBC chongười bị buộc tội thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của BLTTHSnăm 2015 Theo đó, có 14 nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí10.Bên cạnh đó, có một số người không được là NBC quy định tại khoản 4Điều 72 BLTTHS năm 2015 bao gồm:
Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; Người tham gia vụ án đó với tư cách
là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch,
7 Hoàng Thị Minh Sơn (chủ biên), tlđd 1, tr 168.
8 Khoản 3 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
9 Điểm c khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
10 Thanh Hà (2020), “Trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự và vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự”, https://tgpl.moj.gov.vn/Pages/hoi-nhap-phat-trien.aspx?ItemID=80&l=NghiencuuveTGPL
(truy cập ngày 02/10/2023).
Trang 15người dịch thuật; Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án
mà chưa được xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
NBC tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHScủa người bị buộc tội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của họ Người đã THTT cótrách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủtrên cả hai phương diện buộc tội và gỡ tội Do vậy, người đã THTT không được làNBC trong cùng một vụ án Người thân thích của những người đã hoặc đangTHTT không được là NBC trong vụ án đó vì việc họ tham gia bào chữa trong vụ
án có thể sẽ gây ảnh hưởng đến sự khách quan trong việc giải quyết vụ án củangười THTT là người thân thích của họ Tiếp đó, người tham gia trong vụ án đóvới tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, ngườiphiên dịch, người dịch thuật, những người này phải thực hiện nghĩa vụ một cáchtrung thực, không chỉ theo hướng gỡ tội cho bị can, bị cáo Vì vậy, họ không thểđồng thời là NBC trong cùng một vụ án11 Còn đối với người đang bị truy cứuTNHS, người bị kết án mà chưa được xóa án tích, người đang bị áp dụng biệnpháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắtbuộc, những người này sẽ không đảm bảo cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợppháp của người bị buộc tội vì chính bản thân họ cũng đang bị tước một số quyềncông dân Ngoài ra, một NBC có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trongcùng vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau Tương tự, nhiều NBC
có thể bào chữa cho một người bị buộc tội
Qua nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm NBC, tác giả đưa ra kháiniệm NBC như sau:
NBC là người đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện pháp luật quy định, được người bị buộc tội hoặc người thân thích của người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền THTT chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền THTT tiếp nhận việc đăng ký bào chữa để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
1.2 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa quyền của người bào chữa trong tố tụng
11 Hoàng Thị Minh Sơn (chủ biên), tlđd 1, tr 168-169.
Trang 16hình sự
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự
* Về khái niệm quyền và quyền của NBC trong TTHS, có nhiều ý kiến giải
thích khác nhau, tuy nhiên trong các VBPL, chưa có một khái niệm hay địnhnghĩa thống nhất Theo đó, quyền là khái niệm khoa học pháp lí dùng để chỉnhững điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổchức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai đượcngăn cản, hạn chế Đối với cá nhân, các quyền cơ bản phát sinh khi cá nhân sinh
ra và những quyền cụ thể khác phát sinh được ghi nhận khi cá nhân phát triển đếnmột giai đoạn nhất định, tham gia quan hệ xã hội, lĩnh vực hoạt động nhất định.Quyền phải gắn với phạm vi quyền, nghĩa vụ và năng lực của cá nhân và chịu tácđộng trong phạm vi giới hạn của pháp luật hay vùng lãnh thổ nhất định
Theo Từ điển tiếng Việt: “Bào chữa là dùng lý lẽ, chứng cứ để bênh vực cho
một đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hoặc dân sự trước tòa, hoặc cho việc nào đó đang bị lên án”12 Ở cách lý giải khác, tác giả Phạm Hồng Hải cho
rằng: “Bào chữa là quyền của bị can, bị cáo được đưa ra các lý lẽ, chứng cứ,
được đặt câu hỏi, được tranh luận trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử”13
Nếu xem xét ở góc độ hoạt động tố tụng thì: “Bào chữa là công việc do người bị
buộc tội và NBC thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm loại bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội”14 Quan
điểm khác cho rằng quyền của NBC trong TTHS là “tổng thể các quyền pháp luật
quy định cho phép NBC sử dụng nhằm bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội hay làm giảm nhẹ TNHS đối với người bị buộc tội mà họ bào chữa”15
Nhìn chung, các định nghĩa về bào chữa và quyền của NBC nói trên mặc dùkhác nhau về hình thức diễn đạt nhưng không khác nhau về nội hàm và thốngnhất ở chỗ chỉ rõ bản chất của việc bào chữa, đó là những hoạt động gỡ tội nhằmbảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, đồng thời góp phần xácđịnh đúng sự thật khách quan của VAHS, bảo vệ công lý và công bằng của phápluật
12 Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội – Đà Nẵng, tr 38.
13 Nguyễn Trần Vĩnh Linh (2023), tlđd 3.
14 Hoàng Thị Minh Sơn (chủ biên), tlđd 1, tr 166.
15 Hoàng Thị Minh Sơn (chủ biên), tlđd 1, tr 166.
Trang 17Từ những quan điểm trên, tác giả đưa ra khái niệm quyền của NBC trong
TTHS như sau: Quyền của NBC trong TTHS là tổng thể những điều mà Nhà nước
trao cho NBC thông qua các quy định pháp luật, cho phép NBC sử dụng nhằm loại bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội, qua đó bảo đảm hoạt động tố tụng.
* Về đặc điểm quyền của NBC trong TTHS
Thứ nhất, quyền của NBC được ghi nhận về mặt pháp lý và đảm bảo thực
hiện bởi các quy định của pháp luật
Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định về quyền của NBC; nếuNBC là luật sư thì tại khoản 1 Điều 21 Luật luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung
năm 2012 quy định Luật sư có quyền: “Được pháp luật bảo đảm quyền hành
nghề luật sư theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật có liên quan; Đại diện cho khách hàng theo quy định của pháp luật; Hành nghề luật sư, lựa chọn hình thức hành nghề luật sư và hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo quy định của Luật này; Hành nghề luật sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam; ở nước ngoài; Các quyền khác ” Bên cạnh đó, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm
2015 cũng thừa nhận quyền mà BLTTHS năm 2015 trao cho NBC
Thứ hai, quyền của NBC có sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền với NBC,
thể hiện cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các quan hệ xã hội của NBC vớingười bị buộc tội hoặc với cơ quan, người có thẩm quyền THTT hoặc với ngườitham gia tố tụng khác
Với vai trò là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc được cơquan có thẩm quyền THTT chỉ định bào chữa, NBC tham gia vào quá trình tốtụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, cùng với đó làđảm bảo quá trình tố tụng khách quan Do vậy, quyền của NBC gắn liền vớinhững hoạt động diễn ra trong quá trình tố tụng (ví dụ: Gặp, hỏi người bị buộctội; Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt độngđiều tra khác theo quy định của BLTTHS; Đề nghị thay đổi người có thẩm quyềnTHTT, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịchthuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; ),những quyền này được tất cả mọi người thừa nhận và tôn trọng
1.2.2 Ý nghĩa của việc quy định quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Trang 18Nhằm bảo đảm cho NBC thực hiện đúng chức năng quyền hạn của mình,bảo đảm dân chủ và khách quan trong TTHS, Điều 73 BLTTHS năm 2015 quyđịnh mở rộng hơn những quyền của NBC so với BLTTHS năm 2003 Đây là mộtbước tiến rất quan trọng, giúp NBC thực hiện được vai trò, trách nhiệm của mìnhmột cách đầy đủ hơn, qua đó đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị buộc tội, hạn chế các trường hợp oan sai, bức cung, tạo điều kiện cho NBCtham gia vào hoạt động tố tụng thuận lợi hơn
Trong hoạt động tố tụng, NBC có chức năng gỡ tội luôn đối lập với chứcnăng buộc tội của cơ quan THTT NBC mặc dù có kiến thức pháp luật và kinhnghiệm trong hoạt động tố tụng, thay mặt người bị buộc tội tham gia tố tụng trongmột VAHS để giúp người bị buộc tội chống lại sự buộc tội, truy tố hoặc một sự tốcáo, làm giảm TNHS cho người bị buộc tội, giúp cơ quan có chức năng làm sáng
tỏ các tình tiết vụ án Do vậy, họ có quyền tranh tụng với các chủ thể khác trongquá trình xử lý VAHS nhưng nếu không có những quyền mà pháp luật trao cho thì
sẽ khó có thể đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội,cũng như uy tín, danh tiếng và kinh nghiệm của mình
1.3 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.3.1 Khái niệm và đặc điểm nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
* Về khái niệm nghĩa vụ và nghĩa vụ của NBC, Điều 274 Bộ luật Dân sự
năm 2015 quy định: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể phải
chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá trị, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”.
Thông thường nghĩa vụ luôn đi đôi với quyền (ví dụ: Quyền và nghĩa vụ củaNBC; Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; ).Nghĩa vụ là những hành vi mà một người phải thực hiện vì lợi ích của ngườikhác Nghĩa vụ là việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội
và đối với người khác16 Có ba loại nghĩa vụ: Nghĩa vụ theo phong tục (nghĩa vụ
do phong tục, tập quán của địa phương quy định); Nghĩa vụ về đạo đức (con phải
có hiếu với cha mẹ, vợ chồng phải chung thủy với nhau); Nghĩa vụ pháp lý
16 Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội – Đà Nẵng, tr 679
Trang 19(những nghĩa vụ đã được pháp luật quy định) Vi phạm nghĩa vụ pháp lý thì tùytheo mức độ mà có thể bị xử lý theo các chế tài hình sự hoặc dân sự (ví dụ như:Phạt tù, tử hình hoặc phạt tiền, buộc bồi thường thiệt hại)17
Từ đó, tác giả đưa ra khái niệm nghĩa vụ của NBC trong TTHS như sau:
Nghĩa vụ của NBC là hành vi bắt buộc mà NBC phải thực hiện hoặc không được thực hiện vì lợi ích của người bị buộc tội và lợi ích của xã hội, là những bổn phận mà NBC phải tuân thủ để thỏa mãn nhu cầu, đòi hỏi lợi ích của người bị buộc tội.
* Về đặc điểm nghĩa vụ của NBC
Thứ nhất, nghĩa vụ của NBC thể hiện mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữa
NBC và người bị buộc tội
Thể hiện qua việc “người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ
bào chữa”18 Đó là mối quan hệ pháp lý chặt chẽ giữa NBC với người bị buộc tội.Khi NBC đồng ý nhận bào chữa cho người bị buộc tội thì mối quan hệ giữa họ làmối quan hệ pháp lý dân sự, quyền và nghĩa vụ giữa các bên được xác lập, buộchai bên phải thực hiện theo đúng cam kết, bên nào vi phạm thì phải chịu tráchnhiệm tương ứng Quan hệ này đề cao tính tự nguyện, các bên tự tôn trọng giaodịch với nhau trong đó có thỏa thuận xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của cácbên Mối quan hệ này có thể nhận diện trên 3 phạm vi: Quan hệ trong phạm vitham gia bào chữa trong các giai đoạn tố tụng; Quan hệ giữa người và ngườitrong đời sống xã hội; Quan hệ về nghĩa vụ tài sản giữa NBC và người bị buộctội19 Mối quan hệ này xuất hiện khi người bị buộc tội nhờ NBC bào chữa chomình và được cơ quan, người có thẩm quyền THTT tiếp nhận việc đăng ký bàochữa Về bản chất, mối quan hệ này là mối quan hệ nhờ và nhận, có thể hiểu làngười bị buộc tội nhờ NBC bào chữa cho mình và NBC nhận bào chữa cho người
bị buộc tội
Thứ hai, nghĩa vụ của NBC đảm bảo cho lợi ích hợp pháp của chủ thể có
quyền tương ứng
Mối quan hệ giữa NBC với người bị buộc tội luôn hướng tới một lợi ích
17 Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam dân luật lược khảo – Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, Bộ Quốc gia giáo
dục xuất bản, Sài Gòn, tr 25.
18 Khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
19 Phan Trung Hoài, Chu Thị Trang Vân (2019), Sổ tay Luật sư – Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.
46.
Trang 20nhất định NBC có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để xácđịnh người bị buộc tội vô tội hoặc chỉ ra được những tình tiết giúp người bị buộctội giảm nhẹ được TNHS, giúp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bịbuộc tội Do vậy, họ có quyền hưởng thù lao từ việc bào chữa cho người bị buộctội theo thỏa thuận của 2 bên Ngược lại, người bị buộc tội muốn bảo vệ tốt nhấtquyền và lợi ích hợp pháp của mình thì cần tới NBC và người bị buộc tội cũng cónghĩa vụ trả thù lao xứng đáng cho NBC.
Thứ ba, nghĩa vụ của NBC góp phần đảm bảo công lý và hoạt động TTHS.
NBC khi tham gia TTHS còn có nghĩa vụ bảo đảm công lý và bảo đảm hoạtđộng TTHS Bổn phận của NBC là tôn trọng sự thật, không được mua chuộc,cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sựthật20 và NBC không hứa hẹn kết quả trước Bên cạnh đó, những quy định tạiBLTTHS năm 2015 về nghĩa vụ của NBC cũng cho thấy rằng NBC góp phầntrong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp đẩy nhanh và tăng tínhchính xác của quá trình giải quyết vụ án, hạn chế oan sai, giúp cơ quan THTTtrong quá trình giải quyết vụ án nhìn ra được những khuyết điểm, thiếu sót còntồn đọng, giúp họ giải quyết vụ án một cách khách quan nhất
1.3.2 Ý nghĩa việc quy định nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Đối với người bị buộc tội: TTHS là lĩnh vực hoạt động đặc biệt của nhà
nước, ở đó, xuất hiện quan hệ bất bình đẳng giữa một bên là các cơ quan, người
có thẩm quyền THTT với sự hậu thuẫn của quyền lực nhà nước và bên kia yếu thếhơn là những người bị buộc tội Cũng từ đó, nguy cơ xâm phạm đến quyền conngười là cao nhất và hậu quả cũng nặng nề nhất, do vậy, sự đòi hỏi về bảo vệquyền con người trong TTHS cũng là yêu cầu bức thiết nhất Bên cạnh đó, người
bị buộc tội có thể sẽ có tâm lý hoang mang, dễ bị dao động, đi kèm với đó là nhậnthức pháp luật đôi khi còn hạn chế nên sẽ dẫn tới việc khó có thể tự bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bản thân Do vậy, nhiệm vụ và mục đích của NBC khitham gia tố tụng là làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tộihoặc chỉ ra những tình tiết giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội, từ đó bảo vệquyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội
Đối với cơ quan, người có thẩm quyền THTT: Trong TTHS có 3 chức năng
20 Điểm d khoản 2 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trang 21cơ bản, mỗi chức năng có thể do một hoặc một nhóm chủ thể tham gia thực hiện.Mặc dù có tính độc lập riêng nhưng chúng lại có mối quan hệ bổ trợ cho nhau vàđều hướng tới việc giải quyết đúng đắn VAHS Trong khi chức năng buộc tộiđược thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền như Viện kiểm sát, cơ quan điềutra Điều này nhằm phát hiện, chứng minh tội phạm, người phạm tội và lỗi của
họ, buộc họ phải chịu chế tài hình sự Thì chức năng bào chữa lại được thực hiệnbởi bên bị buộc tội trong đó có NBC, nhằm bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sựbuộc tội hay đưa ra các tình tiết giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội Bên cạnh
đó, chức năng xét xử là một trong những phương diện hoạt động quan trọng, đượcthực hiện bởi chủ thể duy nhất có thẩm quyền là Tòa án21
NBC thông qua việc giúp người bị buộc tội bảo vệ quyền và lợi ích hợppháp của họ sẽ có thể phát hiện những vi phạm về mặt tố tụng và đưa ra nhữngkiến nghị nhằm đảm bảo hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành mộtcách khách quan, chính xác theo đúng quy định của pháp luật, giám sát hoạt động
tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền THTT, hạn chế sự chủ quan, chuyênquyền
Đối với xã hội: Trong quá trình tố tụng, NBC tiếp xúc với rất nhiều người.
Với người bị buộc tội, nhận thức pháp luật của họ đôi khi còn hạn chế nên sẽ dẫntới việc khó có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, do vậy,NBC sẽ giúp họ hiểu được quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng để cóthể phối hợp trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm tốt nhất quyền và lợi íchhợp pháp cho họ Với những đối tượng khác, đặc biệt là tại giai đoạn xét xử, NBCtranh tụng nhằm thuyết phục HĐXX nhìn nhận đúng về các tình tiết trong nộidung vụ án để xử đúng người, đúng tội Qua đó góp phần tuyên truyền, phổ biếngiáo dục pháp luật tới những người có mặt tại phiên tòa
Đối với chính bản thân NBC: NBC chủ yếu là Luật sư đã qua đào tạo pháp
luật, có đủ trình độ chuyên môn và kỹ năng giúp người bị buộc tội có thể có được
sự hỗ trợ về mặt pháp lý phù hợp Do vậy, khi tham gia tố tụng, NBC sẽ phải thựchiện nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật, việc đó cũng góp phần
21 Cổng thông tin điện tử Bộ Khoa học và Công nghệ (2022), “Chức năng bào chữa, buộc tội, xét xử trong TTHS trên thế giới”,
https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/311134/CVv358S112020071.pdf (truy cập ngày 03/10/2023).
Trang 22nâng cao trình độ, nâng cao đạo đức và thông qua đó nâng cao vị trí, vai trò củamình.
1.4 Cơ sở quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
1.4.1 Cơ sở lý luận của việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Quy định về quyền và nghĩa vụ của NBC trong TTHS Việt Nam dựa trên cơ
sở lý luận về quyền và nghĩa vụ của NBC
- Nghĩa vụ là để bảo đảm quyền của chủ thể khác, quyền là để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
Pháp luật TTHS quy định cho NBC các quyền và nghĩa vụ Việc quy địnhnhư vậy có vai trò rất quan trọng đối với NBC và người bị buộc tội, nếu quyềncủa NBC là những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối vớiNBC để theo đó NBC được hưởng, được làm mà không ai được ngăn cản, hạnchế, là cơ sở để NBC có thể thực hiện tốt chức năng bào chữa, qua đó, bảo vệ mộtcách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa cũng như đảmbảo quá trình tố tụng khách quan Thì nghĩa vụ của NBC là ràng buộc về mặtpháp lý đối với NBC, người được bào chữa và những người liên quan đến hoạtđộng tố tụng, quy định về những hành vi phải làm hoặc không được làm Nghĩa
vụ của NBC nhằm đảm bảo trách nhiệm của NBC, cũng như trách nhiệm của cơquan, người có thẩm quyền THTT Để đảm bảo quyền và lợi ích của mình, người
bị buộc tội phải nhờ đến NBC, thông qua đó NBC thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội
NBC là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về pháp luật, bằng kiếnthức chuyên môn của mình, NBC giúp người bị buộc tội về pháp lý nhằm bảo vệquyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội Vì vậy, pháp luật TTHS quyđịnh quyền, nghĩa vụ đối với NBC là để đảm bảo quyền của người bị buộc tội
- Quyền và nghĩa vụ của NBC không tách rời
Khi các chủ thể tham gia TTHS, pháp luật TTHS quy định cho họ các quyền
để bảo đảm cho việc thực hiện các quyền đó, thì pháp luật TTHS cũng quy địnhcác nghĩa vụ tương ứng đối với các quyền mà các chủ thể tham gia tố tụng đượchưởng Ví dụ, quyền và nghĩa vụ của NBC; Quyền và nghĩa vụ của người đại diện
Trang 23theo pháp luật của pháp nhân; Các chủ thể được hưởng các quyền khi tham gia
tố tụng thì đương nhiên các chủ thể phải thực hiện các nghĩa vụ tương ứng
Quy định này vừa đảm bảo các chủ thể được hưởng các quyền vừa bảo đảmcác chủ thể phải thực hiện các nghĩa vụ tương ứng Có quyền thì tất yếu có nghĩa
vụ, quyền và nghĩa vụ luôn gắn liền với nhau và không thể tách rời nhau Mỗi chủthể, nếu có đầy đủ khả năng nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi củamình thì đều có những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật trao cho
- Quyền và nghĩa vụ của NBC là cơ sở để xử lý TNHS đối với họ
Trách nhiệm chính là hậu quả pháp lý bất lợi mà NBC phải gánh chịu trướcnhà nước và trước người bị buộc tội khi có hành vi vi phạm pháp luật
NBC tham gia TTHS với nghĩa vụ và mục đích là làm sáng tỏ sự thật kháchquan của vụ án, sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để chứng minhngười bị buộc tội vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội Mặc dùpháp luật TTHS trao cho NBC những quyền nhất định nhưng những quyền đóvẫn có thể bị hạn chế bởi một số những quy định liên quan khác, NBC vi phạmviệc thực hiện nghĩa vụ hoặc sử dụng quyền vượt quá các quy định thì phải chịutrách nhiệm, tùy theo tính chất, mức độ hành vi vi phạm của NBC mà có thể hủy
bỏ việc đăng ký bào chữa, xử lý kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu TNHS,gây thiệt hại phải bồi thường Vì vậy, pháp luật TTHS quy định quyền và nghĩa
vụ đối với NBC đó là cơ sở xử lý trách nhiệm đối với NBC
- Bảo đảm hoạt động nghề nghiệp của NBC
Mọi hoạt động nghề nghiệp trong xã hội đều cần có quyền và nghĩa vụ đểbảo đảm hoạt động Hoạt động nghề nghiệp của NBC cũng không loại trừ, cần cóquyền và nghĩa vụ để bảo đảm thực hiện, trong đó có quyền và nghĩa vụ của NBCđều hướng tới mục đích thực hiện hoạt động bào chữa nhằm bảo đảm hoạt độngnghề nghiệp của NBC và nâng cao trách nhiệm, vai trò, địa vị của NBC, bảo vệquyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội cũng như đảm bảo hoạt động tốtụng
Từ các cơ sở lý luận về quyền và nghĩa vụ của NBC trong TTHS đã đượctrình bày ở trên, chúng ta có thể lý giải được vì sao BLTTHS năm 2015 quy định
về quyền và nghĩa vụ của NBC Đó là, nghĩa vụ của NBC bảo đảm quyền của chủthể khác, quyền là để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, có quyền tất yếu phải có nghĩa
Trang 24vụ, quyền và nghĩa vụ của NBC là cơ sở xử lý trách nhiệm của NBC và đảm bảohoạt động chuyên nghiệp của NBC.
1.4.2 Cơ sở thực tiễn của việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
* Cơ sở thực tiễn của việc quy định quyền của NBC trong TTHS
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, một trong những yếu tốquan trọng nhất đó là phải bảo đảm và bảo vệ việc thực hiện quyền Được coi làmột trong những quyền cơ bản nhất của con người, do vậy, quyền bào chữa rấtcần được thực thi trong thực tế Vấn đề này được đặt ra không chỉ nhằm cung cấpcho các chủ thể những yếu tố cần thiết để thực hiện quyền mà còn nhằm bảo đảmtính công bằng trong hệ thống tư pháp
NBC là chủ thể thực hiện chức năng bào chữa (chức năng gỡ tội) nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội (người được bào chữa), NBC
có trách nhiệm đưa ra những tình tiết để chứng minh người bị buộc tội vô tội hoặcgiảm nhẹ TNHS Khi tham gia TTHS, NBC được xem là một chỗ dựa vững chắc
về mặt pháp lý cho người bị buộc tội
Nhằm phục vụ quá trình làm sáng tỏ vụ án cũng như bảo vệ một cách cóhiệu quả nhất cho người được bào chữa, NBC có thể sử dụng những quyền màpháp luật TTHS quy định Tùy từng trường hợp cụ thể, nếu xét thấy không cầnthiết, NBC có thể chọn không sử dụng quyền của mình mặc dù pháp luật chophép NBC được sử dụng quyền đó
* Cơ sở thực tiễn của việc quy định nghĩa vụ của NBC trong TTHS
Trên thực tế, tồn tại tình trạng một số NBC không tuân thủ, vi phạm nghĩa
vụ, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người buộc tội Có nhiều trường hợpNBC sau khi nhận thù lao đã có hành vi trốn tránh, bỏ trốn, gây ảnh hưởng tâm lýlớn đối với người bị buộc tội, làm trì trệ quá trình giải quyết vụ án Ngoài ra, cónhiều NBC từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mình đã đảm nhận mà không
vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, đôi khi họ tìm đại một lý do để
từ chối bào chữa (Ví dụ: Cưới, ma chay, ốm, ) nhưng không có chứng cứ chứngminh
Bên cạnh đó, khi tham gia TTHS, NBC có nhiệm vụ là sử dụng mọi biệnpháp theo quy định của pháp luật để làm sáng tỏ các tình tiết xác định người bị
Trang 25buộc tội vô tội hoặc tìm ra những tình tiết làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộctội Do ý thức còn hạn chế, một số NBC đã bất chấp quy định pháp luật để tạochứng cứ giả, mua chuộc, xúi giục người tham gia tố tụng, để làm sai lệch sựthật khách quan của vụ án Nhức nhối nhất là có một số NBC vì nhằm mục đích
vụ lợi hoặc vì một lý do nào đó mà tiết lộ thông tin về người bị buộc tội khi chưa
có sự đồng ý, về vụ án hoặc hứa hẹn kết quả nhưng không làm được, lừa dối, lạmdụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người bị buộc tội
Từ những cơ sở trên, thấy rằng những vấn đề này là vấn đề cần lên án vì nóảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội cũngnhư ảnh hưởng tới hoạt động TTHS Do vậy, BLTTHS năm 2015 quy định vềnghĩa vụ của NBC nhằm nâng cao trách nhiệm của NBC, phòng tránh nhữngtrường hợp nói trên
Kết luận chương 1
Trong chương 1 của khóa luận tốt nghiệp, tác giả đã khái quát những vấn đề
lý luận về quyền và nghĩa vụ của NBC Trong đó, đưa ra khái niệm về quyền vànghĩa vụ của NBC Nêu được đặc điểm về quyền và nghĩa vụ của NBC, từ đó rút
ra được ý nghĩa về quyền và nghĩa vụ của NBC đối với người bị buộc tội, đối với
cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm quyền THTT, đối với hoạt độngnghề nghiệp của NBC và đối với xã hội Nhìn chung, ý nghĩa của quyền và nghĩa
vụ của NBC rất quan trọng đối với người bị buộc tội, bảo đảm hoạt động TTHScũng như đối với xã hội
Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu rõ những cơ sở quy định về quyền và nghĩa
vụ của NBC trong TTHS Cụ thể là, cơ sở lý luận của việc quy định quyền vànghĩa vụ của NBC để trả lời vì sao pháp luật TTHS cần quy định cho NBC nhữngquyền và nghĩa vụ đó; Cơ sở thực tiễn của việc quy định quyền và nghĩa vụ củaNBC vừa thể hiện được mặt tích cực, vừa thể hiện được những hạn chế trong việcthực hiện quyền và nghĩa vụ của NBC khi tham gia hoạt động tố tụng trên thực tế.Qua đó, thấy được những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của NBCtrong TTHS có ý nghĩa rất quan trọng, là tiền đề và nguồn thông tin có giá trị tolớn đối với những vấn đề mà tác giả triển khai tại phần sau của khóa luận tốtnghiệp
Trang 26CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA 2.1 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền của người bào chữa
Hiến pháp năm 2013 quy định người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờluật sư bào chữa hoặc người khác bào chữa từ rất sớm, cụ thể tại khoản 4 Điều 31
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.
Đây cũng là cơ sở để BLTTHS năm 2015 quy định về những quyền của NBC,góp phần bảo vệ người bị buộc tội kịp thời, tránh oan sai Theo khoản 1 Điều 73BLTTHS năm 2015, quyền của NBC bao gồm 14 quyền, được chia thành cácnhóm như sau:
* Quyền gặp, hỏi người bị buộc tội; Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can
BLTTHS năm 2015 quy định về những quyền của NBC, trong đó có quyềngặp, hỏi người bị buộc tội, để bào chữa và bảo vệ người bị buộc tội, đồng thờigóp phần vào hoạt động chứng minh vụ án, tránh oan sai Cụ thể, điểm a khoản 1
Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định NBC có quyền: “Gặp, hỏi người bị buộc
tội”.
Theo đó, “gặp” là cùng có mặt và tiếp xúc với nhau tại một nơi, một địađiểm nào đó22 Theo pháp luật TTHS, NBC có quyền gặp người bị buộc tội vớimục đích để tiếp xúc trực tiếp, động viên, thăm hỏi sức khỏe, nguyện vọng, chia
sẻ, trấn an, từ đó tìm hiểu tình tiết liên quan đến vụ án và thu thập chứng cứ đểbảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội “Hỏi” là nói với ngườikhác việc mình muốn biết và muốn người ta trả lời mình23 Theo quy định phápluật TTHS, NBC có quyền hỏi người bị buộc tội với mục đích để thu thập chứng
cứ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để có kế hoạch, phương án bào chữa NBC thựchiện quyền hỏi với người bị buộc tội một cách chủ động về các tình tiết liên quan
22 Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội – Đà Nẵng, tr 375.
23 Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội – Đà Nẵng, tr 454.
Trang 27đến vụ án và khác với quyền hỏi của NBC đối với người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc
Như vậy, quyền gặp, hỏi người bị buộc tội là quyền mà pháp luật TTHS chophép NBC được giáp mặt, tiếp xúc, hỏi người bị buộc tội nhằm động viên tinhthần người bị buộc tội, tìm hiểu về vụ án và thu thập thông tin làm cơ sở cho hoạtđộng bào chữa trong quá trình giải quyết VAHS, tạo điều kiện cho NBC thực hiệntốt chức năng bào chữa
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 thì NBC cóquyền gặp, hỏi người bị buộc tội đang tại ngoại và người bị buộc tội đang bị tạmgiữ, tạm giam24 Trước đây, điểm e khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định
NBC có quyền: “Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam”.
Có thể thấy rằng so với quy định tại BLTTHS năm 2003 thì quy định củaBLTTHS năm 2015 đã rõ ràng, bao quát hơn, khắc phục được hạn chế củaBLTTHS cũ khi quy định cho NBC quyền hỏi người bị buộc tội
Quyền này còn được thể hiện qua một số những quy định, cụ thể là:
Khoản 3 Điều 22 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định:
“Người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật này tại buồng làm việc của cơ sở giam giữ hoặc nơi người bị tạm giữ, tạm giam đang khám bệnh, chữa bệnh; phải xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa”;
Khoản 2 khoản 3 Điều 10 Thông tư liên tịch số TANDTC-VKSNDTC ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Bộ công an, Bộ quốcphòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về quan
01/2018/TTLT-BCA-BQP-hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vàViện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (sauđây gọi là Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTCngày 23 tháng 01 năm 2018) quy định:
Khi nhận được văn bản thông báo người bào chữa cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam của cơ quan đang thụ lý vụ án thì cơ sở giam giữ tổ chức cho người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định
24 Phan Trung Hoài (2019), “Quyền gặp, làm việc của luật sư với người bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra”, https://www.vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/quyen-gap-lam-viec-cua-luat-su-voi- nguoi-bi-tam-gi-d10-t135.html?Page=75#new-related (truy cập ngày 6/10/2023).
Trang 28của pháp luật Trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát.
Trong từng giai đoạn tố tụng, NBC gặp người bị bắt, người bị tạm giữ tại trụ
sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt độngđiều tra nhằm giúp NBC biết được đầy đủ thông tin về hành vi của họ, nắm bắtđược diễn biến, quá trình lấy lời khai, xác định đúng đắn sự thật khách quan của
vụ án25, NBC gặp bị can tại cơ sở giam giữ để hiểu rõ về sự thật của vụ án, tư vấnphương án trả lời trong những lần hỏi cung sau NBC gặp bị cáo để trao đổi,thống nhất phương án trình bày tại phiên tòa Nếu NBC không được quyền gặp vàgặp không kịp thời sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội vềtrao đổi thông tin liên quan đến vụ án, không được tư vấn, hỗ trợ về mặt pháp lý,
từ đó ảnh hưởng đến việc xác định sự thật vụ án
Do vậy, theo quy định này NBC có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội ở bất
cứ giai đoạn tố tụng nào và không hạn chế số lần cũng như thời gian gặp; Việchỏi, trao đổi hoàn toàn riêng tư với người bị buộc tội, trừ một số trường hợp màkhông bắt buộc có mặt những người THTT hoặc phải được sự chấp thuận của cơquan đang thụ lý giải quyết Có thể nói, quy định về quyền gặp, hỏi của NBC làquy định mới, NBC đương nhiên có quyền và được chủ động tiến hành gặp, hỏingười bị buộc tội, trừ trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm
an ninh quốc gia tại Điều 74 BLTTHS năm 2015
Thông qua hoạt động gặp, hỏi người bị buộc tội khi bị bắt, bị tạm giữ tronggiai đoạn chưa có quyết định khởi tố VAHS và trong giai đoạn điều tra VAHS,NBC nắm bắt đầy đủ, kịp thời, chính xác tình tiết vụ án, từ đó thu thập nhữngthông tin cần thiết từ lời trình bày của người bị buộc tội Do đó, việc tiếp xúc trựctiếp để hỏi người bị buộc tội về những tình tiết liên quan có ý nghĩa quan trọngtrong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội và hạn chế oansai
Ngoài ra cũng có một số trường hợp NBC bị từ chối quyền gặp, hỏi26 Có
25 Kim Chiến (2023), “Quy định của pháp luật về việc tạm giữ hình sự?”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam , https://dangcongsan.vn/ban-doc/luat-su-cua-ban/quy-dinh-cua-phap-luat-ve-viec-tam-giu-hinh-su-
633802.html (truy cập ngày 05/10/2023).
26 Khoản 4 Điều 22 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.
Trang 29thể thấy, mặc dù pháp luật TTHS quy định cho NBC quyền gặp, hỏi người bịbuộc tội nhưng quyền đó vẫn có thể bị hạn chế bởi một số luật chuyên ngànhkhác, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 đã liệt kê cụ thể những trườnghợp, trong đó có những quy định liên quan đến quyền gặp, hỏi của NBC Quyđịnh trên vừa tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng cho NBC trong hoạt độnghành nghề, đồng thời cũng hạn chế sự tùy tiện, hành động thiếu nhất quán vàlường trước tình huống có rủi ro khi giải quyết thủ tục gặp người bị buộc tội đang
bị tạm giữ, tạm giam của NBC
Trên cơ sở ghi nhận Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 quy địnhNBC có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội và đảm bảo việc thực hiện quyền gặp,hỏi người bị buộc tội Quy định như vậy sẽ giúp NBC có nhiều cơ hội để tiếp xúc,tìm hiểu rõ hơn về người bị buộc tội và các tình tiết liên quan, từ đó làm tăng sựbảo đảm về quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội
Điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định NBC có quyền: “Có
mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị can Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can”.
Thoạt nhìn qua thì quy định trên cũng là một quy định về quyền gặp, hỏi củaNBC Tuy nhiên xét về bản chất thì hành động gặp, hỏi của NBC trong 2 quy định
này là hoàn toàn khác nhau Điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 chỉ cho
phép NBC có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏicung bị can, còn quyền hỏi sẽ phải phụ thuộc vào sự cho phép của người có thẩmquyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung Chỉ khi người có thẩm quyền đồng ý thìNBC mới được hỏi trong quá trình lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khihỏi cung bị can Trường hợp sau khi người có thẩm quyền lấy lời khai, hỏi cungxong thì NBC có thể có quyền hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can Bêncạnh đó, NBC chỉ thực hiện gặp, hỏi đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bịcan Vì vậy, trong khi theo dõi người có thẩm quyền lấy lời khai, hỏi cung, NBCphải chú ý phát hiện những tình tiết có lợi cho người mà mình bào chữa, nhữngđiểm họ khai chưa rõ hoặc bất lợi và dự kiến các câu hỏi để sau khi kết thúc việc
Trang 30lấy lời khai, hỏi cung có thể hỏi người được bào chữa về những điểm đó Quyđịnh mới này nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo tinh thầnHiến pháp; đồng thời, hạn chế sự lạm quyền từ phía cơ quan tố tụng và giúp choNBC được tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, tạo thuận lợi trong việc thu thập chứng
cứ gỡ tội và những tình tiết giảm nhẹ để có thể bào chữa cho người được bàochữa ở giai đoạn sau của quá trình TTHS
Do vậy, có thể mặc dù đều liên quan tới việc NBC có mặt, gặp, hỏi nhưngquy định tại điểm a và điểm b đã cho thấy sự khác biệt khá rõ ràng, thể hiện sựđổi mới khá nhiều so với BLTTHS năm 2003 Quy định như vậy nhằm đảm bảocho NBC có thể thực hiện công việc của mình một cách tốt nhất, bảo vệ cácquyền và lợi ích của người mà họ nhận bào chữa, thể hiện sâu sắc tính nhân đạocủa Nhà nước khi trao cho NBC quyền để bảo vệ người bị buộc tội, vốn là bênyếu thế hơn
* Quyền có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói
và hoạt động điều tra khác
Điểm c khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định NBC có quyền “Có
mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này”.
BLTTHS năm 2015 quy định việc NBC có mặt trong các hoạt động đốichất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác là một “quyền” vàNBC hoàn toàn chủ động chứ không phải lệ thuộc vào ý chí của Cơ quan điều tranhư quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003 Theo đó, các hoạtđộng điều tra được quy định trong BLTTHS năm 2015 bao gồm: Khởi tố bị can;Hỏi cung bị can; Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơndân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; Đối chất; Nhận dạng; Nhận biếtgiọng nói; Khám nghiệm hiện trường; Khám nghiệm tử thi; Xem xét dấu vết thânthể; Thực nghiệm điều tra; Định giá tài sản
Đây là một trong những quy định nhằm đảm bảo quyền bào chữa của người
bị buộc tội Có mặt trong các hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói
và hoạt động điều tra khác là một trong những biện pháp để NBC thực hiện nhiệm
vụ của mình, làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người mà họ nhận bào chữa.Với quyền này, NBC sẽ theo dõi được quá trình điều tra và chứng cứ liên quan,
Trang 31điều này có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị và tham gia tranh tụng của họ saunày.
* Quyền được báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác
Theo điểm d khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015, NBC có quyền: “Được
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này”.
Quy định này nhằm đảm bảo sự thống nhất với quy định tại điểm b và điểm
c khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 Để có thể có mặt khi lấy lời khai củangười bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; có mặt trong hoạt động đối chất,nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác, NBC có quyền được
thông báo trước về thời gian và địa điểm Điều 79 BLTTHS năm 2015 bắt buộc
cơ quan có thẩm quyền THTT phải báo trước một thời gian hợp lý cho NBC vềthời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quyđịnh của BLTTHS Như vậy, việc báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai,hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác cho NBC biết,theo quy định của BLTTHS đã thành một “trách nhiệm”, “nghĩa vụ” của cơ quan
có thẩm quyền THTT và cơ quan có thẩm quyền THTT phải chủ động thực hiệnthay vì chỉ thực hiện khi có “đề nghị” của NBC như quy định tại điểm b khoản 2Điều 58 BLTTHS năm 2003 Về phía NBC, việc có mặt trong một số hoạt động
tố tụng là quyền của NBC, họ có thể lựa chọn có mặt hoặc không có mặt Tuynhiên, để tránh ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bàochữa, NBC cần sắp xếp thời gian có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạmgiữ, khi hỏi cung bị can, khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và các hoạtđộng điều tra khác, tránh trường hợp trùng lịch Vì vậy khi cơ quan có thẩmquyền THTT đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm thông báo của mình, nếu NBCkhông có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành, trừ các trường hợp hoãnphiên tòa vì lý do vắng mặt NBC theo quy định của BLTTHS
* Quyền xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa
Điểm đ khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định NBC có quyền:
Trang 32“Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa”.
Việc quy định quyền được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự thamgia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa nhằm tạođiều kiện thuận lợi cho NBC thực hiện tốt nghĩa vụ và chức năng của mình, đồngthời đảm bảo tính khách quan, chính xác của hoạt động điều tra của cơ quan điềutra, người có thẩm quyền điều tra Nếu phát hiện những hành vi vi phạm phápluật, NBC có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền, từ đó hạn chế đượcphần nào sự chuyên quyền của cơ quan điều tra, người có thẩm quyền điều tragiúp họ giải quyết vụ án một cách khách quan, đảm bảo được sự tin tưởng củangười dân
* Nhóm quyền đề nghị trong các giai đoạn TTHS
Điểm e khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định NBC có quyền: “Đề
nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế”.
Theo đó, nếu có căn cứ theo luật định27 và xét thấy việc THTT của người cóthẩm quyền THTT, hoạt động của người giám định, người định giá tài sản, ngườiphiên dịch, người dịch thuật ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp phápcủa người mà mình bào chữa thì NBC có quyền đề nghị thay đổi những ngườinày Điều này cũng phù hợp với quy định tại Điều 21 BLTTHS năm 2015
So với quy định của BLTTHS năm 200328, có thể nhận thấy rằng quyền nàycủa NBC đã được mở rộng hơn – không chỉ dừng lại ở việc đề nghị thay đổingười có thẩm quyền THTT và một số người tham gia tố tụng mà còn được đềnghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn (giữ người trong trường hợp khẩn cấp,bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạmhoãn xuất cảnh29), biện pháp cưỡng chế (áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phongtỏa tài khoản30) khi nhận thấy các biện pháp này không còn cần thiết, không còn
đủ điều kiện để áp dụng đối với người bị buộc tội Thực tế cho thấy, do hạn chế
27 Khoản 5 Điều 68, khoản 5 Điều 69, khoản 4 Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
28 Điểm c khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
29 Khoản 1 Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
30 Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trang 33về kiến thức pháp luật cũng như tâm lý mà người bị buộc tội thường không dámnêu lên ý kiến, quan điểm, đề nghị về các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡngchế áp dụng đối với bản thân hoặc nếu có thì cũng không có đủ căn cứ để chứngminh cho yêu cầu của mình Do đó, việc quy định cho NBC có quyền này là rấtcần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, hạn chế
sự tùy tiện của cơ quan có thẩm quyền THTT
Điểm g khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định NBC có quyền: “Đề
nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
Đây là một quyền hoàn toàn mới mà BLTTHS quy định cho NBC, giúpNBC có điều kiện đề nghị tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết và đề nghịtriệu tập người người tham gia tố tụng, kể cả người có thẩm quyền THTT để phục
vụ cho việc làm sáng tỏ sự thật vụ án Theo đó, NBC có thể đề nghị cơ quan cóthẩm quyền THTT thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật
mà theo NBC, hoạt động này giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng,khách quan, toàn diện hơn hoặc giúp làm sáng tỏ các tình tiết chứng minh sự vôtội, giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội Quyền đề nghị triệu tập người thamgia tố tụng khác, người có thẩm quyền THTT bảo đảm cho NBC thực hiện việctham gia hỏi và tranh luận tại phiên tòa Thể hiện sự bình đẳng giữa bên buộc tội
và bên gỡ tội trong việc đề nghị triệu tập người tham gia tố tụng, người có thẩmquyền THTT đến phiên tòa NBC có thể đề nghị triệu tập người làm chứng, ngườitham gia tố tụng khi những người này biết được các tình tiết của vụ án liên quanđến sự vô tội hoặc có thể làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội Đặc biệt,trong trường hợp có dấu hiệu hoặc nghi ngờ về việc người bị buộc tội bị người cóthẩm quyền THTT ép cung, mớm cung, dùng nhục hình thì việc đề nghị triệu tậpngười có thẩm quyền THTT để đối chất với người bị buộc tội, làm rõ dấu hiệuhoặc nghi ngờ về vấn đề nêu trên là hết sức cần thiết
* Nhóm quyền về thu thập thông tin; thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu,
đồ vật, yêu cầu
Dựa trên quy định tại Điều 26 BLTTHS năm 2015: “Trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, , người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều
Trang 34có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án” và điểm h khoản 1 Điều 73
BLTTHS năm 2015 quy định NBC có quyền: “Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật, yêu cầu”.
Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa và đưa
ra tài liệu đồ vật, yêu cầu đã được quy định tại Điều 58 BLTTHS năm 2003.BLTTHS năm 2015 kế thừa và bổ sung thêm cho NBC quyền “thu thập chứngcứ” và “đưa ra chứng cứ”, bỏ giới hạn về việc NBC chỉ thu thập tài liệu, đồ vật,tình tiết liên quan đến vụ án từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thíchcủa những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bịtạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác Thayvào đó, để thu thập chứng cứ, NBC có quyền gặp người mà mình bào chữa, bịhại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày
về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấptài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa Trường hợp khôngthể thu thập được chứng cứ, tài liệu liên quan đến việc bào chữa thì NBC có thể
đề nghị cơ quan có thẩm quyền THTT thu thập Tùy từng giai đoạn tố tụng, khithu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, NBC phảikịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền THTT để đưa vào hồ sơ vụ án Chứng
cứ do cơ quan có thẩm quyền THTT thu thập và chứng cứ do NBC thu thập cógiá trị như nhau và phải được người có thẩm quyền THTT kiểm tra, đánh giá đầy
đủ, khách quan, toàn diện để xác định tính hợp pháp và liên quan đến vụ án Quyđịnh này thể hiện sự bình đẳng giữa các bên trong việc thu thập, đưa ra các chứng
cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; là cơ sở quan trọng góp phần bảo đảm thực hiệnnguyên tắc tranh tụng trong xét xử31
Điểm i khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định NBC có quyền:
“Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”.
Quy định mới này đã phá bỏ sự độc quyền của các cơ quan THTT trong việcthu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, bảo đảm sự công bằng trong quá trình tranh
31 Võ Thị Ánh Trúc (2018) “Những quy định mới của BLTTHS năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của người
bào chữa“, Tạp chí Tòa án nhân dân, quyen-va-nghia-vu-cua-nguoi-bao-chua (truy cập ngày 05/10/2023).
Trang 35https://tapchitoaan.vn/nhung-quy-dinh-moi-cua-bltths-nam-2015-ve-tụng, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình thu thập chứng cứ Việc kiểmtra, đánh giá chứng cứ là rất quan trọng và cần thiết để xác định tính hợp pháp,xác thực và liên quan đến vụ án, bảo đảm chứng cứ thu thập được đủ để giảiquyết VAHS Chính vì vậy, Điều 108 BLTTHS năm 2015 quy định bắt buộcngười có thẩm quyền THTT trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phảikiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được
về vụ án Nếu người có thẩm quyền THTT không thực hiện hoặc thực hiện khôngđầy đủ trách nhiệm của mình trong việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ thì NBC cóquyền yêu cầu họ phải thực hiện, NBC cũng có quyền kiểm tra, đánh giá chứng
cứ, tài liệu, đồ vật liên quan bình đẳng với cơ quan có thẩm quyền THTT
BLTTHS năm 2015 có rất nhiều quy định nhằm bảo đảm cho NBC thựchiện quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật cóliên quan như: Khi cần thiết, HĐXX có thể cùng với Kiểm sát viên, NBC, ngườikhác tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đếnphiên tòa được, xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quanđến vụ án NBC có quyền trình bày nhận xét của mình về vật chứng, về nơi đãxảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án (Điều 312, Điều 314BLTTHS năm 2015) NBC có quyền nhận xét về báo cáo, tài liệu của cơ quan, tổchức và hỏi thêm người đại diện của cơ quan, tổ chức, người khác tham gia phiêntòa về những vấn đề liên quan đến báo cáo, tài liệu đó; có quyền nhận xét về kếtluận giám định, định giá tài sản, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâuthuẫn trong kết luận giám định, định giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tìnhtiết khác của vụ án (Điều 315, Điều 316 BLTTHS năm 2015)
Điểm k khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định NBC có quyền: “Đề
nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản”.
Pháp luật TTHS quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơquan có thẩm quyền THTT Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơquan có thẩm quyền THTT phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sựthật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứxác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm