1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

khoá luận Thế chấp quyền đòi nợ theo quy định pháp luật Việt Nam

137 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thế Chấp Quyền Đòi Nợ Theo Quy Định Pháp Luật Việt Nam
Tác giả Lê Đoàn Kiều Trinh
Người hướng dẫn ThS. Nguyễn Trương Tín
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự
Thể loại Khóa Luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 137
Dung lượng 2,2 MB

Cấu trúc

  • Chương 1................................................................................................................. 7 (14)
    • 1.1. Khái quát chung về thế chấp quyền đòi nợ theo pháp luật Việt Nam (14)
      • 1.1.1. Khái niệm thế chấp quyền đòi nợ (14)
      • 1.1.2. Đặc điểm thế chấp quyền đòi nợ (21)
      • 1.1.3. Phân loại quyền đòi nợ (22)
      • 1.1.4. Ý nghĩa thế chấp quyền đòi nợ (25)
    • 1.2. Điều kiện quyền đòi nợ đƣợc thế chấp (27)
      • 1.2.1. Quyền đòi nợ phát sinh từ giao dịch hợp pháp (27)
      • 1.2.2. Quyền đòi nợ thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp (28)
      • 1.2.3. Quyền đòi nợ không bị tranh chấp (30)
    • 1.3. Những mối quan hệ liên quan đến thế chấp quyền đòi nợ (31)
      • 1.3.1. Quan hệ giữa bên có nghĩa vụ trả nợ và bên thế chấp quyền đòi nợ (31)
      • 1.3.2. Quan hệ giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp quyền đòi nợ (32)
      • 1.3.3. Quan hệ giữa bên có nghĩa vụ trả nợ và bên nhận thế chấp quyền đòi nợ 26 1.4. Phạm vi thế chấp và xử lý quyền đòi nợ đƣợc thế chấp (33)
      • 1.4.1. Phạm vi thế chấp quyền đòi nợ (35)
      • 1.4.2. Xử lý quyền đòi nợ được thế chấp (0)
  • Chương 2............................................................................................................... 32 (39)
    • 2.1. Vướng mắc trong việc xác định phạm vi thế chấp quyền đòi nợ và giải pháp hoàn thiện pháp luật (39)
      • 2.1.1. Xử lý lãi phát sinh từ quyền đòi nợ được thế chấp (0)
      • 2.1.2. Thế chấp quyền đòi nợ hình thành trong tương lai (40)
    • 2.2. Vướng mắc trong quy định về hình thức đối với giao dịch thế chấp quyền đòi nợ và giải pháp hoàn thiện pháp luật (42)
    • 2.3. Vướng mắc trong quy định về nghĩa vụ thông báo quyền đòi nợ được thế chấp và giải pháp hoàn thiện pháp luật (44)
    • 2.4. Vướng mắc trong việc xử lý quyền đòi nợ được thế chấp và giải pháp hoàn thiện pháp luật (49)
      • 2.4.1. Phương thức xử lý quyền đòi nợ được thế chấp (49)
      • 2.4.2. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ trong thế chấp quyền đòi nợ (50)
      • 2.4.3. Thế chấp quyền đòi nợ trong mối quan hệ với phương tiện phòng vệ của bên có nghĩa vụ trả nợ (53)
  • PHỤ LỤC (71)

Nội dung

7

Khái quát chung về thế chấp quyền đòi nợ theo pháp luật Việt Nam

1.1.1 Khái niệm thế chấp quyền đòi nợ

 Khái niệm quyền đòi nợ

Quyền đòi nợ có thể hiểu đơn giản là quyền yêu cầu người có nghĩa vụ thanh toán một khoản tiền hoặc vật nào đó Đây không chỉ là một mối quan hệ pháp lý mà còn được xem như một loại tài sản trong hệ thống pháp luật.

Theo quy định tại Điều 281 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền đòi nợ được hiểu là quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ thanh toán một khoản tiền đã thỏa thuận trong hợp đồng Bên có nghĩa vụ phải thanh toán đúng thời điểm đã cam kết, và bên có quyền chỉ có thể yêu cầu việc thanh toán từ bên có nghĩa vụ, không thể yêu cầu bên thứ ba, vì đây là mối quan hệ trực tiếp giữa hai bên.

Theo pháp luật tài sản, quyền đòi nợ được xác định là một loại quyền tài sản, được quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 Điều này cho thấy quyền đòi nợ là một trong bốn loại tài sản chính theo Điều 105 của cùng bộ luật.

Mặc dù Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 không giữ lại quy định về bảo đảm bằng quyền tài sản như trong BLDS năm 2005, nhưng Điều 295 của BLDS năm 2015 đã khẳng định rằng bất kỳ tài sản nào cũng có thể được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Điều này đồng nghĩa với việc quyền đòi nợ, một loại quyền tài sản, hoàn toàn có thể được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ dân sự theo quy định của BLDS năm 2015.

1Bùi Đức Giang (2013), “Khoảng trống pháp luật về quyền đòi nợ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số

Mặt khác theo điểm c khoản 7 Điều 6 của Thông tư 08/2018/TT-BTP của Bộ

Vào ngày 20 tháng 6 năm 2018, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 08/2018/TT-BTP hướng dẫn về đăng ký và cung cấp thông tin liên quan đến biện pháp bảo đảm, hợp đồng cũng như quy trình trao đổi thông tin tại các trung tâm đăng ký giao dịch Thông tư này quy định rằng các quyền tài sản, theo Điều 115 BLDS 2015, bao gồm quyền đòi nợ, được coi là tài sản và có thể được đăng ký biện pháp bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký khi có yêu cầu, ngoại trừ quyền sử dụng đất.

Quyền đòi nợ là quyền dân sự được pháp luật Việt Nam công nhận, phát sinh từ các hợp đồng như mua bán hàng hóa, xây dựng công trình hay cho thuê Sau khi hoàn thành nghĩa vụ, bên có quyền đòi nợ có thể yêu cầu bên còn lại thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bao gồm các khoản tiền mua hàng, tiền xây dựng hoặc tiền thuê nhà Đây là tài sản vô hình, thể hiện trách nhiệm thu hồi của cá nhân hoặc doanh nghiệp Quyền đòi nợ ngày càng trở nên quan trọng trong tài sản của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, cho phép họ yêu cầu trả tài sản theo hợp đồng hoặc quy định pháp luật Đối tượng của quyền này là khoản nợ, tức là số tiền sẽ được thanh toán vào thời điểm nhất định trong tương lai, với nghĩa vụ thực hiện tài sản từ bên có nghĩa vụ trả nợ đối với bên có quyền.

Quyền đòi nợ được cấu thành từ ba yếu tố chính: trái chủ (chủ thể có quyền), thụ trái (chủ thể có nghĩa vụ) và đối tượng là khoản nợ Đến nay, pháp luật vẫn chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về quyền đòi nợ Trước đây, Thông tư số 04/2007/TT-BTP đã định nghĩa quyền đòi nợ thông qua các hợp đồng như vay, mua bán, thuê tài sản, nhưng định nghĩa này đã bị hủy bỏ theo Thông tư số 05/2011/TT-BTP.

Thông tư số 08/2018/TT-BTP đã quy định quyền đòi nợ là quyền tài sản phát sinh từ nhiều loại hợp đồng liên quan đến bất động sản Tuy nhiên, việc liệt kê quyền đòi nợ chỉ trong các giao dịch mua bán, dịch vụ, thuê tài sản và kinh doanh bất động sản là chưa đầy đủ Điều này dẫn đến sự thiếu sót trong nhận thức về bản chất pháp lý của quyền tài sản này, từ đó không thúc đẩy được các giao dịch trong tương lai.

Quyền đòi nợ được hiểu là quyền dân sự của một bên, cho phép bên đó yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với mình.

 Khái niệm thế chấp tài sản

2Lê Trọng Dũng (2020), “Điều kiện để quyền đòi nợ được làm tài sản thế chấp theo pháp luật Việt Nam”,

Tạp chí Kiểm sát, số 20, tr 33.

“Thế chấp” là một từ có nguồn gốc Hán – Việt: “Thế là bỏ đi, thay cho” còn

Thế chấp là hình thức cầm, giữ tài sản làm bảo đảm cho khoản vay, theo từ điển tiếng Việt, nghĩa là sử dụng tài sản để đảm bảo cho số tiền vay nếu không thể trả đúng hạn Cụ thể, thế chấp thường liên quan đến việc sử dụng nhà cửa hoặc tài sản khác để vay tiền từ ngân hàng Qua đó, thế chấp được hiểu là phương thức mà bên có quyền và bên có nghĩa vụ thỏa thuận để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thông qua tài sản có giá trị có thể thay thế cho nghĩa vụ trong trường hợp vi phạm.

Thế chấp là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có nguồn gốc từ thời La Mã cổ đại Theo các học giả La Mã, luật về cầm cố và thế chấp là lĩnh vực pháp lý thứ hai được hình thành, chỉ sau luật về quyền dụng ích.

Khái niệm thế chấp trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 và 2015 cơ bản không thay đổi Theo khoản 1 Điều 317 BLDS năm 2015, thế chấp tài sản là việc bên thế chấp sử dụng tài sản của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ mà không chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp Điều này cho thấy BLDS năm 2015 tiếp cận thế chấp như một giao dịch hợp đồng dựa trên lý thuyết trái quyền, nằm trong phần "nghĩa vụ và hợp đồng" Đồng thời, đặc điểm vật quyền trong quan hệ thế chấp cũng được thể hiện qua quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm tại Điều 298 BLDS năm 2015.

Khi so sánh khái niệm thế chấp giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Anh cùng nhiều nước theo hệ thống tiền án lệ, ta nhận thấy sự khác biệt rõ rệt trong việc chuyển giao quyền sở hữu Pháp luật Việt Nam không yêu cầu chuyển giao quyền sở hữu khi thực hiện thế chấp, trong khi đó, pháp luật Anh và các nước khác lại coi thế chấp là một hình thức chuyển giao quyền sở hữu, có hiệu lực từ ngày thế chấp nhằm đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả khoản vay Việc chuyển giao này thường được quy định trong hợp đồng với điều kiện rằng quyền sở hữu sẽ được khôi phục khi nghĩa vụ được thực hiện.

3 Đào Duy Anh (2000), Từ điển Hán - Việt, Nxb Khoa học xã hội, tr.129, tr 788.

4 Viện Ngôn ngữ (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr 934.

5 Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, tr 675.

6 Vũ Thị Hồng Yến (2017), Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của Bộ luật dân sự năm

Vào năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, trang 16, quy định rằng tài sản sẽ được chuyển giao trở lại cho bên vay khi bên vay hoàn thành nghĩa vụ hoàn trả khoản vay, bao gồm cả lãi suất (nếu có) Tương tự, bên cho vay cũng phải trả lại quyền sở hữu tài sản cho bên vay sau khi bên vay đã hoàn tất việc thanh toán đầy đủ.

Khi so sánh các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong quan hệ thế chấp, có sự tương đồng và khác biệt giữa Bộ luật Dân sự Pháp và Bộ luật Dân sự Nhật Bản Cụ thể, Điều 2114 của Bộ luật Dân sự Pháp định nghĩa thế chấp là quyền tài sản đối với bất động sản nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ.

Cùng với quan điểm đó, Điều 369 Bộ luật Dân sự của Nhật Bản cũng quy định:

Điều kiện quyền đòi nợ đƣợc thế chấp

1.2.1 Quyền đòi nợ phát sinh từ giao dịch hợp pháp

Chỉ những giao dịch dân sự hợp pháp mới tạo ra quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia, với cam kết và thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc và được pháp luật bảo vệ Để giao dịch có thể trở thành đối tượng của biện pháp bảo đảm thế chấp, nó phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo Điều 117 BLDS năm 2015, bao gồm: (i) Các bên tham gia phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp; (ii) Giao dịch phải được thực hiện hoàn toàn tự nguyện; (iii) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm pháp luật hoặc đạo đức xã hội; (iv) Hình thức giao dịch phải tuân thủ quy định của pháp luật.

Về điểm này, BLDS năm 2015 đã có một số thay đổi so với BLDS năm

2005 Về năng lực xác lập giao dịch, so với điểm a khoản 1 Điều 122 BLDS năm

Năm 2005, Điều 117 BLDS năm 2015 đã bổ sung cụm từ “năng lực pháp luật dân sự” và yêu cầu “phải phù hợp với giao dịch được xác lập”, điều này hợp lý do sự đa dạng và khác biệt của các giao dịch dân sự Năng lực hành vi dân sự của cá nhân phụ thuộc vào từng giao dịch cụ thể; ví dụ, theo khoản 4 Điều 21 BLDS năm 2015, người bị hạn chế năng lực hành vi chỉ được tham gia các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc theo quy định khác của pháp luật, trong khi các giao dịch liên quan đến tài sản cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật Do đó, không phải mọi chủ thể có năng lực hành vi dân sự đều có quyền tham gia giao dịch dân sự.

Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, cụm từ “pháp luật” đã được thay thế bằng từ “luật” trong các điều cấm, nhằm giảm thiểu sự hạn chế đối với tự do thỏa thuận của các bên Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định rằng điều cấm dẫn đến giao dịch vô hiệu có thể xuất phát từ chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là không hợp lý Do đó, sự thay đổi này theo Bộ luật Dân sự năm 2015 là hợp lý và phù hợp với tinh thần sửa đổi chung của bộ luật.

12 Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2015), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm

2015, Nxb Hồng Đức, tr 145. giới hạn quyền hay tự do của các chủ thể phải do luật (tức văn bản do Quốc hội ban hành) quy định 13

So với Điều 123 BLDS năm 2005, Điều 118 BLDS năm 2015 đã loại bỏ từ “hợp pháp” trong mục đích giao dịch, vì nội dung và mục đích của giao dịch đã được quy định rõ ràng là không vi phạm các điều cấm của pháp luật Sự sửa đổi này nhằm tránh tình trạng quy định thừa.

Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, giao dịch dân sự được tự do về hình thức, tuy nhiên vẫn có những trường hợp phải tuân theo quy định của pháp luật để đảm bảo hiệu lực của giao dịch Việc thu hẹp phạm vi quy định từ "pháp luật" sang "luật" là hợp lý và thúc đẩy sự tự do của các bên tham gia giao dịch Điều kiện để phát sinh quyền đòi nợ từ một giao dịch hợp pháp là rất quan trọng, vì nếu giao dịch hợp pháp sẽ tạo ra quyền đòi nợ hợp pháp và có thể trở thành đối tượng của thế chấp, ngược lại, nếu giao dịch không hợp pháp thì quyền đòi nợ cũng không hợp pháp và không thể được thế chấp.

1.2.2 Quyền đòi nợ thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp

Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo đảm liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm, Tòa án cần xác định tính hiệu lực của hợp đồng bảo đảm bằng cách kiểm tra quyền sở hữu và quyền định đoạt của bên bảo đảm đối với tài sản Đối với tài sản hình thành trong tương lai, Tòa án phải xác minh xem tài sản đã hình thành và thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm hay chưa tại thời điểm giải quyết tranh chấp.

Trong quan hệ pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ, bên thế chấp thường là bên có nghĩa vụ hoặc một người thứ ba sử dụng quyền đòi nợ của mình.

13 Đỗ Văn Đại, tlđd (12), tr 145.

14 Đỗ Văn Đại, tlđd (12), tr 146.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, bên thế chấp phải có quyền sở hữu đối với tài sản thế chấp, như được nêu trong khoản 1 Điều 295 BLDS năm 2015 Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp, đảm bảo họ có quyền xử lý tài sản nếu nghĩa vụ không được thực hiện So với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định rằng tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, ngoại trừ trường hợp cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu, đây là hai biện pháp bảo đảm mới được đưa vào luật.

Có ý kiến cho rằng bên thế chấp nên được phép sử dụng tài sản mà họ không sở hữu hoàn toàn, nhưng có một phần quyền lợi nhất định để đảm bảo giao dịch Đây là hướng dẫn của UNCITRAL về giao dịch bảo đảm, cho phép áp dụng tại nhiều quốc gia, bao gồm cả những nước theo hệ thống luật dân sự và thông luật Việc quy định tài sản bảo đảm phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm có thể đi ngược lại với xu hướng quốc tế và mâu thuẫn với khoản 3 Điều 295 BLDS.

Năm 2015, Điều 22 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định rằng tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai Tài sản hình thành trong tương lai có thể là tài sản chưa được hình thành hoặc tài sản đã hình thành nhưng chỉ thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm (khoản 2 Điều 108 BLDS năm 2015) Trong khi đó, quyền đòi nợ hình thành trong tương lai là quyền đòi nợ chưa trở thành tài sản của bên thế chấp Việc sử dụng quyền đòi nợ làm tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt khi dùng quyền đòi nợ hình thành trong tương lai làm tài sản bảo đảm, điều này tạo ra rủi ro lớn hơn cho bên nhận thế chấp.

16 UNCITRAL (2007), Legislative Guide on Secured Transactions, tr 466 Xem toàn văn Hướng dẫn của

UNCITRAL (tiếng Anh) tại trang https://uncitral.un.org/sites/uncitral.un.org/files/media- documents/uncitral/ en/09-82670_ebook-guide_09-04-10english.pdf, 10/05/2021.

Mặc dù pháp luật công nhận quyền đòi nợ hình thành trong tương lai, nhưng việc xem xét nó như một tài sản bảo đảm vẫn gặp nhiều khó khăn.

1.2.3 Quyền đòi nợ không bị tranh chấp Để quyền đòi nợ được thế chấp thì không chỉ phải thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp mà còn phải không bị tranh chấp bởi các chủ thể khác nhằm giảm thiểu rủi ro cho bên nhận thế chấp Bên nhận thế chấp không nên quá tin tưởng vào thông tin do bên thế chấp cung cấp, mà nên chủ động tìm kiếm thông tin về tài sản trên hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm, tình trạng pháp lý của tài sản đó ra sao để bên nhận thế chấp cân nhắc về tính an toàn của tài sản thế chấp và quyết định chấp nhận tài sản đó là đối tượng thế chấp hay không Tuy nhiên trên thực tế, để xác định quyền đòi nợ có đang bị tranh chấp hay không là rất khó, bởi lẽ xuất phát từ tâm lý che đậy của bên đi vay để được vay tiền Đứng trước nguy cơ đó, bên cho vay thường yêu cầu bên đi vay ký bản cam kết rằng tài sản bảo đảm không có tranh chấp tại thời điểm giao kết hợp đồng thế chấp và các hợp đồng giao kết khác.

Khi quyền đòi nợ đang tranh chấp, chỉ được phép thế chấp để bảo đảm cho khoản vay khi các tranh chấp đã được giải quyết bằng văn bản thỏa thuận giữa các bên hoặc thông qua bản án của Tòa án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Lúc này, quyền đòi nợ mới trở thành đối tượng hợp pháp của hợp đồng thế chấp.

Khi quyền đòi nợ không có tranh chấp, bên nhận thế chấp sẽ xem xét các điều kiện khác để quyết định cho vay Ba điều kiện cơ bản đã phân tích chỉ là khởi đầu, và bên nhận thế chấp có thể áp dụng các điều kiện riêng nhằm đảm bảo an toàn Không phải tất cả quyền đòi nợ đều đủ điều kiện để thế chấp, do đó, bên nhận thế chấp có thể đưa ra những quy định nội bộ khác nhau Các điều kiện này có thể bao gồm cách thức kiểm tra và định giá quyền đòi nợ, thẩm định khả năng trả nợ của bên có nghĩa vụ, và cam kết hợp tác từ bên thế chấp Điều này là cần thiết do các quy định pháp luật hiện hành còn thiếu sót, nhằm giảm thiểu rủi ro và ổn định hoạt động kinh doanh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của hoạt động cho vay.

Những mối quan hệ liên quan đến thế chấp quyền đòi nợ

1.3.1 Quan hệ giữa bên có nghĩa vụ trả nợ và bên thế chấp quyền đòi nợ Đây là mối quan hệ giữa bên có nghĩa vụ trả nợ và bên có quyền đòi nợ ban đầu Hai bên thường xác lập các hợp đồng mua bán hàng hóa, thực hiện một công việc, hay hợp đồng dịch vụ Bên bán có nghĩa vụ giao đủ, đúng hàng hóa, chất lượng hàng hóa cho bên mua, và bên mua có nghĩa vụ phải trả đủ tiền cho bên bán Lúc này, khi bên bán đã hoàn thành xong nghĩa vụ của mình thì bên bán có quyền đòi nợ bên mua Bên mua lúc này trở thành bên có nghĩa vụ trả nợ cho bên có quyền của mình là bên bán (bên thế chấp quyền đòi nợ) Do đó chỉ có bên bán (bên thế chấp quyền đòi nợ) là chủ sở hữu duy nhất của quyền đòi nợ này, là bên có quyền duy nhất của bên mua. Đây là mối quan hệ đơn thuần phát sinh từ các hợp đồng mua bán, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng cho thuê, giữa hai bên, bên có quyền và bên có nghĩa vụ trả nợ mà thôi Ví dụ cho mối quan hệ này như sau: A và B ký kết một hợp đồng mua bán thủy sản, giá trị của hợp đồng là 500.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận A phải giao hàng vào lúc 9h ngày 20/05/2021 tại trụ sở của công ty B, A phải giao hàng đúng số lượng như đã giao kết, đảm bảo chất lượng như đã thỏa thuận Hoàn thành xong nghĩa vụ B sẽ thanh toán cho A vào ngày 20/12/2021 qua tài khoản ngân hàng của công ty A Như vậy đây là mối quan hệ hai bên, giữa bên mua và bên bán Sau khi

Khi A hoàn thành nghĩa vụ giao hàng đúng số lượng, đảm bảo chất lượng và cung cấp đầy đủ chứng từ trong thời gian quy định, A sẽ trở thành bên có quyền đòi nợ từ B (bên mua) Lúc này, B sẽ trở thành bên có nghĩa vụ thanh toán cho A Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên theo Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Thương mại năm 2005.

Mối quan hệ giữa hai bên trong hợp đồng là bình đẳng và công bằng, trong đó quyền của bên này đồng nghĩa với nghĩa vụ của bên kia Dù bên có quyền có thể thế chấp quyền đòi nợ để vay tiền, hợp đồng vẫn giữ nguyên hiệu lực và các điều khoản thanh toán không thay đổi, chỉ có bên nhận thanh toán là khác Nếu bên thế chấp vi phạm nghĩa vụ, bên nhận thế chấp có quyền xử lý quyền đòi nợ, và bên có nghĩa vụ có thể thanh toán cho bên nhận thế chấp theo thỏa thuận Quan hệ này có thể chấm dứt nếu bên có quyền bán quyền đòi nợ hoặc nếu hai bên thỏa thuận chấm dứt nghĩa vụ, cùng với các trường hợp khác theo quy định pháp luật.

1.3.2 Quan hệ giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp quyền đòi nợ

Quan hệ giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp được hình thành qua một nghĩa vụ, thường là giao dịch vay tài sản, chủ yếu thông qua các hợp đồng tín dụng Bên thế chấp sẽ sử dụng quyền đòi nợ của mình để đảm bảo cho khoản vay từ bên nhận thế chấp Khi đến hạn, nếu bên thế chấp thanh toán đầy đủ khoản vay, quyền đòi nợ sẽ được giải chấp Ngược lại, nếu bên thế chấp không thanh toán, bên nhận thế chấp có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ Nếu việc xử lý không đủ để hoàn trả khoản vay, bên thế chấp vẫn phải tiếp tục nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận thế chấp, và khoản tiền thiếu sẽ trở thành nợ không có tài sản bảo đảm Trường hợp xử lý tài sản bảo đảm còn dư, bên nhận thế chấp phải hoàn trả số tiền thừa cho bên thế chấp.

Thế chấp tài sản là một hình thức giao dịch bảo đảm phổ biến, đặc biệt trong các hợp đồng vay giữa cá nhân và tổ chức tín dụng Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, bên thế chấp và bên nhận thế chấp có quyền và nghĩa vụ rõ ràng, trong đó bên thế chấp có quyền bán, trao đổi hoặc tặng cho quyền đòi nợ nếu có sự đồng ý của bên nhận thế chấp Bên nhận thế chấp cũng có các quyền như đăng ký thế chấp và xử lý tài sản thế chấp Quan hệ giữa hai bên còn thể hiện qua quyền truy đòi tài sản bảo đảm, nhằm bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp trước những rủi ro mất tài sản do bên thế chấp chuyển nhượng trái phép Những quy định này giúp ngăn chặn tình trạng bên thế chấp tự ý chuyển nhượng tài sản đã đăng ký bảo đảm mà không có sự đồng ý của bên nhận thế chấp, từ đó bảo vệ quyền lợi và lợi ích kinh tế cho bên nhận thế chấp.

BLDS 2015 không quy định hình thức giao dịch thế chấp quyền đòi nợ, nhưng do đây là một dạng thế chấp tài sản, nên cần tuân thủ các quy định về thế chấp, bao gồm cả những quy định về hình thức.

Theo Bộ luật Dân sự năm 2005, việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản và có thể cần công chứng, chứng thực hoặc đăng ký theo quy định của pháp luật Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bỏ yêu cầu về hình thức văn bản, cho phép thế chấp quyền đòi nợ tuân theo hình thức chung của giao dịch dân sự, tức là có thể thực hiện bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể.

Pháp luật hiện hành không yêu cầu đăng ký thế chấp quyền đòi nợ, nhưng cho phép các bên thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm để có quyền ưu tiên đối với tài sản và bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp trước bên thứ ba.

1.3.3 Quan hệ giữa bên có nghĩa vụ trả nợ và bên nhận thế chấp quyền đòi nợ

Khi hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ được thiết lập, bên nhận thế chấp có quyền xử lý quyền đòi nợ nếu bên thế chấp không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn Theo Điều 22 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, bên nhận thế chấp phải cung cấp thông tin về quyền đòi nợ khi bên có nghĩa vụ yêu cầu; nếu không, bên có nghĩa vụ có quyền từ chối thanh toán Do đó, chỉ có bên nhận thế chấp mới được nhận thanh toán từ bên có nghĩa vụ Hợp đồng thế chấp không làm thay đổi thời hạn thực hiện nghĩa vụ thanh toán, mà chỉ xác định bên nhận thanh toán là bên nhận thế chấp Ví dụ, A ký hợp đồng xây dựng với B trị giá 3.000.000.000 đồng, và trong quá trình xây dựng, A thế chấp quyền đòi nợ cho Ngân hàng để vay 2.000.000.000 đồng Nếu A không thanh toán cho Ngân hàng đúng hạn, Ngân hàng có quyền nhận tiền thanh toán từ B.

Quan hệ giữa bên nhận thế chấp và bên có nghĩa vụ trả nợ được thể hiện qua việc đăng ký biện pháp bảo đảm quyền đòi nợ Khi có nhiều bên cùng nhận bảo đảm, bên có nghĩa vụ trả nợ cần xác định bên nhận bảo đảm nào đã đăng ký tài sản bảo đảm trước Bên nhận thế chấp nào đăng ký sớm nhất sẽ được ưu tiên thanh toán Nếu bên có nghĩa vụ trả nợ biết thứ tự ưu tiên nhưng vẫn thanh toán cho bên nhận thế chấp khác, họ vẫn phải thanh toán cho bên nhận thế chấp đã đăng ký trước.

Quan hệ giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp được thể hiện qua việc chuyển giao quyền đòi nợ, khi đó bên nhận thế chấp trở thành chủ sở hữu duy nhất của quyền đòi nợ Điều này giúp bên thế chấp giảm bớt trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ trả nợ Tuy nhiên, việc chuyển giao này cũng có thể mang lại một số hạn chế ảnh hưởng đến quyền lợi của bên nhận thế chấp.

Mối quan hệ giữa bên nhận thế chấp và bên có nghĩa vụ trả nợ có thể bị ảnh hưởng khi bên có nghĩa vụ viện dẫn các phương tiện phòng vệ để tránh thanh toán hoặc chỉ thanh toán một phần khoản nợ Các phương tiện này bao gồm hợp đồng vô hiệu, bù trừ nghĩa vụ, hoặc thỏa thuận chấm dứt nghĩa vụ mà bên nhận thế chấp không hay biết, dẫn đến việc bên nhận thế chấp không thể xử lý quyền đòi nợ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của họ Đây là một bất cập trong quy định về thế chấp quyền đòi nợ mà pháp luật hiện chưa có quy định rõ ràng Hơn nữa, nếu bên nhận thế chấp cũng là bên có nghĩa vụ trả nợ, họ có thể bù trừ nghĩa vụ từ khoản tiền hoặc tài sản thu được từ nghĩa vụ của chính mình theo quy định tại khoản 5 Điều 54 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP.

1.4 Phạm vi thế chấp và xử lý quyền đòi nợ đƣợc thế chấp

1.4.1 Phạm vi thế chấp quyền đòi nợ

Về phạm vi tài sản được bảo đảm trong các giao dịch dân sự, cả BLDS năm

Cả Bộ luật Dân sự năm 2005 và năm 2015 đều không đề cập đến phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm, trong khi Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã quy định rõ tại Khoản 1 Điều 22 về phạm vi bảo đảm của quyền đòi nợ Theo quy định này, các bên có quyền thế chấp một phần hoặc toàn bộ quyền đòi nợ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, bao gồm cả quyền đòi nợ hình thành trong tương lai Điều này có nghĩa là quyền đòi nợ trong tương lai cũng có thể trở thành đối tượng của hợp đồng thế chấp.

Quy định cho phép các chủ thể tự do quyết định thế chấp quyền đòi nợ mà không bị giới hạn phạm vi tài sản bảo đảm là hợp lý Bên nhận thế chấp có quyền xử lý một phần hoặc toàn bộ quyền đòi nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng Trong trường hợp quyền đòi nợ có giá trị lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm, bên thế chấp có thể lựa chọn thế chấp một phần quyền đòi nợ để đảm bảo an toàn tài chính và duy trì khả năng kinh doanh Điều này giúp bên thế chấp nhanh chóng thu hồi phần nợ còn lại mà không cần thế chấp toàn bộ, đồng thời hạn chế việc thiếu vốn Nếu bên thế chấp muốn tạo lòng tin với bên nhận thế chấp, họ có thể thế chấp toàn bộ quyền đòi nợ để giao dịch diễn ra nhanh chóng hơn.

Sự tự do trong giao dịch được thể hiện qua việc cho phép thế chấp quyền đòi nợ hình thành trong tương lai, phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về tài sản bảo đảm Tuy nhiên, việc này có thể gây ra nhiều bất cập cho các bên liên quan, đặc biệt là về phạm vi quyền đòi nợ có bao gồm lãi hay không, điều mà hiện nay chưa có quy định rõ ràng Vấn đề này sẽ được phân tích chi tiết hơn trong Chương 2.

1.4.2 Xử lý quyền đòi nợ đƣợc thế chấp

32

Vướng mắc trong việc xác định phạm vi thế chấp quyền đòi nợ và giải pháp hoàn thiện pháp luật

2.1.1 Xử lý lãi phát sinh từ quyền đòi nợ đƣợc thế chấp

Theo Điều 22 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, bên có quyền đòi nợ có thể thế chấp một phần hoặc toàn bộ quyền đòi nợ, bao gồm cả quyền đòi nợ hình thành trong tương lai Trong trường hợp quyền đòi nợ này phát sinh lãi, câu hỏi đặt ra là liệu lãi suất có thể được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ hay không, đặc biệt khi các bên không có thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng Điều này được quy định tại Điều 318 BLDS năm.

Theo quy định năm 2015, khi thế chấp toàn bộ hoặc một phần động sản, vật phụ gắn liền với động sản cũng sẽ thuộc tài sản thế chấp nếu không có thỏa thuận khác Một số chuyên gia cho rằng lãi suất là vật phụ của khoản gốc quyền đòi nợ, trong khi ý kiến khác lại cho rằng lãi chỉ là phần "phụ" và chưa xác định rõ là "vật" Điều này gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật và xử lý tài sản bảo đảm Tác giả cho rằng lãi trong quyền đòi nợ là khoản tiền được thỏa thuận giữa bên thế chấp và bên có nghĩa vụ trả nợ, và lãi không phải là vật phụ nhưng thuộc tài sản bảo đảm Do đó, khi xử lý tài sản bảo đảm, nếu không có thỏa thuận, lãi sẽ được xử lý chung với tài sản bảo đảm.

Để giải quyết vướng mắc về lãi suất trong hợp đồng, pháp luật Việt Nam nên quy định rằng nếu không có thỏa thuận cụ thể giữa các bên, lãi của khoản nợ sẽ được coi là thuộc phạm vi bảo đảm Lãi suất này cũng có thể được sử dụng để thế chấp cho khoản nợ của bên thế chấp, và trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, lãi suất này sẽ được xem xét.

19 Bùi Đức Giang (2011), “Một số hạn chế của chế định thế chấp quyền đòi nợ theo quy định hiện hành”, Tạp chí Ngân hàng, số 21, tr 32.

Theo quy định tại Điều 280 BLDS năm 2015, bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu thanh toán cả nợ gốc và lãi của quyền đòi nợ nếu không có thỏa thuận khác Điều này khuyến khích các bên trong hợp đồng tự do thỏa thuận, đồng thời cần cân nhắc kỹ lưỡng để bảo đảm an toàn và ổn định hoạt động Khoản lãi này giúp bên nhận thế chấp xử lý nợ một cách hiệu quả, tránh trường hợp nợ gốc không đủ để thanh toán nghĩa vụ Nếu sau khi xử lý lãi vẫn còn dư, khoản tiền này sẽ được trả lại cho bên thế chấp Ngược lại, nếu không đủ để thanh toán nghĩa vụ, bên thế chấp vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ, từ đó thúc đẩy quá trình xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng hơn.

2.1.2 Thế chấp quyền đòi nợ hình thành trong tương lai

Việc ghi nhận tài sản hình thành trong tương lai được sử dụng để thế chấp theo BLDS năm 2015 là một bước tiến quan trọng, phù hợp với tính chất không chuyển giao của tài sản bảo đảm Điều này không chỉ thể hiện sự hội nhập với pháp luật quốc tế, đặc biệt là các nước trong hệ thống Common Law như Anh và Mỹ, mà còn mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn, từ đó thúc đẩy phát triển kinh doanh và sản xuất Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc sử dụng quyền đòi nợ hình thành trong tương lai làm tài sản bảo đảm gặp nhiều khó khăn và vướng mắc trong các quy định pháp luật hiện hành.

Việc cho phép thế chấp quyền đòi nợ hình thành trong tương lai không đáp ứng các điều kiện cơ bản của tài sản bảo đảm, theo Điều 295 BLDS năm 2015 Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm tại thời điểm giao dịch, trong khi tài sản hình thành trong tương lai là tài sản chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng chưa thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm Do đó, bên thế chấp không có quyền sở hữu đối với loại tài sản này, dẫn đến việc không thể đem chúng đi thế chấp và không thể trở thành đối tượng của một giao dịch cụ thể.

Theo BLDS năm 2015, tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung nhưng phải được xác định rõ ràng để người khác nhận diện được tài sản thế chấp Việc mô tả này rất quan trọng trong việc xác định phạm vi bảo đảm của quyền đòi nợ, giúp bên nhận thế chấp dễ dàng xác định tài sản nào có thể xử lý khi bên thế chấp không thực hiện nghĩa vụ trả nợ BLDS hiện hành khuyến khích mô tả chung, tạo thuận lợi cho các bên trong giao dịch mà không cần phải chi tiết hóa tài sản bảo đảm, đồng thời giảm thiểu việc ký kết hay sửa đổi hợp đồng khi có sự thay đổi về tài sản Đặc biệt, với quyền đòi nợ, mô tả chung càng hợp lý, phù hợp với thực tiễn giao dịch và cần thiết cho loại tài sản có biến động về giá trị.

Cụm từ “phải xác định được” đang gây khó khăn cho các bên trong việc xác lập giao dịch và mâu thuẫn với quy định “mô tả chung” Mục đích của việc này là hạn chế mô tả tài sản quá chung chung, nhằm tránh khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm sau này Tuy nhiên, quyền đòi nợ hình thành trong tương lai, do chưa hình thành hoặc chưa thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp, khiến việc mô tả tài sản trở nên khó khăn, dẫn đến việc không thể dùng tài sản này để bảo đảm cho nghĩa vụ Hệ quả là bên nhận thế chấp không thể xử lý quyền đòi nợ này, gây thiệt hại cho quyền lợi của họ và có thể mất vốn Do đó, khi quyền đòi nợ chưa hình thành, yếu tố “phải xác định được” trở nên khó thực hiện, trong khi quy định của BLDS năm 2015 cho phép giao kết hợp đồng bảo đảm quyền đòi nợ hình thành trong tương lai lại tạo ra những khó khăn như đã phân tích.

Để khắc phục những khó khăn trong việc giao dịch bảo đảm quyền đòi nợ hình thành trong tương lai, pháp luật cần cho phép các bên xác lập giao dịch này với các điều kiện cụ thể như có căn cứ pháp lý, xác định bên có nghĩa vụ trả nợ, nơi thanh toán, số nợ và thời hạn thanh toán Bên thế chấp phải chứng minh quyền đòi nợ đã hình thành và sẽ thuộc về mình trong tương lai, theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP Điều này không chỉ bảo đảm an toàn cho bên nhận thế chấp mà còn thúc đẩy việc thế chấp quyền đòi nợ, phù hợp với quy định pháp luật và hội nhập quốc tế Mặc dù việc ghi nhận quyền đòi nợ hình thành trong tương lai là một bước tiến, nhưng để biện pháp thế chấp này phát huy tối đa hiệu quả, cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể và chi tiết hơn.

Vướng mắc trong quy định về hình thức đối với giao dịch thế chấp quyền đòi nợ và giải pháp hoàn thiện pháp luật

Theo Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Nghị định số 102/2017/NĐ-CP, việc thế chấp quyền đòi nợ không bắt buộc phải đăng ký, nhưng pháp luật cho phép các bên tự nguyện thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm này Đăng ký không chỉ đảm bảo quyền truy đòi tài sản cho bên nhận thế chấp mà còn làm phát sinh hiệu lực giao dịch theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, đồng thời tạo ra giá trị pháp lý đối với người thứ ba Mặc dù vậy, việc không quy định thủ tục đăng ký bắt buộc đối với thế chấp quyền đòi nợ có thể dẫn đến nhiều bất cập trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.

Giao dịch thế chấp và đăng ký thế chấp có sự khác biệt quan trọng Giao dịch thế chấp chỉ có hiệu lực ràng buộc giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp, nhưng điều này chưa đủ để bảo vệ quyền lợi cho bên nhận thế chấp Bên thế chấp có thể thực hiện các giao dịch khác với tài sản đã thế chấp, dẫn đến việc quyền lợi của bên nhận thế chấp bị giảm sút Thậm chí, bên thế chấp có thể bán quyền đòi nợ cho bên thứ ba mà bên nhận thế chấp không hay biết, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thu hồi nợ Do đó, việc đăng ký thế chấp là cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho bên nhận thế chấp và tránh những rủi ro không đáng có.

Pháp luật Việt Nam công nhận cả việc đăng ký thế chấp bắt buộc và tự nguyện, với tài sản thế chấp bao gồm bất động sản và động sản Trong bất động sản, chỉ có quyền sử dụng đất và quyền sử dụng rừng phải đăng ký, trong khi động sản chỉ yêu cầu đăng ký với tàu bay và tàu biển Số lượng tài sản không phải đăng ký lớn hơn nhiều so với tài sản phải đăng ký, dẫn đến sự không công bằng trong việc thanh toán giữa các bên nhận tài sản bảo đảm Điều 308 BLDS năm 2015 quy định thứ tự ưu tiên thanh toán dựa trên thời điểm xác lập hiệu lực, nhưng không đề cập đến trường hợp giữa các bên không nhận tài sản bảo đảm Việc quy định đăng ký tự nguyện hiện nay chưa phù hợp với nhận thức và hoàn cảnh kinh tế, xã hội của người dân Việt Nam, khiến họ khó nhận biết rủi ro từ việc không đăng ký thế chấp quyền đòi nợ.

Tác giả đề xuất rằng việc đăng ký là thủ tục bắt buộc đối với thế chấp quyền đòi nợ, nhằm đảm bảo tính hợp pháp và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan Quy định này, kết hợp với các hậu quả pháp lý mang tính răn đe, sẽ khuyến khích các chủ thể thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm, từ đó giảm thiểu rủi ro và hậu quả không mong muốn.

Việc đăng ký biện pháp bảo đảm trong giao dịch thế chấp mang lại nhiều lợi ích cho cả bên thế chấp và bên nhận thế chấp Bên thế chấp có thể sử dụng tài sản để đảm bảo nghĩa vụ, duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh và dần dần trả nợ Bên nhận thế chấp cũng được nâng cao khả năng bảo vệ quyền lợi, có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba và ưu tiên thanh toán trong trường hợp có nhiều bên nhận thế chấp Thông qua việc đăng ký, thông tin về tài sản được công khai, giúp bên thứ ba nắm bắt tình trạng tài sản và quyết định có nên nhận bảo đảm hay không Đồng thời, bên có nghĩa vụ trả nợ cũng xác định được thứ tự thanh toán cho bên nhận thế chấp Tóm lại, việc đăng ký biện pháp bảo đảm giúp giảm thiểu rủi ro và hạn chế tranh chấp trong tương lai khi xử lý quyền đòi nợ.

Vướng mắc trong quy định về nghĩa vụ thông báo quyền đòi nợ được thế chấp và giải pháp hoàn thiện pháp luật

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định rằng bên nhận thế chấp quyền đòi nợ phải cung cấp thông tin cho bên có nghĩa vụ trả nợ khi có yêu cầu; nếu không, bên có nghĩa vụ có quyền từ chối thanh toán Việc thông báo này là rất quan trọng, nhằm đảm bảo rằng cả hai bên đều có trách nhiệm thông báo kịp thời về giao dịch thế chấp Khi nhận được thông báo, bên có nghĩa vụ sẽ hiểu rõ nghĩa vụ của mình trong giao dịch, từ đó có thể thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp Ngoài việc đăng ký giao dịch tại Trung tâm Đăng ký Quốc gia, việc thông báo cho bên có nghĩa vụ trả nợ còn tăng cường sự an toàn cho bên nhận thế chấp, đạt được nhiều mục đích và hiệu quả thiết thực.

Thứ nhất, bên có nghĩa vụ trả nợ phải tuân thủ những nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ.

Thứ hai, thông báo số tài khoản của bên nhận thế chấp mà bên có nghĩa vụ trả nợ cần thanh toán vào đó.

Thứ ba, việc thông báo là cần thiết theo yêu cầu của pháp luật trong trường hợp quyền đòi nợ được chuyển giao cho bên nhận thế chấp.

Để đảm bảo bên có nghĩa vụ trả nợ nhận thức rõ về giao dịch thế chấp và nghĩa vụ thanh toán, bên này không được thanh toán cho bất kỳ bên nhận thế chấp hay chủ nợ nào khác mà không có thông báo từ bên nhận thế chấp đầu tiên Vi phạm quy định này có thể dẫn đến việc bên có nghĩa vụ phải bồi thường cho bên nhận bảo đảm nếu gây ra thiệt hại.

Việc thông báo về thế chấp là rất quan trọng để bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp, tránh rủi ro khi bên có nghĩa vụ trả nợ không biết khoản nợ đã được thế chấp Nếu bên có nghĩa vụ trả nợ thanh toán cho bên thế chấp thay vì bên nhận thế chấp, quyền lợi của bên nhận thế chấp sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng Trong trường hợp bên thế chấp không trả được nợ, tài sản bảo đảm sẽ không còn, và bên nhận thế chấp cũng không thể kiện bên có nghĩa vụ trả nợ nếu không xử lý được tài sản bảo đảm Hơn nữa, hợp đồng thế chấp có thể bị vô hiệu nếu bên thế chấp phá sản, vì tòa án có thể coi việc thế chấp quyền đòi nợ chưa có hiệu lực do thiếu thông báo, dẫn đến việc bên nhận thế chấp không thể xác lập quyền trên tài sản này và mất đi tài sản bảo đảm.

Thông báo là một bước quan trọng sau khi ký hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định rằng bên có nghĩa vụ trả nợ phải được thông báo bởi bên nhận thế chấp trước khi thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc quy định pháp luật Điều này đánh dấu sự tiến bộ so với Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, khi mà Nghị định 21/2021 đã xác định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ thông báo.

Theo Nguyễn Hồng Năng (2016), việc thông báo của bên nhận thế chấp trước khi bên có nghĩa vụ trả nợ thực hiện nghĩa vụ đã trở thành yêu cầu bắt buộc, khác với quy định trước đây trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, chỉ yêu cầu cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ bên có nghĩa vụ Tuy nhiên, các bên vẫn chưa nhận thức đầy đủ về những rủi ro có thể xảy ra nếu không thực hiện nghĩa vụ thông báo này.

Pháp luật hiện nay chưa quy định rõ ràng về thông tin mà bên nhận thế chấp cần cung cấp cho bên có nghĩa vụ trả nợ trước khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán Những thông tin này có thể bao gồm hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ và tình hình thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp Việc quy định nội dung thông báo cần thiết sẽ giúp bên có nghĩa vụ trả nợ biết chính xác số tiền cần thanh toán và người nhận thanh toán khi quyền đòi nợ đến hạn Do đó, cần bổ sung quy định về nội dung thông báo để đảm bảo bên có nghĩa vụ trả nợ thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán và tránh việc thanh toán số tiền lớn hơn số tiền đã vay.

Việc thông báo trong giao dịch thế chấp là một nhiệm vụ quan trọng, tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có quy định pháp lý rõ ràng về nghĩa vụ này, điều này có thể được coi là một thiếu sót trong hệ thống pháp luật Trong trường hợp bên nhận thế chấp không thông báo cho bên có nghĩa vụ trả nợ, dẫn đến việc bên có nghĩa vụ đã thanh toán xong cho bên nhận thế chấp, hoặc bên có nghĩa vụ vẫn thanh toán cho bên thế chấp dù đã nhận thông báo, thì sẽ cần có quy định cụ thể để xử lý những tình huống này Dưới đây là một bản án minh họa cho trường hợp bên nhận thế chấp không thực hiện nghĩa vụ thông báo đến bên có nghĩa vụ trả nợ.

Bản án số 22/2018/KDTM-ST ngày 24 tháng 5 năm 2018 của Tòa án Nhân dân quận Thủ Đức về vụ việc “Ttranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Ngày 23 tháng 12 năm 2011 Công ty cổ phần thiết kế xây dựng V (Công ty V) có vay của Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển V (Ngân hàng V) số tiền 4.772.794.455 đồng Để đảm bảo cho khoản vay nói trên Công ty cổ phần thiết kế xây dựng V đã thế chấp quyền đòi nợ giá trị khối lượng xây lắp hình thành trong tương lai của công trình trụ sở làm việc Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn V tại tỉnh Đ (viết tắt là Chi nhánh Ngân hàng Đ) theo hợp đồng thi công xây dựng số 01/2010/HĐ-TCXD ngày 08 tháng 02 năm 2010 được ký kết giữa Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình trụ sở làm việc Chi nhánh Ngân hàng Đ và Công ty V, tổng giá trị tài sản thế chấp là 23.296.000.000 đồng.

Công ty V chỉ thanh toán 2.705.800.000 đồng và ngừng thực hiện nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng đã khởi kiện yêu cầu Công ty V thanh toán số tiền gốc và lãi, đồng thời nếu không thực hiện nghĩa vụ, sẽ tiến hành phát mãi tài sản thế chấp để đảm bảo thi hành án.

Chi nhánh Ngân hàng Đ không nắm rõ thông tin về việc thế chấp tài sản hình thành trong tương lai Vào tháng 02 năm 2014, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của Chi nhánh Ngân hàng Đ và Công ty V đã hoàn tất quyết toán và thanh lý hợp đồng cùng các phụ lục liên quan.

Trong vụ việc dân sự này, bên nhận thế chấp (Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển V) không thông báo cho bên có nghĩa vụ trả nợ (Chi nhánh Ngân hàng Đ) về hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ với bên thế chấp (Công ty cổ phần thiết kế xây dựng V), dẫn đến việc bên có nghĩa vụ trả nợ không biết đến hợp đồng này và đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên thế chấp Hợp đồng quyền đòi nợ chấm dứt do bên có nghĩa vụ đã hoàn tất nghĩa vụ của mình, gây bất lợi lớn cho bên nhận thế chấp nếu bên thế chấp không trả được nợ Trong trường hợp pháp luật chưa có chế tài rõ ràng, bên thế chấp cần phải hoàn trả số tiền cho bên nhận thế chấp nếu vẫn giữ số tiền đó, hoặc sẽ phải chịu trách nhiệm thanh toán nếu đã sử dụng khoản tiền Hội đồng xét xử đã giải quyết vụ việc theo hướng này.

Hội đồng xét xử đã chỉ ra rằng Công ty cổ phần thiết kế xây dựng V đã thế chấp hợp đồng thi công xây dựng cho Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển V để vay vốn mà không thông báo cho Công ty cổ phần đầu tư xây dựng.

Dự án xây dựng trụ sở Chi nhánh Ngân hàng Đ đã hoàn thành và chính thức đi vào hoạt động Ban quản lý dự án đã hoàn tất việc thanh toán cho Công ty cổ phần thiết kế xây dựng V, đối tượng của hợp đồng mà nguyên đơn yêu cầu phát mãi hiện không còn.

Do đó yêu cầu của nguyên đơn đòi phát mãi tài sản thế chấp này là không có căn cứ được chấp nhận.

Hội đồng xét xử đã quyết định bác yêu cầu của nguyên đơn về việc phát mãi tài sản thế chấp, cụ thể là quyền đòi nợ từ khối lượng xây lắp hình thành trong tương lai của công trình Chi nhánh ngân hàng Đ Đồng thời, bị đơn phải chịu trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn toàn bộ khoản tiền gốc và lãi cho đến khi hoàn tất nghĩa vụ nợ với Ngân hàng.

Tác giả đề xuất rằng pháp luật cần điều chỉnh để đảm bảo các bên thực hiện đúng thỏa thuận và bảo vệ quyền lợi của mình Bên nhận thế chấp cần nhận thức rõ ràng về rủi ro khi cho vay bằng quyền đòi nợ, một loại tài sản còn nhiều khoảng trống pháp lý Khi khoản vay được đảm bảo bởi nghĩa vụ của bên thứ ba, bên nhận thế chấp phải nâng cao nghĩa vụ thông báo để bảo vệ quyền lợi của mình Nếu không thông báo và bên có nghĩa vụ trả nợ đã thanh toán cho bên thế chấp, nghĩa vụ của bên này sẽ chấm dứt, và bên thế chấp sẽ phải chịu trách nhiệm về khoản vay Ngược lại, nếu đã được thông báo mà bên có nghĩa vụ trả nợ vẫn thanh toán cho bên thế chấp, pháp luật nên quy định rằng bên này vẫn phải thanh toán cho bên nhận thế chấp Điều này nhằm nâng cao trách nhiệm của bên có nghĩa vụ trả nợ và hạn chế tình trạng thông đồng giữa bên thế chấp và bên có nghĩa vụ trả nợ, bảo vệ quyền lợi cho bên nhận thế chấp.

Vướng mắc trong việc xử lý quyền đòi nợ được thế chấp và giải pháp hoàn thiện pháp luật

2.4.1 Phương thức xử lý quyền đòi nợ được thế chấp

Bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu người thứ ba chuyển giao khoản tiền hoặc tài sản khác, nhưng việc nhận chính tài sản để thay thế cho nghĩa vụ của bên bảo đảm cũng là một biện pháp hiệu quả trong việc thu hồi nợ Phương thức này không chỉ bảo vệ quyền lợi cho bên nhận thế chấp mà còn giúp họ trở thành chủ sở hữu mới của quyền đòi nợ, không bị ràng buộc bởi nguyên tắc tạm hoãn xử lý tài sản bảo đảm khi bên thế chấp gặp khó khăn tài chính Do đó, bên nhận thế chấp có toàn quyền định đoạt tài sản này.

Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ, bên nhận thế chấp sẽ bị ảnh hưởng quyền lợi và có thể đối diện với nguy cơ bên có nghĩa vụ từ chối trả nợ do vi phạm hợp đồng hoặc hợp đồng bị vô hiệu Theo nguyên tắc, sau khi chuyển giao quyền yêu cầu, người chuyển giao không phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, trừ khi có thỏa thuận khác Để bảo vệ quyền lợi, hai bên có thể thỏa thuận điều khoản yêu cầu bên thế chấp vẫn phải chịu trách nhiệm nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ Hợp đồng chuyển giao quyền yêu cầu có thể được ký kết cùng lúc với hợp đồng thế chấp hoặc khi có vi phạm xảy ra, với hiệu lực phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ trả nợ Khi hợp đồng chuyển giao quyền yêu cầu có hiệu lực, bên nhận thế chấp sẽ trở thành chủ sở hữu mới của quyền đòi nợ.

2.4.2 Thời điểm thực hiện nghĩa vụ trong thế chấp quyền đòi nợ

Khi nghĩa vụ được bảo đảm và quyền đòi nợ đến hạn cùng lúc, các bên sẽ dễ dàng giải quyết vấn đề Tuy nhiên, có nhiều tình huống mà quyền đòi nợ đã đến hạn trong khi nghĩa vụ bảo đảm vẫn chưa đến hạn, hoặc ngược lại Những tình huống này tiềm ẩn nhiều rủi ro và hiện tại pháp luật chưa có quy định cụ thể nào để xử lý Điều này gây khó khăn cho các chủ thể khi phải đối mặt với những tình huống phức tạp này, vì vậy cần tìm ra biện pháp thích hợp để giải quyết.

 Quyền đòi nợ được thế chấp đến hạn trước nghĩa vụ được bảo đảm

Để xử lý tài sản thế chấp là quyền đòi nợ, cần đáp ứng ba điều kiện: (i) Đến hạn trả nợ của bên thế chấp; (ii) Bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; (iii) Đến hạn thanh toán của bên có nghĩa vụ trả nợ Nếu bên có nghĩa vụ đã đến hạn thanh toán nhưng bên thế chấp chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ, bên nhận thế chấp không thể xử lý quyền đòi nợ Điều này xảy ra khi thời hạn trả nợ của bên có nghĩa vụ đến trước thời hạn nghĩa vụ vay được bảo đảm của bên thế chấp, dẫn đến việc không xác định được khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp Do đó, bên nhận thế chấp không thể yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ thanh toán.

Việc cho phép bên thế chấp nhận khoản tiền từ người có nghĩa vụ trả nợ tiềm ẩn rủi ro lớn cho bên nhận thế chấp, vì họ có thể mất tài sản bảo đảm Nếu bên nhận thế chấp nhận thanh toán khi nghĩa vụ chưa đến hạn, có nguy cơ họ sẽ không hoàn trả khoản tiền khi bên thế chấp thực hiện đúng nghĩa vụ Thêm vào đó, trong thời gian chờ đợi nghĩa vụ đến hạn, bên nhận thế chấp có thể gặp khó khăn tài chính, khiến bên thế chấp khó đòi lại khoản tiền đã thu từ bên có nghĩa vụ trả nợ, ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.

Chúng ta có thể xem xét hai phương án cho phép bên thế chấp yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ thực hiện nghĩa vụ, với khoản tiền thu được được giữ bởi một bên thứ ba hoặc chuyển vào tài khoản phong tỏa của bên nhận thế chấp Cả hai phương án này đều đảm bảo rằng khoản tiền sẽ không được giao cho bên thế chấp hay bên nhận thế chấp, mà sẽ được giữ ở một địa điểm khác Khi nghĩa vụ đến hạn, nếu bên thế chấp thực hiện đúng nghĩa vụ, họ sẽ nhận lại khoản tiền; ngược lại, bên nhận thế chấp sẽ được quyền sử dụng số tiền để thanh toán nghĩa vụ và hoàn trả số tiền thừa cho bên thế chấp Biện pháp này hợp lý và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi cho cả ba bên, giúp bên thế chấp yên tâm rằng bên nhận thế chấp sẽ hoàn trả khoản tiền sau khi hoàn thành nghĩa vụ thanh toán Đồng thời, bên nhận thế chấp không phải lo lắng về việc kiểm soát khoản tiền và nguy cơ mất tài sản bảo đảm Bên có nghĩa vụ trả nợ cũng không phải chịu trách nhiệm nào khi đã hoàn tất nghĩa vụ của mình.

23 Đỗ Văn Đại (2017), Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb Hồng Đức, tr 145.

Biện pháp bổ sung quy định thế chấp quyền đòi nợ là cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể và ổn định mối quan hệ xã hội trong tương lai.

 Nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn trước quyền đòi nợ được thế chấp

Nếu nghĩa vụ bảo đảm đến hạn mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, bên nhận thế chấp không thể yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ thanh toán ngay lập tức, vì hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ không làm thay đổi hay chấm dứt hợp đồng ban đầu Thời hạn thanh toán giữa bên thế chấp và bên có nghĩa vụ vẫn giữ nguyên, chỉ có việc thanh toán chuyển sang cho bên nhận thế chấp Để bảo vệ quyền lợi, bên nhận thế chấp nên đợi đến khi quyền đòi nợ đến hạn để nhận thanh toán Trong thời gian này, bên nhận thế chấp có thể yêu cầu bên thế chấp thực hiện nghĩa vụ, và nếu không thực hiện, bên thế chấp sẽ phải chịu lãi chậm trả.

Khi bên thế chấp rơi vào tình trạng phá sản trong thời gian chờ đợi bên có nghĩa vụ trả nợ thanh toán, theo khoản 3 Điều 41 Luật phá sản năm 2014, cơ quan có thẩm quyền sẽ tạm đình chỉ việc xử lý tài sản bảo đảm trong vòng 05 ngày làm việc kể từ khi Tòa án tiếp nhận vụ việc Điều này có nghĩa là quyền đòi nợ của bên nhận thế chấp vẫn thuộc về khối tài sản của doanh nghiệp và sẽ chịu tác động của tình trạng phá sản Quyền lợi của bên nhận thế chấp có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng, dẫn đến khả năng không thu hồi được khoản tiền đã cho vay Thời gian chờ đợi bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cũng trùng với thời gian xử lý tài sản thế chấp, làm cho tình hình trở nên phức tạp hơn.

Khi bên thế chấp không thực hiện nghĩa vụ, thời gian xử lý tài sản thế chấp sẽ bắt đầu ngay lập tức, dẫn đến tình trạng phá sản Trong trường hợp này, quyền đòi nợ không bị tạm đình chỉ xử lý tài sản bảo đảm Tuy nhiên, do quyền đòi nợ vẫn thuộc sở hữu của bên thế chấp, nó vẫn có thể bị điều chỉnh theo Luật phá sản năm 2014.

Khoản 4 Điều 59 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định các bên có thể thỏa thuận phương thức xử lý tài sản đảm bảo khác, trong trường hợp này hai bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng, áp dụng biện pháp bên nhận thế chấp nhận chính tài sản của bên thế chấp để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp như đã đề cập ở trên, tức là lúc này bên nhận thế chấp trở thành chủ sở hữu mới của quyền đòi nợ, và trở thành bên có quyền duy nhất mà bên có nghĩa vụ trả nợ phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán Khi đã trở thành chủ sở mới của quyền đòi nợ này thì bên nhận thế chấp sẽ không phải chịu sự ràng buộc của việc tạm đình chỉ xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp đối với các chủ nợ có bảo đảm, vì lúc này quyền đòi nợ không còn là tài sản của bên thế chấp Tất nhiên, khi đã trở thành chủ sở hữu mới của quyền đòi nợ, bên nhận thế chấp vẫn không thể loại trừ trường hợp bên có nghĩa vụ trả nợ không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận thế chấp Vậy lúc này bên thế chấp có phải chịu trách nhiệm về việc này hay không? Nguyên tắc khi đã chuyển giao quyền đòi nợ thì bên thế chấp sẽ không phải chịu trách nghiệm về nghĩa vụ thanh toán của bên có nghĩa vụ trả nợ nữa, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác Như vậy, bên nhận thế chấp có thể cân nhắc, suy nghĩ đến trường hợp này để có thể bàn bạc, thống nhất ý kiến với bên thế chấp, đưa điều khoản này vào hợp đồng như một biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho bên nhận thế chấp Nếu như bên thế chấp đồng ý chịu trách nhiệm thì sau khi chuyển giao quyền đòi nợ, bên có nghĩa vụ trả nợ không thanh toán được nghĩa vụ của mình thì bên thế chấp vẫn phải có trách nhiệm thanh toán cho bên nhận thế chấp Nếu như bên thế chấp không đồng ý thì bên nhận thế chấp có thể thỏa thuận với bên có nghĩa vụ trả nợ, thỏa thuận sau khi nhận chuyển giao quyền đòi nợ từ bên thế chấp, bên có nghĩa vụ trả nợ nếu không thanh toán được khoản nợ cho bên nhận thế chấp, thì bên có nghĩa vụ trả nợ sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi chậm trả (Điều 357 BLDS năm 2015) hoặc giao một tài sản khác cho bên nhận thế chấp xử lý.

2.4.3 Thế chấp quyền đòi nợ trong mối quan hệ với phương tiện phòng vệ của bên có nghĩa vụ trả nợ

Trong thực tế, không phải lúc nào người nợ cũng thực hiện nghĩa vụ thanh toán một cách thiện chí và đúng hạn Khi được yêu cầu thanh toán, họ có thể viện dẫn các lý do như bù trừ nghĩa vụ, thay thế nghĩa vụ, hoặc thay đổi, chấm dứt giao dịch liên quan đến quyền đòi nợ thế chấp để từ chối hoặc chỉ thanh toán một phần khoản nợ Vậy những phương tiện phòng vệ này là gì và có tính đối kháng với bên nhận thế chấp hay không? Bên nhận thế chấp có thể áp dụng biện pháp nào để loại bỏ những phương tiện này? Hãy cùng tìm hiểu những vấn đề này trong bài viết dưới đây.

 Các căn cứ gắn liền với quyền đòi nợ

Quyền đòi nợ được hình thành từ các căn cứ hợp đồng giữa bên thế chấp và bên có nghĩa vụ trả nợ Hợp đồng này có thể là hợp đồng mua bán, xây dựng hoặc dịch vụ Chẳng hạn, khi bên bán cung cấp hàng hóa cho bên mua và bên mua thực hiện thanh toán, quyền đòi nợ của bên bán đối với bên mua sẽ phát sinh.

Hợp đồng giữa bên thế chấp và bên có nghĩa vụ trả nợ có thể bị tuyên bố vô hiệu theo Điều 117 và Điều 122 BLDS năm 2015 nếu không đáp ứng các điều kiện pháp lý cần thiết Hợp đồng vô hiệu không phát sinh quyền và nghĩa vụ do không tuân thủ quy định về năng lực chủ thể, như trường hợp người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự Ngoài ra, hợp đồng cũng sẽ không có giá trị nếu nội dung trái với đạo đức xã hội hoặc vi phạm pháp luật, chẳng hạn như gây thiệt hại cho tài sản người khác hoặc xâm phạm an ninh quốc gia Việc vi phạm ý chí hoặc sự tự nguyện của các bên, như bị lừa dối hay cưỡng ép, cũng có thể dẫn đến vô hiệu Hơn nữa, hình thức của hợp đồng là điều kiện quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp, và nếu đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được, hợp đồng sẽ bị vô hiệu ngay từ khi giao kết.

Hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu theo Điều 131 BLDS năm 2015 không làm phát sinh hay thay đổi quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm giao dịch được xác lập, yêu cầu các bên khôi phục tình trạng ban đầu và hoàn trả những gì đã nhận Điều này có nghĩa là hợp đồng giữa bên thế chấp và bên có nghĩa vụ trả nợ không có hiệu lực, bên mua phải trả lại bên bán những gì đã nhận, trong khi bên bán mất quyền đòi nợ Khi hợp đồng đòi nợ bị tuyên bố vô hiệu, quyền đòi nợ sẽ biến mất, dẫn đến việc bên nhận thế chấp mất tài sản bảo đảm, tức là cho vay mà không có tài sản bảo đảm, tạo ra rủi ro lớn cho bên nhận thế chấp khi không thể quản lý tài sản và đối mặt với nguy cơ bên thế chấp không trả được nợ.

Ngày đăng: 27/10/2022, 12:14

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đào Duy Anh (2000), Từ điển Hán - Việt, Nxb. Khoa học xã hội, tr.129, tr. 788 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Hán - Việt
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: Nxb. Khoa học xã hội
Năm: 2000
2. Lê Trọng Dũng (2020), “Điều kiện để quyền đòi nợ được làm tài sản thế chấp theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, số 20, tr. 33 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều kiện để quyền đòi nợ được làm tài sản thế chấp theo pháp luật Việt Nam”, "Tạp chí Kiểm sát
Tác giả: Lê Trọng Dũng
Năm: 2020
4. Đỗ Văn Đại (2017), Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức, tr. 145 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ViệtNam - Bản án và bình luận bản án
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: Nxb. Hồng Đức
Năm: 2017
5. Bùi Đức Giang (2011), “Một số hạn chế của chế định thế chấp quyền đòi nợ theo quy định hiện hành”, Tạp chí Ngân hàng, số 21, tr. 32 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số hạn chế của chế định thế chấp quyền đòi nợ theo quy định hiện hành”, "Tạp chí Ngân hàng
Tác giả: Bùi Đức Giang
Năm: 2011
6. Bùi Đức Giang (2013), “Khoảng trống pháp luật về quyền đòi nợ”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 08, tr. 35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khoảng trống pháp luật về quyền đòi nợ”,"Tạp chí nhà nước và pháp luật
Tác giả: Bùi Đức Giang
Năm: 2013
7. Bùi Đức Giang (2013), “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 05, tr. 47 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là quyềnđòi nợ”, "Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
Tác giả: Bùi Đức Giang
Năm: 2013
8. Nguyễn Hồng Năng (2016), Thị trường vốn nợ luật và hợp đồng, Nxb.Công Thương, tr. 320-321 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thị trường vốn nợ luật và hợp đồng
Tác giả: Nguyễn Hồng Năng
Nhà XB: Nxb.Công Thương
Năm: 2016
9. Lê Thị Thu Thủy (2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng, Nxb. Thành phố, tr. 122 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng
Tác giả: Lê Thị Thu Thủy
Nhà XB: Nxb. Thành phố
Năm: 2006
10. Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Thanh niên, tr. 675 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Tiếng Việt
Tác giả: Nguyễn Văn Xô
Nhà XB: Nxb. Thanh niên
Năm: 2008
11. Vũ Thị Hồng Yến (2017), Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 16 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015
Tác giả: Vũ Thị Hồng Yến
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật
Năm: 2017
12. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (1995), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 289, tr. 301 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản
Tác giả: Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp)
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia
Năm: 1995
13. Viện Ngôn ngữ (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 934.Tài liệu từ internet Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Tiếng Việt", Nxb. Đà Nẵng, tr. 934
Tác giả: Viện Ngôn ngữ
Nhà XB: Nxb. Đà Nẵng
Năm: 2000
1. UNCITRAL, “Legislative Guide on Secured Transactions”, https://uncitral.un.org/sites/uncitral.un.org/files/media-documents/uncitral/en/09-82670_ebook-guide_09-04-10english.pdf, 10/05/2021 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Legislative Guide on Secured Transactions
3. Đỗ Văn Đại (2015), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức, tr. 145 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w