1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận tốt nghiệp Ngữ văn: Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm

71 2 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm
Tác giả Trần Thị Thu Hiền
Người hướng dẫn PGS- TS Đoàn Thị Thu Vân
Trường học Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Văn Học Việt Nam
Thể loại Luận văn
Năm xuất bản 2003
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 71
Dung lượng 20,65 MB

Nội dung

Ông là nhà chính khách có uy tín, là bậc hiển triết, là người mà vua chúa đương thời phảikinh nể tôn vinh là phu tử, Nhưng điều quan trọng hơn cả, Nguyễn Binh Khiêm còn là một nhà thơ, n

Trang 1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO : TRƯỜNG ĐẠI HOC SU PHAM THÀNH PHO HO CHÍ MINH

KHOA NGU VAN

-Œ%

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

GVHD : PGS- TS ĐOÀN THỊ THU VÂN

SVTH :TRAN THỊ THU HIEN

NGƯỜI PHAN BIEN:

TP.HCM 05- 2003

Trang 2

LỜI CẢM ON

Chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa ngữ văn cùng

các thầy cô giáo trường ĐHSP Tp.HCM đã cung cấp cho người viết nên tang kiến thức can thiết

Cảm ơn thư viện trường Đại học SP Tp HCM và thư viện tổng

hợp đã tạo điều kiện về mặt tư liệu cho người viết.

Đặc biệt, xin chân thành cảm ơn PGS - TS Đoàn Thị Thu Vân

đã tận tình hướng dẫn người viết trong quá trình thực hiện luận vănnày.

Luận văn này vẫn còn không ít sai sót, mong được thầy cô và

các bạn sinh viên nhận xét, góp ý thêm.

Người thực hiện:

Trần Thị Thu Hiên

Trang 4

MỤC LỤC

Phan một: DAN NHAP.

1 Lý do chọn để tài và mục đích nghiên cứu .-‹.- |

2 KỊhsÐnghiÊNCỮU:2::i244212:620100624140600.08880538/63/E68Ni08% 2

4 Phương pháp nghiền cỨu :.‹ -se<- -s¿{-<<<<> 4 S: Cilwudio tin viniiceinases cote earn mney eases 4

Phần hai : NỘI DUNG

Chương một : Thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm.

|: Nöãn cành lich 6 1(Nế VỆ XVÌs¿svxvi6i460649200122065010606ã606vxva6 6

2, Nguyễn Binh Khiêm - Thân thế và sự nghiệp - - 9

Chương hai : Khái niệm về giọng điệu nghệ thuật.

}, GligneđiỆU= I0Uôl€0RnBUDvseesssesxaeveveeeeeveereevevaee«¿ 13

2 Khái niệm giọng điệu nghệ thuật : : : :.::.- : l4

3 Khái niệm giọng điệu nghệ thuật trong thơ 19

Chương ba : Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Nom

Nguyễn Binh Khiêm.

2, Giong triết lÍ - - ccccccccŸccccc ee BT

Chương bốn : Vị trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tiến trình phát

triển văn học trung đại.

| Tổng quan về văn thơ trung dai trước Nguyễn Binh Khiêm 53

3 Vị trí và đóng góp của thơ Nôm Nguyễn Binh Khiêm 55

Fllffb: KẾT LUẬN on ideeccieEeneiaaotdoaslG0sigL0 0830 63

Trang 5

luận Van Tốt Nghệp —-—- STH: Trần Thị Thu Hiển

Phần mot: DAN NHẬP

1 Lý do chọn dé tài và mục đích nghiên cứu.

Nguyễn Binh Khiém(1491 - 1585) là một trong những nhà van hoá lớncủa dân tộc Tài năng và nhân cách của ông có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với thế

ký XVI- Thế kỷ lịch sử nước ta có nhiều biến động về chính trị Ông là nhà

chính khách có uy tín, là bậc hiển triết, là người mà vua chúa đương thời phảikinh nể tôn vinh là phu tử, Nhưng điều quan trọng hơn cả, Nguyễn Binh Khiêm

còn là một nhà thơ, người có những đóng góp quan trọng trong tiến trình phát triển của van học trung đại cũng như văn học dân tộc.

Nguyễn Binh Khiêm để lại một khối lượng tác phẩm không nhỏ baogom chủ yếu là thơ Ong sáng tác cd Hán lẫn Nom Nhưng nổi trội hơn cả là

máng thd din tộc — thd Nom.

“Tha của ông như một khu rừng thâm nghiêm linh thiêng thách thức sự

tim kiểm” (1) Ngay từ lúc còn sống cũng như trong suốt quá trình lịch sử sau

này, thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà

khoa học tôn vịnh và đánh giá cao Văn thơ của ông được ban đọc các giới quan

tâm được giảng dạy ở bậc phổ thông và tìm hiểu với pham vi khá sâu rộng

Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về nghệ thuật thơ Nôm của Nguyễn Binh Khiêm chưa nhiều Đặc biệt, việc nghiên cứu giong điệu nghệ thuật trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt dưới góc đô thi pháp vẫn còn là vấn để tương đối mới mẻ, chưa có một văn bản tổng hợp, khái quát.

Giong điệu với tu cách là một yếu tổ hình thức (2), không chỉ thể hiện

bản chất con người mà còn là sự tổng hợp thái đô, tư tưởng, tình cảm và quan

niệm của người nghệ sĩ vào trong tác phẩm văn học Thêm nữa, nói như

(1) Tran Thy Bang Thank, Va Thanh: Nguyễn Bính Khiêm về tác giả và rác phẩm,

VXMGI 3001, trang 5.

tì Theo ti luận van học lên dai thi vều tổ hink thie nào cũng mang tính nội dune Các

vere hink thức càng cao thì tính nội dang củng rõ.

Trang 1

Trang 6

luận Van Tot Nghifp SH: Trấn Thị Thu Hiển

Tran Đình Sử: "Mỗi bộ phận déu mang cdi toàn thể và cái todn thể được bộc lộ

ra d những cát bộ phan” (3) Bởi vậy, tìm hiểu giọng điêu nghề thuật trong thơ

Nom Nguyễn Binh Khiêm là cách ta di từ cái bộ phận dé tìm hiểu su đặc sắc

của cái tổng thể — mảng thơ quốc âm của tác giả.

Nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật đặt dưới góc đô thi pháp có thể mở ra

con đường mới để tìm hiểu về một nhà thơ lớn của dân tộc, góp phần trong việc

phan định thơ văn Nguyễn Binh Khiêm với một số tác giả thuộc giai đoạn trước

đó như Nguyễn Trãi, các tác giả thời Hồng Đức Đồng thời việc nghiên cứu này

cũng góp phần phục vụ cho công tác giảng dạy trong nhà trường phổ thông, tạo

cho các em học sinh một góc nhìn mới, cách cảm mới khi tiếp xúc với tác giả

may.

Thơ văn của Nguyễn Binh Khiêm cho đến nay đã được quan tâm nghiên

cứu khá phổ biến Riêng phan thơ Nôm của ông cũng được tìm hiểu dưới nhiều

vóc đô khác nhau Có thể kể đến như:

Hướng đi vào văn bản nhằm tìm kiếm một văn bản đúng về thơ Nom

Nguyễn Bỉnh Khiêm:

- Nguyễn Quân: Bach Vân quốc nga thi tập- Trang Trình Nguyễn Binh Khiêm:

NXB Sống Mới, H, 1974, tái bản 1997.

- Dinh Gia Khanh (cb); Thơ văn Neuyễn Binh Khiêm ; NXB VH, H; 1983; tái

bản 1997 Bao gồm cả phần thơ chữ Hán va chữ Nom

N .ẻ ẻ .

- Nguyễn Trong Khánh, Lê Anh Trà: Nguyễn Binh Khiêm nhà thơ triết li, NXB

Van Hoá — Cục xuất bản bộ văn hoá, 1957.

- Dang Thanh Lê: Từ mét phạm trà triết học và một quan niệm dao đức của nho

via đến cảm hướng nghệ thuật thé sự trong tha Nom Nguyễn Bính Khiêm: Tap chí

Văn học số 4 -1986, trang II].

(3) Trần Đình Sử - Giáo trình thi pháp học - DHSP Tp HCM, 1993

Trang 2

Trang 7

Ludn Van Tot Nehigp “"— SVTH: Trần Thị Thu Hiển

- Đào Thin: Phong cách ngơn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Bình Khiêm trong thơ

Nom; Tạp chi Ngơn ngữ, số | - 1986, trang 50.

Hướng đi vào từng bài cu thể:

- Trần Đình Sử: Bình giảng tác phẩm văn học, NXB GD,H,1995, trang 27-30,

phân tích bài thơ số 94 “Khén dai” của Nguyễn Binh Khiêm.

- Lê Trí Viễn: Đến với những bài thơ hay, NXBGD, 1998, trang 82-88, phân tích

bài thd “Vui nhàn” của Nguyễn Binh Khiêm.

- Hà Như Chi: Việt Nam thi văn giảng luận NXB Tân Việt, H, 1951, trang

119 - 134 Tĩm tắt tiểu sử Chú thích, giải thích và phê bình 4 bài thơ Nơm

Phan lịch sử vấn để trên đây chưa thể kể hết được lịch sử nghiên cứu vé

Nguyễn Bỉnh Khiêm Tuy nhiên người viết nhận thấy các bài nghiên cứu, trừ

các bài khảo luận về văn bản thơ, nhìn chung hầu hết các tác giả thường tập

trung đi vào phân tích, giải thích nhằm lí giải cho con người và cuộc đời Nguyễn

Binh Khiêm hay chỉ trình bày cảm nhân của mình về thơ văn của ơng nĩi chung,

hộc một số bài thơ Nơm tiêu biểu, Như vậy, cho đến nay vẫn chưa cĩ cơngtrình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt giọng điệu nghệ thuật trong phan

thơ din tộc của Nguyễn Binh Khiêm Vấn để đặt ra cho người viết lúc này là

phải tìm hiểu, khảo sát phần thơ Nơm của nhà thơ để tìm ra những yếu tố làm

nên giọng điệu nghệ thuật trong thơ của ơng nhằm khái quát giọng điệu ấy như

là một trong những đặc điểm của phong cách Nguyễn Bỉnh Khiêm

làm van bản chính Mat khác hiên nay việc phân định thơ Nom của Nguyễn

Binh Khiêm và một số tác gid khác chưa thật rõ ràng Bởi vậy, lúc khảo sát,người viết sẽ khơng xét đến một số bài trong phạm vi nghi vấn như: Bài số 6,

51.52.60 77.91 113, LIS 126 128; 129

Trang 3

Trang 8

luận Van Tot Nghigp SVTH: Trần Thị Thu Hiến

Về mặt nội dung, do quy mô của một luận van cùng như khả nang còn

han chế, người viết chỉ nghiên cứu trong phạm vi sau:

- Vấn để giong điệu và giọng điệu trong thơ.

-Con người Nguyễn Bình Khiêm và thời đại của ông

-Tim hiểu giọng điệu thơ Nom Nguyễn Binh Khiêm dưới góc độ thi pháp

4 Phương pháp nghiên cứu.

Trong luận van này, chúng tôi sử dụng các phương pháp và thao tác sau:

-Phương pháp loại hình: Khảo sát thơ trong tương quan với các thể loai khác để

thấy đặc điểm về giọng điệu do đắc trưng của nó chỉ phối

-Phương pháp phân tích, so sánh với các tác giả khác (chủ yếu là với Nguyễn

Trai) để làm nổi bat đặc trưng của giọng điệu nghệ thuật trong thơ chữ Nôm

của Nguyễn Binh Khiêm.

- Thao tác thống kê để tập hợp các yếu tố có tính chất lặp đi lặp lại vào từng

phương diện cụ thể, từ đó khái quát nên giọng điệu

5 Cấu trúc luận văn.

Phần một: DẪN NHẬP.

1 Lý do chọn để tài và mục đích nghiên cứu.

2 Lịch sử nghiên cứu.

3 Pham vi nghiên cứu.

4 Phương pháp nghiên cứu.

5 Câu trúc luận văn.

Phần hai: NỘI DUNG

Chương một: Thời đại Nguyễn Binh Khiêm.

| Hoàn cảnh lịch sử thé kỷ XVI

2 Nguyễn Binh Khiêm - Thân thế và sư nghiệp.

Trang 4

Trang 9

Luận Van Tốt Nghiệp —— SVTH; Trần Thị Thu Hiền

Chương hai: Khái niệm về giọng điệu nghệ thuật.

Giong điệu — lời nói con người.

Khái niệm giọng điệu nghệ thuật.

Khái niệm giọng điệu nghệ thuật trong thơ.

Chương bốn: Vị trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tiến trình phát

triển văn học trung đại.

| Tổng quan về thơ văn trung dai trước Nguyễn Binh Khiêm.

3 Vị trí và đóng góp của thơ Nôm Nguyễn Binh Khiêm.

Phần ba: KET LUẬN

Thy mục tham khảo

-Nguyên tắc xây dựng thư mục.

- Thư mục.

Trang 5

Trang 10

luân Van lô Ngủ SH: Trấn Thị Thu Hiến

Phần hai NOI DUNG

Chương một: THỜI ĐẠI NGUYEN BINH KHIÊM

I Hoàn cảnh lịch sử thế kỷ XVI.

Đầu thế kỷ XVI, nhất là sau khi Lê Hiến Tông mất (1504), xa hội Dai

Việt mất dẫn cảnh thịnh trị, kinh tế sa sút, đời sống nhân dân khổ cực, chế độ

phong kiến nhanh chóng bước vào thời kỳ suy thoái.

Các vua Lê lúc này đi sâu vào con đường xa hoa, dâm dât; Bọn quan lại

mặc sức tung hoành những nhiễu Bon địa chủ ra sức vơ vét của dân bằng

những thủ đoạn trắng trợn

Không còn những *Vưø sáng, tới hiển” của thời đại Hồng Đức, thay vào

đó là những hôn quân bạo chúa, tranh giành ngai vàng nhằm củng cố lợi ích

dòng họ và phục vụ cho sự hưởng lợi của bản thân Sau Hiển Tông “ham nữ

xấc”(4), Lê Uy Mục (1505 - 1509)là một tên vua ngày đêm rượu chè cờ bạc,

thích chém giết Y đã giết không biết bao nhiêu là công thần, tôn thất có ý

không ủng hô minh, tính tình hung han đến nỗi sứ than Trung Quốc phải goi y

là “vua quy"(5S) Tương Duc kế tiếp Uy Mục còn xa xỉ và hoang dâm gấp bội Hắn bat phụ nữ khoả thân chèo thuyén chở mình đi chơi Hồ Tây Thêm nữa, lại

phỏng theo mẫu của Vũ Như Tô bắt dân xây đại điện 100 nóc, xây cửu trùng

đài cao chót vot khiến cho nhiều quân dan phải chết, nước nhà lâm vào tình

trạng Kiệt qué,

Bọn quan lại và địa chủ địa phương mắc sức tung hoành, nhũng nhiễu,

đến nỗi “hé thấy bóng quan thi dân vôi đóng cửa và tìm đường lẫn trốn (6).

Chính sách “quân cấp ruộng đất” ổn định một thời nay trở thành thủ đoạn an

cấp ruông đất trắng trợn của nông dân

Cuộc sống của người dân bị đe doa từ nhiều phía, thêm vào đó là hạn

hán mùa mất, gao đất, đời sống của ho vì thế càng cơ cực Nông dan nổi day

ae 6 89661916 98 39 6c 6 th n t6 n9 6a 6 v1 6 6n gan PS = đẰ 1} “6 196ssec s64 28916 se “6e s66 e==e<

L4),131.(61 Dan theo Tramy Hữu Quynh(cñltronge: Đại Cừng lich sứ Việt Nam, NXBGD, 1999.

tdp L trang 338 - 339,

Trang 6

Trang 11

phản ứng mạnh mẽ bằng nhiều cuộc khởi nghĩa từ năm 1511 đến 1522 mới tạm

lắng Các cuộc đấu tranh của nhân dân cho thấy sự khủng hoảng của xã hội

đương thời.

Tình hình nội bộ trong triéu cũng hỗn loạn không kém Nhân các cuộc

nổi dây của nhân dân, những viên tướng có công đàn áp tìm cách lũng đoạn

quyền hành tranh chấp lẫn nhau, đốt phá kinh thành Các cuộc chém giết hỗn

loạn xảy ra liên miên Nhân lúc tình hình như vậy Mac Đăng Dung, một võ

quan nhảy lên vũ đài chính trị, giết Chiêu Tông, rồi giết bù nhìn Cung Hoàng

Để tự xưng vua năm 1527 Nhà Lê đã tỏ rố sự bất lực của mình Đầu năm 1530

Mac Đăng Dung nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh còn mình tự xưng là

Thượng Hoàng, đời về sống ở Cổ Trai.

Nhà Mạc trong khi trị vì có đưa ra một số chính sách tiến bộ như: Tổ chức thi, mở rong việc hoc tập, dựng bia tiến si, chiêu mộ hiển tài, củng cố lai

biên chế, đảm bảo an toàn cho nhân dân Nhưng Mac Đăng Dung lại phạm

một tội võ cùng lớn: Đó là tội làm nhục quốc thể bằng việc dau hàng, cắt đất

cho giặc Minh Sự kiện ấy khiến cho nhân dân và nhiều trung thần chán nản, phan nô Nhà Mac rơi dẫn vào thế cô lập Thêm vào đó, từ khi Mac Dang Dung

sodn ngôi nhà Lê, nhiều quan lại ci! da phản ứng kịch liệt, nỗi lên chống lại ở

nhiều nơi, Có thế lực phải kể đến anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên chiếm cứ

cả một vùng Tây Bắc; Nguyễn Kim chiếm cứ từ Thanh Hoá trở vào Nguyễn

Kim được con rể là Trịnh Kiểm giúp đỡ lập nên nhà Lê trung hưng ở Thanh

Hoá( 1532) Về sau các nhà sử gia gọi đây là Nam triểu để đối lập với Bắc triểu của nhà Mạc chiếm cứ ở Thăng Long.

Tuy nhiên không bao lâu sau đó, Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc

đầu độc giết chết, chức Thái Sư được nhà Lê chuyển cho con rể Trinh Kiểm

cùng với quyền lãnh binh Cuộc chiến Nam - bắc triểu lại tiếp diễn, Nội bộ họ Trinh mâu thuần, nhà Lê âm mưu giành lại quyển bính, nhà Mạc liên tiếp mở cúc cuộc tấn công vào vùng Thanh - Nghệ Tình hình đất nước lúc này vô cùng

hon loan Mãi đến năm 1592 Trinh Tùng (con trai Trịnh Kiểm) đem quân vào chiếm cứ Thang Long, nhà Mạc đổ, cuộc chiến tranh mới kết thúc.

Cuốc chiến tranh này kéo dài không chỉ gây ra bao cảnh dau thương,chet choc đẩy hàng chục vạn trai tráng vào cảnh chém giết lẫn nhau mà còn

tàn phá mùa màng, gây nén hàng loạt trận đói, khiến người dân hoảng loạn,

khiếp xơ.

Trang 7

Trang 12

Nhưng tai hoa đối với đất nước với nhân dân chưa dừng ở đó Tình trạng

Nam — Bắc triểu chấm dứt chưa được bao lâu thì xảy ra sự phân tranh Trịnh —

Nguyễn gây ra cảnh đất nước bị chia cất thành hai miễn - Dang Ngoài và Dang

Trong.

Đây là cuộc chiến nhằm giành quyển lực giữa hai tập đoàn phong kiến:

Dong dõi Nguyễn Kim và tập đoàn Lê - Trịnh Mam mống của sự phân biệt

Pang Trong - Dang Ngoài bất nguồn từ trong cuộc chiến Nam - Bắc wiéu Từ năm 1545, sau khi Nguyễn Kim chết liên nảy sinh mâu thuẫn giữa Trịnh Kiểm

và con trai của ông Người con lớn là Nguyễn Uông bị ám hai Người con thứ

Nguyễn Hoàng lo lắng bèn kiếm cớ xin vào trấn thủ Thuận Hoá Tương truyền

kế sách này do Nguyễn Binh Khiêm gợi ý cho Nguyễn Hoàng mất, con trai là

Nguyễn Phúc Nguyên lên nối nghiệp cha đã tổ chức lại chính quyền, tách khỏi

sư lệ thuộc vào họ Trịnh, không nộp thuế cho phủ chúa ở Dang Ngoài nữa Ho

Trinh nhân cớ này, dem quân vào Thuận Hoá, gây nên cuộc chiến Dang Trong

- Đàng Ngoài Cuộc chiến này kéo dài hàng nửa thế kỷ sau (thế kỷ XVII)

nhưng vẫn không có kết quả, quân sĩ hao tổn, nhân dân khổ cực, đất nước vẫn

tiếp tục bi chia cất.

Trong giai đoạn này tình hình hai miễn vô cùng rối ren Ở Dang Ngoài,

thực quyền lúc này thuộc về phủ chúa, vua Lê chỉ còn là một thứ bù nhìn, “ Bay giờ quan chức những loạn, phức tap, một lúc cắt nhấc bổ đụng đến hơn 1000

người lam quan cau may, viên chức thừa thai, không còn phân biệt gì cả "(7)

Tình hình ở Dang Trong cũng “dd nát” không kém Lê Quý Đôn Viết :

* Quan liêu ở Dang Trong những lam quá nhiều, hết thay bổng lộc déu lấy vào

của dan, dân không chịu nổi” (8)

Như vay cho đến thời điểm nay, cùng với việc chia cất đất nước, chế độ

phong kiến càng dấn sâu vào con đường suy thoái của nó Giai cấp phong kiến

ngày càng thêm bệ rac, tụt đốc Các tập đoàn phong kiến chi lo tranh giành

ngôi vị, chưa kịp thịnh đã suy Thời thế biến đổi khôn lường, xã hội ở trong tình

trang hỗn loạn Trong tình hình này ting lớp si phu tiến bộ của dân tộc buộc

phải đứng trước nhiều ngã rẽ Chon hướng đi nào cho đúng dao, hợp thời là câu hỏi khiến cho không ít người trăn trở, ban khuăn,

l0 4949024014 6094440444 964960 40696 490600c?ac ch 6960 046900490 6s 6499909090490 9Ó ˆ 40 0 9É

(7) Tatong Hữu Quýnlt ch) sdd trang 346.

(8) Ddn theo Trương liều Quảnh, sdd, trang 351.

Trang 13

3 Nguyễn Binh Khiêm - Thân thế và sự nghiệp

Nguyễn Binh Khiêm sinh năm 1491 là người làng Trung An, huyện

Vinh Lại tinh Hải Dương (nay thuộc huyện Vĩnh Bảo - Kiến An ) Ông huý là

Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ.

Cha của ông là một nho si bình dân, tự là Văn Dinh, hiệu là Cù Xuyên,

được phong tước Bảo Nghiêm quận công Cha của ông nhờ thông minh, học giỏi

lai có đức tính tốt nên được Thượng Thư Nhữ Văn Lan ga con gái cho Mẹ của

ông là người phụ nữ học rộng, van hay, lai tinh thông tướng số Bà được phong

tước Từ thục phu nhân.

Nguyễn Binh Khiêm, ngay từ nhỏ đã được mẹ mang chính văn, kinhtruyện và thơ quốc âm ra giảng dạy cho Sau lớn lên, nghe tiếng văn chương

của bang nhãn Lương Đắc Bằng (9), ông bèn đến thụ nghiệp.

Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy có tiếng là thông minh và học giỏi, nhưng lớn

lên giữa lúc phong kiến đang đi sâu vào con đường suy thodi,"khdp nơi chỗ nào

cũng máu chảy thành sông,xương chất đây núi ”(10) nên ông không chịu ra thi cử,

làm quan Bất mãn với thời cuộc, ngay từ lúc trẻ ông đã sống như một ẩn sĩ.

Tuy vay, giữa lúc thời thế hỗn loạn, ting lớp sĩ phu đang có nhiều xu hướng

phức tạp lại đối diện với phong trào sĩ phu chống Mac, Nguyễn Binh Khiêm

cũng phải suy nghĩ rất nhiều: Lê là chính thống, Mạc là nguy triểu, là người học dao Khổng Tử há theo Mạc mà phụ Lê chang? Há không nghĩ đến “/é biến

dịch” "nghĩa tày thời” mà quay lưng lai với thời cuộc ? Chính vì ban khuăn như

vay nên đến đời Mạc Đăng Doanh ông mới tham gia khoa cử, Lúc này ông đã

45 tuổi

-Nguyễn Binh Khiêm ra đi thi không phải vì cảnh gia đình nghèo túng,

cũng không phải do nể lời bạn bè, mà lúc này hoàn cảnh thực tế đã thay đổi,

Oe ee 0900 0(cCc lZcCcYYC CC CC SG (I0 0900040ÓÔ04Ó020 4609040 096040409090 90 0ÔÓ246 9096090909090 90 90 901 9Ó t6 9 6

(9) Tương truyền Lương Đắc Bang khi di sứ sang Trung Quốc được người bà con xa truyền

vho hội "Thai dt thin kinh", sau dem day lại cho Nguyễn Hình Khiêm.

(10) Dén theo Dink Gia Khanh, Bat Duy Tân, Ma: Cao Chương: Van học Viet Nam tự đâu thé

Ay X đến dau Thé ky XVIH, NXBDai học va giáo duc chuyên nghiềp, 1992, tap HH,

trang [18.

Trang 14

suy nghĩ của ông vì thế mà cũng có khác đi Nhà Mạc sau khi soán ngôi của

nhà Lê, để củng cố uy tín của triểu dai mdi, rất cân sự ủng hộ nhất là của

những sĩ phu có danh tiếng, nên đã mở khoa thi, dựng bia tiến sĩ để thu phục nhân tài Nguyễn Binh Khiêm ở cùng hạt với nhà Mac, lại nổi tiếng hẳn không

tránh khỏi sư gò ép Mặt khác ông là một nhà nho, lại tinh thông lí học tất phải

nhân thấy “ fẽ biến dich, nghĩa tay thời" Là một người “ie thời mẫn thế”, muốn

giúp đời tri loan, ông không thể cứ mãi chấp kinh mà không tong quyền Thêm

vào đó sau những năm hỗn chiến tranh giành ngôi vị, đến lúc này tình hình đất

nước đưới triều nhà Mac có tương đối ổn định cuộc sống nhân dân được đảm

bảo hơn Nguyễn Binh Khiêm vì thế không khỏi kỳ vọng vào một triểu đại mới.

Trong thd chữ Hán ông có viết:

* Vũ thuận cốc đăng kim hitu thuy

Thái bình hitu nhất thê hưu kỳ "

(Mua thuận hoà, thóc lúa được mùa, nay dâng điềm lành ay,

Thái bình lại là một thời kỳ tốt đẹp)

(Thơ chữ Hán: Vũ)

Nguyễn Binh Khiêm ra sức giúp nhà Mạc cũng chỉ nghĩ như Nguyễn

Trải xưa kia, không nhất quyết chỉ thờ một vua mà mục đích chính là giúp đời

trị loạn.

Nguyễn Trãi từ bỏ nhà Tran, nhà Hồ mà theo về với Lê Lợi để làm nên

nghiệp lớn, mang lại thắng lợi vẻ vang cho dân tộc Nguyễn Bỉnh Khiêm ra với

nhà Mạc cũng chỉ mong quốc thái dân an

Chỉ tiếc rằng, tài nang lớn mà không có đất “dung vở”, qua tám nămlàm việc Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy chính quyền nhà Mạc ngày càng đi

đến chỗ đỗ nát: ông khang khái dang sé đàn hac va xin xử chém mười tám lộng

than, nhưng không có kết quả “Madn cứu nước khỏi nguy nan, then mình không

có tài” (1), ông đành thác bệnh, trả mũ áo quan, xin về trí si Ndm ấy ông 52tuổi (12) Tuy về ở ẩn, Nguyễn Binh Khiêm vẫn được nhà Mac trong dung,

1 |

(10) That cha? Hán: Trưng tan quản nẹu hing ( bai 1), trích ¥

(22) Dow phan the chữ Han của 6ng cũng nh tham khảo Ý kiến của một số nhà nghién cửu ta thần thấy - Thời gian làm quan của ông phát đến ngoài 60 tuổi gẵn 70 tuổi ông mới về È hẳn

Vn dé này ain được khảo sat tim hiếu kỸ lien

Trang ?0

Trang 15

thường cho người tới hỏi ý kiến của ông về chính sự Không những họ Mạc mà

cá chúa Trinh, chúa Nguyễn đều đến tham khảo ý kiến của ông về những việc

quan trọng Quanh sự kiện này có nhiều truyền thuyết nói về tài tiên trì của

Ong Hiện thời vẫn chưa thể khẳng định tính chính xác của những lời truyền

tung ấy nhưng dù đó chỉ là những lời bịa đặt của quần chúng thì càng chứng tỏ

Nguyễn Binh Khiêm có uy vọng rất lớn Ông được nhân tôn là bậc thay của các

vua chứa, Ông đứng cao hơn sự tranh giành quyền lợi của các tập đoàn phong

kiến,

Trở về làng Trung An, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân, lấy

hiệu là Bạch Van cư sĩ, lập quán Trung Tân trên bến Tuyết Giang để đón khách

thơ Ong còn mở lớp day học Học trò của ông có nhiều người tài giỏi như:

Phùng Khắc Hoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ lúc nhàn rỗi, ông cùng các su tăng bạn bè dao chơi thắng cảnh Nhà thơ cảnh thôn quê yêwtĩnh, thanh

bạch, Thời gian này ông sáng tác rất nhiều, gần như toàn bộ tác phẩm của ôngđều ở vào giai đoạn này, Nguyễn Binh Khiêm sống nếp sống giản di, gan dân,

hiểu dân và sinh hoat như dân Ông được rất nhiều người yêu mến và kính trọng.

Năm 1585, Nguyễn Binh Khiêm ốm nang, biết khó sống ông thảo sở

ding vua Mạc trong đó có đoạn: “Thdn suy tính độ vận nước nhà đã suy, vận nhà Lê đã đến hỗi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó theo Song thiên giả có thé hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính lấy dân làm gốc, lấy

nước làm trọng, trong sửa sang vấn trị, ngoài chuyên võ công, may ra giữ được

cơ nghiệp tổ tiên, thì than chết căng được thod lòng" (13) Mac Mâu Hợp sai sứ

về thăm bênh, có hỏi ông về việc nước, ông nói: “ sau này nếu có biến cố thì đất Cao Bằng đà nhỏ cũng hường phúc được vài đời " Thực tế đã chứng minh được lời nói của ông, vì thế người đời càng truyền tụng ông là bậc tiên trí.

Tháng 11 năm ấy ông mất, hưởng tho 95 tuổi, học trò truy tôn ông là “TuyétGiang phu tứ" (Bac thay ở sông Tuyết ).

Nguyễn Binh Khiêm để lại một khối lượng tác phẩm *không nhỏ, bao gốm chủ yếu là thơ Thơ chữ Hán có Bạch Vân Am thi tap gồm khoảng 1000 bài Hiện nay chỉ còn lại hai phan ba số thơ ấy, một bài tựa, môt bài * Trung

tán Quản bi Ký ` một bài “Thạch Khánh ký” và một số bài văn tế Thơ Nôm

của Ong có Bach Van quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân thi

(18) Bio Van Nuuyên — LS VH VN — tạpH - NXB GD - 1978, trang 118.

Trang 16

Luận Văn Tất Nghệp STH: Trấn Thị Thư Hiến

tập) có khoảng 170 bài làm theo thể Đường luật và thất ngôn xen lan lục ngôn,

không có để mục cụ thể chỉ từng bài, cũng không phân từng môn loại như thơ

Nôm Nguyễn Trải và các tấc giả thời Hồng Đức Bạch Vân quốc ngữ thi tập,

hiện chỉ còn khoảng 144 bài, trong đó có một số bài chưa xác định rõ của

Nguyễn Binh Khiêm hay Nguyễn Trải vì tâm trạng của hai ông nhiều lúc rất giống nhau và chữ nôm ở thế ky XVI và thế kỷ XV cũng chưa khác nhau là

mấy.

Sáng tác của Nguyễn Binh Khiêm là tiếng nói chung của cả một tang

lớp trí thức dân tộc sống trong buổi suy vi của chế độ phong kiến, tiếng nói này thể hiện đâm nét qua phần thơ quốc âm của ông bằng giọng điệu đặc biệt.

Trang 12

Trang 17

Luận Văn Tốt Nghiệp SVTH: Trén Thị Thu Hiến

Chương hai — KHÁI NIỆM GIỌNG DIEU NGHỆ THUAT

1 Khái niêm giọng điêu - giọng điệu trong đời sống,

Nếu như các sinh vật trao đổi với nhau bằng các “ky ñiệ¿", thì con người

dùng ngôn ngữ để trao đổi bày tỏ ý nghĩ thái đô Khi con người đứng thẳng

trên đôi chân của mình, dùng công cu để cải tạo thế giới, dùng ngôn ngữ để giao tiếp cũng là lúc con người vĩnh viễn giã từ quá khứ mông muội để bước

vào thời dai văn minh, Vai trò của ngôn ngữ trong đời sống rất to lớn.

Ngôn ngữ là sản phẩm kết tinh trong quá trình giao tiếp Nó vừa giữ chức năng truyền tin vừa có kha năng lưu giữ thông tin nên tao được cầu nối

giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, khi đó ngôn ngữ thực

hiện chức nang là công cu giao tiếp Nhưng mat khác ngôn ngữ còn là phương

tiên biểu hiện tình cảm Khi cất lên tiếng nói, người nói bao giờ cũng muốn

biểu thị một cảm xúc, một ý nghĩa nào đó

Ngoài mặt ý nghĩa, khi giao tiếp ngôn ngữ còn được thể hiện qua âm

thanh, giọng nói Giọng nói con người không chỉ tổn tại như một âm thanh, mà

hàm chứa trong đó thái độ của người nói Chính ở đấy, người ta để cập đến

giọng điệu Vậy giọng điệu là gì? Từ điển Văn học do Viện Ngôn ngữ biên

soạn (XB năm 2000) cho rằng giọng điệu là “giọng nói, tối nói biểu thị một thái

độ nhất định” ý nghĩa của từ là quy ước chung, còn giọng điệu là yếu tố mang

tính cá thể do cá nhân tạo ra và sử dụng có chủ định Qua giọng điệu ta nhận

biết được thái độ cũng như bản chất của con người.

Ca duo có câu:

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang

Người khôn nói tiếng dịu dang dé nghe

Trên cơ sở đó cha ông ta lại rút ra những kết luận mang tính bản chất:

Đất tốt trắng cây rườm rà

Những người thanh lịch nói ra diu đàng,

Đất xấu trong cây khẳng khiuNhững người thô tực nói điều phàm phụ.

Trang 13

Trang 18

Lj vi ‘OEN

Qua đúng là người thé nào thi phát ra giọng điệu thé ấy Trong khi giao

tiếp các yếu tố ngôn ngữ nếu xét vé mát ý nghĩa có thể làm mờ đi bản chất của

con người, nhưng giọng điệu lại giúp ta nhận diện ra nó Hãy thử nghe giọng

cua Chí phèo:

“- Bấm, không a, bẩm thật là không say Con đến xin cụ cho con di ở tù

mà nếu không được thì thì _ thưa cụ

-“Vang, bẩm cụ, không được thì con phải đâm chết dam ba thằng, rỗi cụ

bất con giải huyện".

Hắn “bẩm” hắn “xin”, rồi hắn “vâng” rất lễ phép nhưng kỳ thực qua

giọng điệu của hắn ta vẫn nhận thấy cái bản chất “Chí Phéo”, liều lĩnh bất cẩn

đời của một anh Chí nát rượu và không ngai đổ máu.

Giọng điệu trong giao tiếp luôn giừ vai trò đặc biệt quan trọng Tuy nhiên trong cuộc sống, giọng điệu thường mang tính nhất thời Nó có thể thay

đổi tùy vào đối tượng, tâm trạng Vì vậy mới có câu:

Lời nói không mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau

Lưa lời ở đây không đơn giản là chọn lựa từ ngữ, mà còn là sự chọn lựa

giọng điệu thích hợp với nội dung cần thể hiện Cùng một nội dung nhưng chọn

được giong điệu phù hợp sẽ mang lại hiệu quả rất cao trong khi giao tiếp.

Như vay, ta nói cái gì không quan trọng bằng việc ta nói như thế nào.Nói như thế nào tức là thể hiện khả năng lựa chọn giọng điệu của mỗi người

2 Khái niệm giọng điệu nghệ thuật.

Khi để cập đến giọng điệu nghệ thuật trong văn hoc, trước hết phải

khẳng định “văn học là nghệ thuật ngôn từ” Nhà văn sáng tác bày tỏ tư tưởng,

tình cảm của mình bằng chất liêu là ngôn ngữ của con người Văn học xét đến cùng là tiếng nói của nhà văn về cuộc sống Tác phẩm chứa tiếng nói ấy nên

nhất định phải có giọng riêng Mỗi tác giả, đặc biệt là người có tài năng, khi

sing tác bao gid cùng xác định giong điệu nghệ thuật cho mình.

Vậy thì nên hiểu nghệ thuật giọng điệu là gì và việc xác định rõ khái niệm ấy nhằm hướng đến điều gì ?

Trung 1 4

Trang 19

Luận Vận Tốt Nghiệp STH: Trắn Thị Thu Hiến

Trước hết, do luận văn đang nghiên cứu giọng điệu dat dưới góc độ thi pháp nên phải khẳng định: giọng điệu là một khái niệm thuộc thi pháp học.

Đối tượng của ngành khoa học này là thi pháp Tức là hệ thống các phương tiện

biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tấc văn học Giọng

điệu là một bộ phân thuộc thi pháp, nên tất nhiên nó thuộc phạm vi nghiên cứu

của thi pháp học.

Giọng điệu nghệ thuật là một trong những yếu tố có ý nghĩa nhất định

của thi pháp tuy nhiên rất khó xác định nó về mặt lý thuyết.

Từ trước (trong văn học cổ) giọng điệu được xem như là van khí hơi văn,

điệu văn là yếu tố không thể thiếu để đoán nhận dung mao, khí chất của người

viết: “van thâm hậu thì con người của nó trầm mà tĩnh; văn ôn nhu thì con người

của nó khiêm mà hoà; văn cao khiết thì con người của nó đạm mà giản: văn hàng hon thì con người của nó cương mà nhanh; văn uyên sâu thì con người của nó

thuần tuý mà đứng đắn” (14), Văn thở xưa rất xem trọng khẩu khí của tác phẩm.

Và giong điều chính là sư thể hiện ra ngoài của cái tâm con người Vì khi cái

tam đã day ý thì tư nó phải bộc lô ra ngoài Đó cũng là lúc văn chương đạt đến

cái "thắn", bộc lộ được cốt cách của người viết

Ngày nay, khoa học nghiên cứu về văn chương đã có bề dày, giọng điệu

nghệ thuật tiếp tục được các nhà lý luận nghiên cứu thấu đáo Thi pháp học

hiện đại xác định “Giong điệu trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật toát

ra từ bản thân tác phẩm và mang một nội hàm tứ tưởng thẩm mĩ Giọng điệu là

biểu hiện của thải độ, cảm xúc của chủ thể đối với đời sống" (13)

Chung qui lại, chúng ta có thể xác nhận giọng điệu là cái thể hiện ra nôi

lực, bản chất cũng như quan niệm của người sáng tác đốt với cuộc sống Giọng

điệu mang tính phức hợp, đồng thời cũng là yếu tố riêng không lắn được của

mỗi người nghệ sĩ.

Do mang những đặc điểm nêu trên, nên giọng điệu được xem như là yếu

tô chính giúp ta định hình phong cách tác giả “Van” có được là do hợp các yếu

tố từ trong con người: “Tam 0 lính hoạt, cốt cách cao kỳ ý chí như vàng ngọc,

thanh điệu nhu nhạc ca, sóng từ kết lại, phát ra thành văn” (16).

A nh.

(14) Nguyễn Đức Đạt - Từ trong di sàn - NXBTP Mới, 1978 trang 189

(13) Tran Dinh Sd — Thi phap truyền Kiêu — NXBGD, 2002 trang 238.

(16) Lẻ Dink Ky - Dén theo Bai Hữu Bich - Trên Đường văn học - NXB VH 1995, trang 35.

Trang Is

Trang 20

luận Van lô Nghigp SH: Trấn Thị Thu Hiển

Nghiên cứu để tìm ra đặc điểm phong cách của tác giả, bên cạnh giọng

điệu còn cần phải quan tâm đến một số khái niệm khác như: dé tài, tư tưởng,

không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật Tuy nhiên giọng điệu vẫn là khái

niềm giữ vị trí đặc biệt Bởi vì " giọng điệu là một khái niệm tổng hoà cả nộidung và hình tức nghệ thuật, nó vừa là tứ tưởng tình cảm, đông thời được vật chất

hoá bằng nuôn ngữ, âm thanh sinh động cụ thé” (17)

Nhà lý luận nổi tiếng người Nga Khrapchenkô khi bàn về phong cách nhà van cũng nhấn mạnh đến vai trò của giọng điệu Ong viết: “Trong khi xem

vét những vấn dé phong cách trước hết cẩn phải chú ý tới sự tổng hợp của niuền phương tiện giọng điệu Dé tai, tự tưởng, hình tượng chỉ được trong môi

trường giong điệu nhất định, trong phạm vì của một thải độ cằm xúc nhất định”

(/#) Khrapchenko còn nhấn thêm: “Những người sành sỏi về văn học có thể căn

cứ vào những đặc điểm về giọng điệu của một đoạn văn tự sự hoặc mấy dòng của

một bài thơ để xác định tác giả của những tác phẩm ấy" (19).

Một vài nhận định của các nhà lí luận càng góp phần khẳng định vai trò

của giong điệu trong việc xác định phong cách của các tác giả Đồng thời từ đó

giong điêu cũng là cơ sở, là tiền dé để xác định tài năng của người cầm bút

Tughênev nói rằng: “Cái quan trong trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất cứ tài năng nào, là cái mà tôi gọi là tiếng nói

của mình Đáng thé cái quan trọng là cát giọng riêng biệt của chính mình

không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ một người nào khác" (20) Nhà văn

có thực tài phải là người có “cd họng” riêng phát ra thứ giọng không lấp lại

của người khác Sêkhốp cũng đã từng khẳng định: muốn đánh giá một nhà văn

hãy xem giong điều văn chương của anh ta Chon được mét giọng điệu thích

hợp là bước quan trọng bậc nhất làm nên giá trị tác phẩm Vì giọng điệu tựa

như chất phù sa tạo nên văn mạch không ngừng chảy trong những liên tưởng,

những xúc cảm mà thiếu nó không thể có sáng tạo nghệ thuật Không ít nhà

(17) Lam Vinh = bài gidng về phong cách trong sáng tác vấn học ( tài liệu roneo).

tIN) M.B Khrapchenké - cá tink sảng tạo của nhà vấn và sự phát triển của văn học —

NXBTP Moi, Hà Nội 1978, trang 167.

“ay M.B Khrapchenké ~ sdd - trang 171

(20), M.B &hrapchenké ~ dan theo lời Tughénev - sdd trang 90

Trang 16

Trang 21

: SVTH: Trần Thị Tân HH

văn trong quá trình sáng tao đã tâm sự: Dù đã tập hợp đủ tài liệu, đã phác thảo

được cốt truyện, nhưng chưa bắt được giọng điệu phù hợp thì vẫn chưa thànhvan (ví dụ trường hợp của L Tônxtôi khi viết truyện “Khaki - Môrát")

Vậy thì hoá ra giọng kể còn quan trọng hơn câu chuyện được kể rất

nhiều Ta có thể trích ra đây ý kiến của Phong Lê như là lời khẳng định về tầm

quan trọng của giọng điệu trong việc xác định tài nang của các tác giả: “Giọng

điệu riêng là mục tiêu, là kết quả được tạo nên bởi cả quá trình phấn đấu toàn diện, đồng bộ mọi mat tích lay Đó là sự huy động tống lực mọi thứ vốn của

người viết, trong đó dứt khoát phải có tai năng” (21).

Đối với người đọc, giọng điệu có tác động mạnh mẽ trong quá trình lĩnh

hôi tác phẩm Am hưởng của tác phẩm là một phương diện quan trọng, nó kích

thích ở người đọc những ấn tượng, cảm xúc mạnh mẽ Qua giọng điệu ta nắm

được cái hồn của tác phẩm văn chương Theo Hoàng Ngoc Hiến: “ Câu văn có

hồn là câu văn có giọng”, * sự phong phú, tính da nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn

trước hết là ở giọng” (22).

Nắm được giọng điệu là mở ra con đường thâm nhập vào tác phẩm, rút

ngắn con đường đến với tác giả.

Giọng điệu trong tác phẩm văn chương được biểu hiện rất đa dạng Nó

“vita biếu hiện ở phương điện ngữ âm; trdm, bổng, duc, trong vừa được biểuhién ở phương điện phong cách; nóng, lạnh, nha, cương ” (23) Các yếu tố ngônngữ( ngữ âm, từ vựng, cú pháp, tiết tấu) cũng có vai trò lớn trong việc tạo ra

giong của tác phẩm, "Giong điệu còn được bộc lộ qua cách miêu tả các hiệntương, các tính cách hoàn cảnh Giọng có thể thể hiện trực tiếp trong ngôn ngữ,

có giong nằm đằng sau các chữ, trong cd những chỗ phi ngôn nẹữ như các dấucâu, những chỗ ngắt doanTM(24),

(3l) Phong Lê - Trên hành trình 40 năm van vuôi, ngôn ngữ và giọng điệu ~ Tạp chỉ Vh số

$⁄}0A5

(32) Hoàng Ngọc Hiển — Van học va Học van - Trường CĐSP TpHCM và trường viễt văn Veuven Da, Hà Nói 1990, trang 64

(23) Nguyễn Thị Du Khánh - Phan tích tắc phẩm từ gúc độ thi phán - NXB GD, trang 52

(34) Lẻ Ngoc TRa = lí luận từ trăn học - NXB Trẻ, 1990 trưng 153

Trang 17

Trang 22

Giọng điệu xuất phat từ tình cảm, cảm hứng nên nhà nghiên cứu Hoàng

Ngọc Hiến trong bài viết “Giọng điệu trong văn chương” đã lí giải: " cảm hứngnào, giọng điệu ấy nhưng cũng có thể ngược lại giọng điệu định hướng hình

thành cảm hứng”.

Tuy nhiên, khi xem xét giọng điệu chúng ta cắn lưu ý: Giọng điệu là một

trong những hình thức bộc lộ nội dung tác phẩm Bởi vay giọng điệu không tồn

tai thành những biểu hiện hình thức riêng lẻ, mà chúng phối hợp nhịp nhàng với

nhau tạo thành “su tổng hợp thái độ, tình cam, nt tưởng, đạo đức và quan niệm

thấm mĩ của nhà văn",

Giọng của tác phẩm, ở một mức độ nào đó, phụ thuộc vào bản thân của các hiện tượng được để cập đến,nhưng về cơ bản, giọng điệu vẫn là hình thức

bộc 16 chủ quan của nhà văn trong tác phẩm văn học

"Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thường rất đa dạng, có nhiễu sắc

thái trên một giong điệu cơ ban chứ không đơn điệu ”(25) Giọng cơ bin tạo âm

hưởng chính, sắc thái chung cho cả tác phẩm và thường gắn với những ong

văn mở đầu Các giong phụ tạo tính phức điệu, đa thanh về giọng của tác phẩm

và thể hiện được tình cảm, thái độ đa dạng của tác giả đối với cuộc sống

Hình thức phân chia loại giọng điệu cũng rất phong phú Gắn với dấu

hiệu thể loại có: Giọng bi (bi kịch), giong hài (hài kịch), giọng kể (tự sự) Dựa

trên sắc thái tình cảm ta có: giọng trang trọng, giọng thân mat, giọng gay gắt Theo tình cảm ta lại có: Giọng trữ tình, giọng châm biếm Cũng có giọng gọi

theo cảm hứng, phong cách tác giả: Giọng triết li, giọng thế sự Các giọng này

dan xen, kết hợp với nhau rất phức tạp, nhưng có ý nghĩa cho việc tạo nên sự

phong phú cho màu sắc tình cảm của tác phẩm,

Một số quan niệm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, tuy chưa that đấy đủ nhưng phan nào đã giúp cho chúng ta hình dung được giọng điệu

nghệ thuật trên cơ sở khái quát Từ đó một mặt soi sáng thêm bản chất của văn

học, mặt khác mở ra một cách tiếp cận mới, cho chúng ta có cái nhìn thấu đáo

mat chủ quan trong nội dung nghệ thuật, tránh sự phiến diện khi xem xét tác

phẩm chỉ dựa trên bình diện tư tưởng.

CC HCl 9 0 901400096004090904Ô090904990 0604990 900ÓÔÓ00ÔÓÓ0900090906 9099990949099 0996099969909 3Ó090 3Ó ÓSỆ

(23) Lé Ba Han, Trần Đình Sè Nguyên Khác Phi — Từ Điển thuật nẹữ van học - NXB

DHQG Ha Nói, 99, trang 113

Trang 23

3; hai niém giong diéu nghé th

Là một loại thể văn học, the tất có những thuộc tinh chung của văn học,

nhưng cũng mang đặc trưng riêng của nó Những đặc trưng nay chi phối đến tất

cả các yếu tố khác trong tác phẩm Bởi vậy khi nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật trong thơ, trước hết cần xem xét những đặc trưng thơ chỉ phối đến nó.

3.1 Đôi nét về đặc trưng của thơ.

'Thơ là tiếng nói tình cảm mãnh liệt và tư tưởng phong phú Đây là đặc

trưng đầu tiên, đồng thời là đặc trưng rất quan trọng của thơ

Nói như vay, không có nghĩa là ở các thể loại khác không chứa yếu tố

tình cảm Sáng tác nghệ thuật nào cũng đều là biểu hiện tư tưởng, tình cảm,

tưởng tượng của người nghệ sĩ Tuy nhiên riêng thd “bao giờ cũng tập trung tình

cảm dam đặc nhất, cô đúc nhất, không có tình (khô khan, lạnh làng) thì đó là

một thứ khác không phải là thơ".(26) Để sáng tác nhà thơ không chỉ cẩn hiểu

biết mà quan trọng là phải có xúc cảm mãnh liệt.

Nhấn manh vai trò của tình cảm trong thơ, chúng ta không đem tư tưởng

đối lập với tình cảm Tác phẩm có tư tưởng có thể không mang sắc thái tình

cảm, nhưng tình cảm tất phải mang một nội dung tư tưởng nhất định.

Ở các thể loại khác (truyện, tiểu thuyết, kịch) các tác giả chú trọng xây

dung bức tranh vé cuộc sống, trong đó các nhân vật có đường đi và số phận

riêng Qua việc miêu tả nhân vật (ngoại hình, tính cách hành động) và chuỗi

cúc su kiến ta rút ra được tư tưởng của nhà văn Từ tư tưởng đó, người đọc cảm

nhân được tình cảm của tác giả Trong thơ, ngược lại, thế giới chủ quan của con người, cảm xúc, tâm trang, ý nghĩa được trình bày trực tiếp Đọc thơ, trước hết

là nhân thấy tình cảm sau đó là ghi nhớ hình ảnh và cuối cùng mới thấu hiểu

dan tư tưởng.

Ngay cả trong thơ tự sự, nhiều khi kể về một câu chuyện nào đó có nhân

vật, quan hệ xã hội, nhưng đều xuất phát từ tình cảm nồng nhiệt, thể hiện mối

đồng cảm với nhân vật (như *Truyện Kiều” Nguyễn Du: “ Ti Bà Hành”

-Trang 19

Trang 24

Bach Cư Dị ), tình cảm của nhà thơ vẫn bộc lộ trực tiếp trong văn bản, chúng ta

sé nhìn thấy ngay khi thâm nhập tác phẩm.

Chúng ta có thể tiểu kết đặc trưng thứ nhất của thơ bằng ý kiến sau đây:

"Đặc điểm cơ bản của tác phẩm trữ tình là sự thể lộ ý nghĩa, cảm xúc trước thế

giới, trong đó tình cảm là mạch phát triển then chất của tác phẩm" (27).

Đặc trưng thứ hai của thơ là trong tác phẩm hầu như không có nhân vật Nhà thơ là chủ thể trữ tình và thường bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình Nhân

vắt trong thơ nếu có chínhlà nhân vật trữ tình Đó là nguồn cảm xúc của tác giả

(như chị Tran Thi Lý, Anh Nguyễn Văn Trdi trong thơ Tố Hữu) hoặc là đối

tương để tác giả gửi gdm tâm sự (nhân vật Anh và Em trong “Thơ Duyên”

-Xuân Diệu) Nhân vật trữ tình trong thơ vì thế thường là hiện thân mặt chủ quan

của tác giả,

Khi nhân vật trong thơ nhiều hơn một và phân chia thành những hệ

thống riêng biệt thì bản chất trữ tình của thơ bị phá vỡ tính tự sự xen vào tắc

phẩm Điều này lý giải tại sao những tác phẩm như “Lục Vân Tiên - NguyễnDinh Chiểu *”, “ Truyện Kiểu - Nguyễn Du” , được xếp vào thể loại truyệnthơ.

Nhân vật trữ tình trong thơ không có diện mạo, hành động cụ thể, tính

cách đa dang như nhân vật tự sự và kịch Nhân vật trong thơ chỉ được khai thác

ở một vài đặc điểm có tính chất tiêu biểu cho tư tưởng mà tác giả đại diện,

thong qua đó bày tỏ xúc cảm, tinh cảm của mình.

Thơ là tiếng nói tình cảm, đồng thời phải tái hiện miêu tả cuộc sống bằng hệ thống hình ảnh, qua đó cho thấy rõ hơn lối cảm, lối nghĩ của người

xáng tác Nhưng dùng hình ảnh không thôi thì chưa đủ, các tác giả còn vận dụng

hệ thống từ ngữ và âm thanh để diễn đạt cảm xúc Có khi các nhà thơ còn chú ý

đặc biệt đến vị trí các từ, cách ngất nhịp, sắp xếp câu

Nhìn chung, ngôn ngữ thơ được nhiều nhà lý luận khái quát lại bằng các

đặc điểm: thể hiện tình cảm mãnh liệt, gợi tưởng tương phong phú, phản ánh

ee %6 9996969090969 0909609609099649 9669 4©606 66 số 9 e0 9€ ese6966666e°06662°

27) Phương Liu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam Lí luận van học « NXB GD 1997,

trang 362

Trang 20

Trang 25

Ludn Van TétNghigp SH: Trần Thị Thu Hiển

tắp trung cô đọng đời sống, giàu hình ảnh và có âm thanh nhịp, điệu rõ rệt Đây

là đặc trưng bản chất cuối cùng của thơ ta cẩn quan tâm đến.

Những đặc trưng nêu trên đây cho thấy bản chất của thơ, đồng tời chi

phối rất lớn đến yếu tố giọng điệu trong thơ mà ta sẽ xét đến tiếp sau đây.

32 Giong điệu nghệ thuật trong thơ:

Giong điệu nghệ thuật như đã nói, tựa như là cái hồn của tác phẩm Nó

là phương diện quan trọng để đưa người đọc đến với tác phẩm, cảm thụ được

cúi hay của áng văn chương nói chung Riêng trong thơ, giọng có vai trò đặc

biết quan trong.

Xét về dung lượng, một bai thơ trữ tình không thể quá dài Dung lượng

của nó kém xa các thể loại khác (trừ truyện ngắn mini) Tuy nhiên, tác phẩmthơ cùng như truyện, tiểu thuyết, kịch vẫn phải biểu đạt được tư tưởng, tình cảm,

quan điểm sống của tác giả Thêm nữa, thơ cũng là thể loại có qui định chat

chè nhất về luật Chính vì thế, giọng điệu trở thành hình thức bộc lộ chủ quan

quan trọng đối với nhà thơ Đồng thời cũng là con đường ngắn nhất để đến được

với cái thần của tác phẩm.

Giong trong thơ thường là giọng đơn Tho hau như không có nhân vật,

nên trong tác phẩm thường chỉ có giọng duy nhất của chủ thể trữ tình “ Khi mot

giong khác lạ tham gia vào trò chơi biểu tượng, lập tức bình diện thi ca bị phá

huy và chuyển sang bình điện văn xuôi” (28) Trong tác phẩm thơ còn chứa yếu

16 giong điệu thời đại, nhưng giọng điệu chủ quan của nha thơ bao giờ cũng

chiếm vị trí đặc biệt nhất, chỉ phối đến việc hình thành các yếu tố khác

Thơ là tiếng nói tình cảm mãnh liệt, nên các tiểu từ tình thái, các dạng

cảm hứng cũng góp phan đắc lực trong việc thể hiện giọng điệu Chúng tao

thành tình điệu nói, mở cửa cho giong điệu hiện ra một cách trực tiếp.

Trong tác phẩm thơ, cảnh thường dùng để miêu tả tình, nên hình ủnh

nghệ thuật trong thơ rất quan trọng Các môtíp hình ảnh, hình tượng trong tác

phẩm cũng có thể là yếu tố làm nén giong Sự xuất hiện của chúng trong tác phẩm không hé là sự xuất hiện ngẫu nhiên mà gắn với cảm quan nghệ thuật

(28) Dang Anh Dao = Túi nàng và ngườt thitding thuức - NXB Hội nhà vàn 1994

Trang 26

lận Van TotNghigp — SVTH: Trển Thị Thu Hiển

của tác giả để làm nên gam màu xúc cảm của chủ thể thể hiện cái nhìn của

người nghệ si đối với cuộc sống.

Ngoài ra với những qui định chat chẽ của thơ, cùng với dung lượng han

chế thì cách sử dụng từ ngữ , cách tạo câu ngất nhịp là phương tiên quan trọng

bắc nhất để hình thành giọng điệu Với thơ, từ ngữ là chỗ dựa của cảm xúc Mỗi

nhà thơ thường có khuynh hướng sử dụng một trường từ riêng Nếu ta thay

trường từ ấy bằng những từ ngữ khác thì sẽ hoặc là lạc giọng, hoặc là đổi giọng

Tom lại, là một hiện tượng nghé thuật, giong điệu nhà thơ thực sự là sản

phẩm của quá trình sáng tạo, tự nó là một hệ thống trong một hệ thống lớn hơn Các yếu tố trong hệ thống ấy tác động qua lại mật thiết với nhau nhằm bộc lộ

chiều sâu của cái nhìn và thái độ chủ thể sáng tạo đối với thế giới Để khámphá, tìm hiểu về thơ ca của một tác giả, trước hết ta phải mở được cánh cửa -

đó là giong điệu.

Trang 22

Trang 27

Luận Văn Tốt Nghiệp SVTH: Trần Thị Thu Hiến

Chương ba:

GIỌNG DIEU NGHỆ THUAT TRONG THO NOM

NGUYEN BINH KHIEM.

Nhà thơ nào, có vai trò ít nhiều quan trong cũng đều là người làm chứng,

người giải đáp cho một thời đại Nhưng ít ai như Nguyễn Binh Khiêm có cuộc đời dài đến 95 năm, làm cây dai thụ rợp bóng cả một thế kỷ, một thế kỷ có lim biến cố chính trị nhất trong lịch sử dân tộc Từ trên đỉnh cao huy hoàng là triểu

đại Lê Thánh Tông nước nhà bổng rơi tụt vào một thời kỳ loạn li, đen tối: chiến tranh giành quyền lực, đất nước bị chia cắt, cảnh sống nhân dân cực khổ,

cảnh nhiều nhương lan tràn khắp mọi ngóc ngách của xã hội Hoàn cảnh lịch sử

ấy tác động đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, để rồi vang lại cuộc đời qua thơ ông bằng

thứ tiếng nói riêng thể hiện thái đô, quan điểm, bản chất của người sáng tạo

Theo từ điển Hán — Việt (Thiểu Chửu - NXB Văn Hoá Thông Tin 1999):

Thế có nghĩa là "đời", “cdi đời; sự là * việc” Vậy thì thế sự chính là những sự việc diễn ra trong cuộc đời, trong cuộc sống của con người Chất “ thế su” ít có

trong những câu thơ đơn thuần về tả cảnh thiên nhiên như:

Có xanh như khói bến xuân tươi,

Lại có mua xuân nước vỗ trời.

(Nguyễn Trãi - Bến đò xuân đầu trai)

Long lanh day nước in trời,

Thành xây khỏi biéc non phơi bóng vàng.

(Nguyễn Du - Truyện Kiểu)

càng không có trong những vin thơ thoát ly cõi tục hướng đến cdi tiền

như:

Trang 23

Trang 28

Em như lọt tiếng tơ tình,

Đẹp như ngọc nữ uốn mình trong không.

Thiên thai gió thoảng mơ màng,

Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng xa bay

(Thế Lữ - Tiếng sáo thiên thai)

Chất thế sự chỉ tổn tại trong thơ cảm thán về thời cuộc về nhân tình thế thái, Đó là lúc nhà thơ trực tiếp miêu tả về cuộc sống của bản thân, về cuộc đời;

để cập các mối quan hệ trong xã hội: Làng xóm, bè ban, thay trò ; Thể hiệnchủ để giàu/ nghèo, hay đưa ra những lời giới khuyến nhằm cải tạo cuộc đời

Giọng điệu thế sự chỉ xuất hiện khi nhà thơ quan tâm, nói nhiều đến

những nỗi dung này Giọng thế sư là giọng thơ mang “âm hưởng” của cuộc

sống, để cập nhiều đến cuộc sống với thứ ngôn ngữ gần gũi, giản dị và lối nói

đơn giản, châm rai.

Không phải chỉ đến Nguyễn Binh Khiêm, chất “thé sư” này mới xuất

hiện Tuy chưa nhiều, nhưng cũng đã thấy ở Nguyễn Trãi khi ông nói về “ lòngngười cực hiểm thay” , khi ông trách những kẻ hậu sinh không biết xem trọngcác bac tiền bối ( Biên xanh nd phụ người đầu bạc - đầu bạc xưa ray có thudxanh) Có điều, ở Nguyễn Trãi chất thế sự ấy chưa đâm, nó như là một yếu

16 mà tác giả mượn để bày tỏ tâm trạng, hướng đến mục đích chủ yếu là thểhiện tinh cảm Còn ở Nguyễn Binh Khiêm đặc biệt là trong thơ Nom, chất

“thé sự” ấy tổn tại hấu như trong mọi tác phẩm, quy tụ lại và phát ra thành

giọng riêng của tác giả.

Vay thì giọng thế sự trong thơ Nôm Nguyễn Binh Khiêm có gì đặc biệt

và nó được thể hiện ra nơi tác phẩm như thế nào?

Nhà lí luận Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: “cdm hứng nào giọng điệu

ấy”, Cảm hứng mang lại cho tác phẩm không khí xúc cảm nhất định, nhờ đó

người nghệ si khẳng định được nguyên tắc về thế giới quan của mình trong tắc

phẩm để từ đó chọn được cách nói hiéu quả phù hợp nhất Chất thế sự tronggiong thé Nom Nguyễn Binh Khiêm, vì vậy được tạo nên trước hết ở cảm hứng

thể sự xuyên suốt các tác phẩm của ông Đó là những nôi dung mà tác giả hay

đẻ cap đến - những su việc gan gũi, dé bắt gap trong cuộc đời.

Trang 24

Trang 29

Luận Văn Tết Nghị : Trần Thi Thu Hiền

Thơ Nôm Nguyễn Binh Khiêm trước hết có thể xem như là bản tự thuật.

tâm sự về cuộc số ng thanh ban của nhà nho.

Cuộc sống “nhất biểu ẩm, nhất dan tự” (cơm một gid, nước một bầu) của

Nhan Uyên - người học trò ưu tú, sống thanh ban nhưng học giỏi - đã được Khong Tử khẳng định từ thời Xuân thu Nay được Nguyễn Binh Khiêm nhắc lại

với cảm hứng không kém phần sâu sắc:

Kia ai đúng đỉnh trong làng hạnh,

Cơm một ndi, nước một bầu

(Thơ Nôm, bài 95)

Nhưng ông không chỉ dừng lại ở một nhân vat lich sử, ở khái quát hình

tượng cuộc sống tiêu biểu mà đi đến tám sự vẻ cuộc sống sinh động khi ở ẩn

của bản thân:

Sách có hai pho rồi lại đọc,

Cơm vàng hai bữa đói thì ăn.

(Thơ Nôm, bài 20)

Hình tượng Nguyễn Binh Khiêm trong thơ Nôm là người sống hoà nhập vào thiên nhiên Ông bầu bạn cùng với gió trăng, vui cùng trà rượu:

Bến nguyệt thuyén kê hai bai mia,

Am mây, cửa khép một can pheo.

(Thơ Nôm., bai 35) Huy:

Trăng thanh, gió mát là tương thức,

Nước biếc non xanh ấy cế tri.

(Thơ Nôm, bài 84)

Tất cả cái thi vị trong cuộc sống của tác giả “Bach Vân quốc ngữ thi tap”

là sư đơn giản, bình dị:

Bếp trà hâm đã, xôi măng trúc,

Nương cỏ cày thôi, vai hạt mudng.

Cửa vắng ngựa xe không quýt rin.

Cơm no tâm cá kéo thèm thung.

Sơn tăng trêu khách xui người bẩy,

Trang 25

Trang 30

Luận Van Tốt Nghiệp 0 SVTH: Trấn Thị Thu Hiến

Sơ nguyệt kinh kình đã gióng chuông.

(Thơ Nôm, bài 38)

Công danh phú quý chỉ là những giấc mơ đen tối, những ám ảnh vật chat

đã được gạt bỏ, những âm thanh rộn ràng của xã hội quay cuồng chỉ còn là

những tiếng xôn xao không làm bận trí nhà nho ẩn dat Trong lòng nhà thơ này

chỉ thấp thom một nỗi là sơ vẻ đẹp của thiên nhiên dé vỡ dé tan:

Nưưng song, ngày tiếc mài hương lot, Nối chén, đêm âu bóng quế tan.

(Thơ Nôm bài 23)

Cuộc sống của Nguyễn Binh Khiêm đạm bạc đơn sơ, tâm hồn của ông

thanh cao vì vậy đó cũng chính là cuộc sống của tang lớp trí thức thanh ban

Việt Nam nói chung:

Giàu cơm thịt, khó com rau,

(Thơ Ném, bài 3)

Cơm ăn chẳng quản dua muối,

Áo mặc nai chi gam thêu?

(Thơ Nôm, bài 67)

Thu ăn măng tric, đông ăn giá,

Xuân tắm hẳ sen, hạ tắm ao

(Thơ Ném, bài 73)

Sống thanh bẩn nhưng thanh cao là mục đích cao nhất mà các nho sĩ

hướng tới.

Đọc những câu thd này, tưởng chừng Nguyễn Binh Khiêm hoàn toàn

quay lưng với cuộc đời, hoặc gid phải như Nguyễn Công Trứ tự giành lấy cho

mình những giây phút phóng túng nhất, để dù đi chùa lễ phật, cũng vẫn “heo chân ching đính một đôi di” Nhưng không, không giống các ẩn sĩ khác, Nguyễn

Binh Khiêm trong những tháng ngày này lại quan tâm hơn bao giờ hết đến cuộc

xống, đến thói đời và những biến động của lòng người.

Sau ban tư thuật vẻ cuộc sống thanh ban, mdi quan hệ giàu sang - nghèo

hèn được Nguyễn Binh Khiêm dé cập đến trong thơ Nôm giống như bức tranh

; Trang 26

Trang 31

Luận Văn Tốt Nghiệp SVTH: Trần Thị Thu Hiển

tư sự về thể thái nhân tình.

Có thể nói đây là chủ để làm nổi bật nhiều nhất giọng thế sư trong thơ

của ông.

Bằng sư cảm nhận nhay bén và óc quan sắt tỉnh tế, Nguyễn Binh Khiêm

đã dưng lên trong thơ một xã hội chân thực qua cắp phạm trù giàu - nghèo.

Thơ của ông làm nổi bật lên hai loại người với hai tư thế khác nhau:

Giàu chĩnh chện, khó lai dai.

(Thơ Nôm bài 2)

Bên kia dương dương tự đắc, bên này lôi thôi mặc cảm Hai loại người

tao nên hai thế lực đối lập, dựa trên hai điểm tựa khác nhau Giàu sang thì hội

đủ địa vị, của cải, ruộng vườn, xe cộ và cả sự vồ vập, ninh hót của người đời

Cơ sở của người nghèo là "xôi măng trúc đắng thèm thay thịt - Đắp áo sô to

lạnh kẻo chiên” bởi vay họ không được “thdt hỏi”, không được quan tâm.

Nguyễn Binh Khiêm khi miêu tả cuộc sống của tang lớp giàu sang đã cho thấy

ưu thế của họ đối với xã hội, đồng thời cũng cho thấy sự thắng thế của đồng

-2

ticn:

Giàu sang: người trọng, khó: ai nhìn?

Mấy da yêu vì kẻ 18 hèn,Thưở khó, dẫu chào, chào cũng lặng,

Khi giàu, chẳng hỏi, hỏi thì quen.

Quen, hiểm dan diu điều làm bạn,

Ling, kéo lân la nỗi bạ men.

(Thơ Nom, bài 5)

Hay:

Người, của lấy cân ta thử nhắc.

Mới hay rằng của nặng hơn người

(Thơ Nom, bài 74)

Đồng tiền lần đầu tiên tạo nên tiếng reo khả ố:

Đạo nọ, nghĩa này, trăm tiếng bướm, Nghe thôi thinh thỉnh lai đẳng tiễn.

(Thơ Nôm, bài 5)

Trang 27

Trang 32

dn Ví

Nhung đã là tiếng reo day quyền luc Nó tượng trưng cho cả dia vi xãhôi cao sang và quyền lực kinh tế đổi dao Nó đánh vào lương tâm, chỉ phối các

môi quan hệ xã hôi:

Của khỏi làng nên quý giá,

Người lìa quê tổ lấy làm phiêu

(Thơ Nôm, bài 58)

Hoặc là:

Trước đến tay không nào thốt hỏi.

Sau vào gdanh năng, lại vui cười.

(Thơ Nôm bài 74)

Hoặc là:

Vàng ròng bạc chảy, tưng bừng đến Nhà khó tay không, linh kính di.

(Thơ Nôm, bài 102)

Xã hội hỗn loạn, con người chen đua lợi danh, bon chen, rối rít, xúm xítquanh kể có tiền Giọng điệu của Nguyễn Binh Khiêm ở đấy có chút gì đó mia

mai, nhưng sự mia mai rất kín đáo Chất "thế sự” càng hiện ra rõ nét ở đây Ta

cảm tưởng, các hiên tượng xã hội này như tự bản thân nó trình bày tiếng nói,

không cẩn đến một sự gia công nào của tác giả

Cũng bức tranh xã hội tương tự như vậy, con người tương tự như vậy về

sau được Nguyễn Công Trứ nhắc lai trong thơ của minh, nhưng bằng giong điệu

khác:

Thể thai nhân tình gớm ghiéc thay,

Nhat nông trông chiếc túi voi đầy

Hé không điều lợi khôn thành dại

Đã có đồng tiền dở cũng hay

(Vinh thé thái nhân tình)

Khon khéo chẳng qua thằng có của

Yêu vì đâu đến đứa không nhà.

(Thể tình với cảnh nghèo}

Trang 28

Trang 33

n Văn Nghỉ Vi

Giong của Nguyễn Công Trứ gay gắt hơn, mạnh bao hơn Chất trào

phúng, mỉa mai trong thơ của tác giả này vì thế manh mẽ hơn rất nhiều Cũng

dé hiểu bởi tính cách ngang tàng phóng túng của Nguyễn Công Trứ khác xa

cái chất thâm trầm, uyên nho của Nguyễn Binh Khiêm Từ giọng điêu như vậy,

phin nào lý giải được tại sao thơ của Uy Viễn tướng công sau này không dé cập

nhiều đến chủ để rin day, khuyên bảo người đời Trong thơ Nôm của NguyễnBinh Khiêm thì ngược lai, chủ để đó chiếm một mảng khá dày trong nội dung

thơ của ông.

Phát hiện ra bao nhiêu thói xấu ngự trị trong con người, làm cho con

người như mất hết tất cả vẻ đẹp hén hậu, nhưng Nguyễn Binh Khiêm vẫnkhông tỏ ra ghét bỏ mà càng quan tâm nhiều hơn đến họ Tan đáy lòng, ông

vẫn tin cái phần tốt dep, cái "bản thiện” sin có trong mỗi con người Vì vậy ma

trong thơ Nôm, ông đưa ra rất nhiều lời răn dạy giúp con người gạt bỏ những thói xấu tăng thêm những nết tốt Hàng loạt những bài Giới, Khuyến (Ran,

Khuyên) của ông đều hướng tới mục đích ấy

Trong xã hôi hén loạn, người đời hèn hạ, Nguyễn Binh Khiêm khuyên ta

phải giữ được phẩm cách thanh cao:

Có chẳng giữ giàng, không chẳng luy,

Được chăng hảo hức, mất chăng âu.

Anh hùng, người lấy tài làm trong,

An dat ta hay thi có mẫu.

Gdm ấy ai pho vac Hán,Đông giang rủ một cần câu

(Thơ Nôm, bài 28)

Muốn vậy, phải trọng danh dự như Sào Phủ, không hám của giống

Thach Sing, đừng vong ấn bội nghĩa như Dương Thị cũng đừng nối gót bội bac

clu Bái Công ( Thơ Nôm, bài 68) Bởi cái đáng quý nhất lưu lai mãi mãi theo Nguyễn Binh Khiêm là:

Miệng để danh truyền là sự ích,Còn thì muôn sự dy như không.

(Thơ Nôm, bài 68)

Mỗi mot người phải lấy lòng nhân mà đối đãi với đồng loại, không nên

giành giát dua tranh:

Trang 34

Ở thế đừng tranh đấng trương phu,

Làm chỉ cho có sự đôi ca?

Đây cậy đây khôn, đây chẳng chịu,

Đấy rằng đấy phải, đấy không thua

Duật nọ mựa còn đua với bạng,

Lươn kia hẳu dễ kém chỉ co?

(Thơ Nôm bài 72)Bởi vì người “vô sự” là người hanh phúc nhất:

Hễ kẻ trêu người, kẻ phải lo

Chẳng bằng vô sự ngáy pho pho

(Thơ Nôm, bài 75)

Cũng chớ cậy tài mà coi thường kẻ khác Trong cuộc sống không dễ

phan biết hơn thua:

Mua chê người văn, cậy ta dai

Da kém dù hơn ai mặc ai

Vi no có bùi không có ngọt

Thức kia chây thắm lại chây phai

(Tho Nôm, bài 39)

Và cuối cùng với tư cách là một bậc thay, một nho sĩ, Nguyễn Binh

Khiêm khuyến khích mọi người hãy sống đúng với chức phận của mình, phảigiữ vững kỷ cương dao lí, sống đúng với đạo “ tam cương, ngũ thường” mà cha

ông đã để ra: Con phải hiếu thuận với cha mẹ ( Bài 147), Anh em phải nhường

nhìn lẫn nhau ( Bài 148), chồng phải đối tốt với vợ (Bài 149), nàng dâu phải

phụng dưỡng cha mẹ chồng ( Bài 150) Thơ Nôm của ông còn hàng loạt bài

Giới răn dạy kẻ ham cờ bạc, mê sắc đẹp, tính kiêu ngạo, kẻ không có lòngnhân.

Ta nhân thấy Nguyễn Binh Khiêm ran day, khuyên nhủ người đời rấtnghiệm trang, hồn hậu, không một chút tự đắc Giọng thơ ông ở đây không phải

là miong kể lể, cham biếm mia mai, mà là nói chuyện cuộc đời như là lời tâm sự,

trao truyền kinh nghiệm Nhà thơ chiêm nghiệm cuộc xống, từ tiếng vọng cuộc

ống nổi bát lên thành thơ.

Trang 30

Trang 35

n Văn Tốt Nghỉ : i I

Thế giới hình tượng sinh động với những ngôn ngữ va cử chỉ như: “chen

chân đến”, “ngodnh mặt di”, “ nào thốt hỏi” “lai vui cười” cùng với những

noi dung vừa dé cập đến ở trên chỉ có thể cảm nhận được từ không gian - lịch

sử Việt Nam, thời gian - thế kỷ XVI Nguyễn Binh Khiêm đóng vai trò là

một chứng nhân lịch sử không lạnh lùng không đi ngoài lễ cuộc sống.

Nội dung thd Nôm của Nguyễn Binh Khiêm là sự that từ cuộc sống, thế

giới hình tượng trong thơ ông nhằm phản ánh cuộc sống nên tác phẩm của ông

mang đầm chất thế sự Nguyễn Đặng Điệp cho rằng: “miêu tả và tái hiện đốt

tương nào giọng điệu phải phù hợp với đối tượng ấy” (29) Vậy thì chính cảm

hứng thế sự đã tao nên giọng điệu tương ứng trong thơ Nôm Nguyễn Binh Khiêm Hay nói khác đi tác giả đã "giấu" giọng của mình rất nghệ thuật trong

cảm hứng sing tao,

Tuy nhiên xét đến giọng điệu của một tác giả, chúng ta không thể chỉ bó

hẹp ở cảm hứng chủ dao mà tác giả ấy xuất phát để sáng tác Bởi vì trong văn

học theo Lê Ngọc Trà, giọng điệu * Vừa liên kết các yếu tố hình thức khác nhau,

làm cho chúng cùng mang một âm hưởng nào đó, cùng có chung một khuynh

hướng nhất định, vừa là chỗ dựa chính để các yếu tố của tác phẩm quy tự lại và

định hình, thống nhất với nhau theo một quy định nào đó”(30) Li luận văn học

hiện đại khẳng định: Một quan điểm nghệ thuật bao giờ cũng đồi hỏi những

biện pháp nghệ thuật tương ứng với nó Như vậy, giọng điệu không chỉ thể hiện

ra qua cảm hứng mà còn chỉ phối đến phương diện hình thức của tác phẩm.

Mỗi giong điệu phù hợp với hình thức biểu hiện nhất định Đây không phải là

thứ hình thức đơn thuần mà hình thức gắn với nôi dung, biểu hiện quan điểm

nào đó Trong thơ, ngôn ngữ nhịp điệu tiết tấu của thơ là những yếu tố

quan trong thể hiện giọng điệu của tác giả.

Đọc thơ Nom của Nguyễn Binh Khiêm ta dé nhân thấy các câu thơ có

tiết tấu rất chậm Tiết tấu này phù hợp tính chất tâm sư của giọng điệu tác giả, đồng thời tạo nơi người đọc sự quan tim, chú ý.

ee ee ee số 6 cố 6 n6 n6 hố cố n6 6 6 6 ốc 6 6 6 6 6 6 6n 6 6 6 6 ốc 6 6 6 6 sốc.

(29) Nguyễn Đăng Điệp ~ giong điêu trong thơ trữ tình - NXB VH 2002 trang&8.

(400 Lê Neoe Trà - lí luận và văn học- NXB Trẻ, 1990 trang 152

Trang 3]

Ngày đăng: 20/01/2025, 00:53

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN