Thực trạng thực hiện mục tiêu hoạt động phối hợp đào tạo giữa trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện
Trong quá trình phối hợp đào tạo, nhà trường và bệnh viện đều xác định các mục tiêu cụ thể để hướng dẫn hoạt động này Những mục tiêu này đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng triển khai hợp tác giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe tại khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện Do đó, các mục tiêu đạt được sẽ là chỉ báo tổng quát về chất lượng và hiệu quả của hoạt động phối hợp đào tạo giữa hai bên.
Mục tiêu của hoạt động phối hợp đào tạo trong ngành y tế bao gồm: nâng cao chất lượng nhân lực, cải thiện kỹ năng thực hành cho sinh viên, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho bệnh viện, và cung cấp thêm nguồn lực về cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị cho các trường đại học.
Các trường đại học đã tăng cường đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm nhằm đạt được các mục tiêu giáo dục Tác giả luận án đã tiến hành khảo sát đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên tại các trường đại học khối ngành sức khỏe, cũng như cán bộ quản lý, bác sĩ và điều dưỡng tại các bệnh viện, để đánh giá mức độ đạt được của các mục tiêu này Kết quả khảo sát được trình bày trong Bảng 1 dưới đây.
Bảng 1 trình bày kết quả khảo sát về thực trạng thực hiện mục tiêu phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe tại khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện Kết quả cho thấy mức độ hợp tác trong đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và bệnh viện còn nhiều hạn chế, cần có những biện pháp cải thiện nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu thực tế của ngành y tế.
Mục tiêu Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB
1 Nâng cao kỹ năng thực hành cho sinh viên
% 34,7 46,7 18,6 - Điểm trung bình các đối tượng 3,032
2 Nâng cao chất lượng nhân lực ngành y tế
% 18,7 48,0 20,0 13,3 Điểm trung bình các đối tượng 2,743
3 Đáp ứng nhu cầu nhân lực cho bệnh viện
% 16,0 45,3 26,7 12,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,890
4 Các trường đại học được bổ sung thêm các nguồn lực về CSVC, trang thiết bị
Mục tiêu Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB Điểm trung bình các đối tượng 2,819
5 Các trường đại học được bổ sung thêm đội ngũ GV kiêm nhiệm có kinh nghiệm
% 36,0 50,6 6,7 6,7 Điểm trung bình các đối tượng 3,090
Theo bảng 1, các mục tiêu hoạt động phối hợp đã được thực hiện ở mức độ khá, với mục tiêu có điểm trung bình cao nhất là việc bổ sung đội ngũ giáo viên kiêm nhiệm có kinh nghiệm tại các trường đại học, đạt điểm trung bình X´i = 3,090 Đánh giá từ đội ngũ quản lý nhà trường và bệnh viện cao hơn so với giảng viên và sinh viên Việc thu hút bác sĩ và cán bộ điều dưỡng tham gia giảng dạy là rất quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành chăm sóc sức khỏe Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu này gặp khó khăn do khối lượng công việc lớn và chế độ phụ cấp chưa đủ hấp dẫn.
Mục tiêu nâng cao kỹ năng thực hành cho sinh viên được đánh giá ở mức độ khá với điểm số trung bình 3,032, xếp thứ hai trong các mục tiêu đào tạo Đây là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động phối hợp giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện Tuy nhiên, sinh viên được khảo sát vẫn chưa thực sự hài lòng với kỹ năng thực hành mà họ có được, với điểm đánh giá trung bình của cán bộ quản lý nhà trường là 3,211 và của cán bộ quản lý, bác sĩ bệnh viện chưa được nêu rõ.
= 3,161, của giảng viên X ´ i = 2,923 và của sinh viên X ´ i = 2,833.
Mục tiêu đáp ứng nhu cầu nhân lực cho bệnh viện được đánh giá khá cao với điểm trung bình X´i = 2,890, xếp thứ 3 trong các mục tiêu đào tạo Các bệnh viện tại khu vực Nam Đồng Bằng Sông Hồng đã phối hợp với các trường đại học khối ngành sức khỏe để tạo điều kiện cho sinh viên thực hành, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp Bệnh viện cũng xem sinh viên là nguồn nhân lực hỗ trợ quan trọng cho bác sĩ và điều dưỡng trong bối cảnh khối lượng công việc gia tăng Tuy nhiên, mức độ đánh giá về việc đạt được mục tiêu này khác nhau giữa các đối tượng khảo sát: cán bộ quản lý nhà trường cho rằng đạt mức tốt với X´i = 3,315, trong khi giáo viên, sinh viên và bệnh viện lần lượt có điểm đánh giá trung bình là X´i = 3,020, X´i = 2,572 và X´i = 2,653, đều thuộc loại khá.
Các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đang nỗ lực phối hợp với các bệnh viện để nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên thông qua việc bổ sung nguồn lực về cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế hiện đại Mặc dù lãnh đạo các trường và giảng viên đánh giá cao mức độ đạt được mục tiêu này với điểm trung bình lần lượt là 2,894 và 2,841, nhưng sinh viên lại cho thấy sự không hài lòng hơn với điểm đánh giá chỉ đạt 2,605 Điểm trung bình chung của các đối tượng khảo sát là 2,819, cho thấy rằng mục tiêu này vẫn chưa đạt được như mong đợi.
Phó Hiệu trưởng trường ĐH X cho biết, mặc dù lãnh đạo và cán bộ quản lý đã chú trọng đến việc phối hợp giữa nhà trường và bệnh viện, nhưng kết quả đạt được vẫn chưa toàn diện và hiệu quả Việc nâng cao chất lượng nhân lực ngành y tế vẫn chưa đáp ứng được mong đợi, chủ yếu chỉ dừng lại ở việc triển khai công tác thực tập cho sinh viên Hơn nữa, việc tạo cơ hội việc làm sau tốt nghiệp cũng chưa được thực hiện hiệu quả Đây là những vấn đề cần được đội ngũ cán bộ quản lý các trường đại học quan tâm và có biện pháp khắc phục kịp thời.
Thực trạng thực hiện nội dung phối hợp đào tạo giữa trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện
Mục tiêu của hoạt động phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe và các bệnh viện khu vực Nam đồng bằng sông Hồng là rất quan trọng, đóng vai trò là điểm đến mà cả hai bên hướng tới Để đạt được mục tiêu này, các trường và bệnh viện cần thực hiện các hoạt động hợp tác cụ thể liên quan đến đào tạo sinh viên Chất lượng thực hiện các hoạt động này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đạt được mục tiêu phối hợp đào tạo Để khảo sát thực trạng của hoạt động này, tác giả đã tiến hành khảo sát các đối tượng như cán bộ quản lý, giảng viên, bác sĩ, điều dưỡng viên và sinh viên thông qua phiếu hỏi Kết quả khảo sát sẽ được trình bày qua bảng sau đây.
Bảng 2 trình bày kết quả khảo sát về thực trạng hoạt động phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe tại khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của sự hợp tác trong việc nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu nhân lực y tế tại địa phương Các kết quả cho thấy sự cần thiết phải tăng cường mối liên kết giữa các cơ sở giáo dục và y tế để cải thiện kỹ năng thực hành cho sinh viên.
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB
1 Xây dựng chương trình phối hợp đào tạo
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB bệnh viện Điểm trung bình các đối tượng 2,721
4 Phối hợp xây dựng và phát triển CTĐT
% 17,3 38,7 34,7 9,3 Điểm trung bình các đối tượng 2,547
5 Phối hợp quản lý sinh viên
% 33,3 48,0 18,7 - Điểm trung bình các đối tượng 2,968
6 Phối hợp trong hoạt động giảng dạy, hướng dẫn thực hành
% 10,7 50,7 33,3 5,3 Điểm trung bình các đối tượng 2,700
7 Phối hợp trong việc sử dụng CSVC và trang thiết bị thực hành, thực tập
% 17,4 49,3 33,3 - Điểm trung bình các đối tượng 2,763
8 Phối hợp trong việc CBQL Số lượng 4 12 16 6 2,368
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB tổ chức thực hiện đánh giá kết quả đào tạo sinh viên trường Giảng viên Số lượng 37 138 105 20 2,639
% 8,0 38,7 41,3 12,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,584
Theo bảng 2, hầu hết các hoạt động phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe tại khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện đều được đánh giá ở mức khá.
Hoạt động phối hợp đào tạo giữa trường đại học khối ngành sức khỏe và các bệnh viện bắt đầu từ việc xây dựng chương trình đào tạo tổng thể, là cơ sở cho các kế hoạch cụ thể nhằm phối hợp đào tạo sinh viên Dù đã có sự chú ý từ lãnh đạo các trường đại học khu vực Nam đồng bằng sông Hồng trong việc xây dựng chương trình này, nhưng chất lượng thực hiện vẫn chưa cao, với điểm đánh giá trung bình chỉ đạt X ´ i = 2,721 Các cán bộ quản lý nhà trường đánh giá thấp về việc thực hiện nội dung này với X ´ i = 2,474, trong khi cán bộ quản lý bệnh viện và bác sĩ cho điểm khá hơn với X ´ i = 2,561 Tuy nhiên, giáo viên và sinh viên lại có cái nhìn tích cực hơn về chương trình phối hợp đào tạo.
Trong việc xây dựng Chương trình đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện, mục tiêu đào tạo hiện đang được xác định ở mức trung bình, chủ yếu do cách tiếp cận truyền thống của nhà trường Việc xây dựng mục tiêu thường chỉ dựa vào giảng viên mà ít tham khảo ý kiến từ các chuyên gia bệnh viện, dẫn đến những bất cập trong đào tạo sinh viên Đánh giá về sự phối hợp trong xây dựng chương trình đào tạo cho thấy điểm số trung bình thấp, với X ´ i = 2,547, trong đó giảng viên có ý kiến tiêu cực hơn với điểm X ´ i = 2,283 Theo ý kiến của Phó Hiệu trưởng trường Đại học B, việc phối hợp giữa nhà trường và bệnh viện trong xây dựng chương trình đào tạo còn yếu kém, ảnh hưởng đến tính thực tiễn của nội dung chương trình Do đó, cần có giải pháp khắc phục để nâng cao hiệu quả phối hợp trong đào tạo.
Phối hợp quản lý sinh viên là một nội dung thiết yếu trong thỏa thuận đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện tại khu vực Nam đồng bằng sông Hồng Sinh viên được cử đến bệnh viện để thực hành và thực tập theo chương trình đã thống nhất giữa hai bên Quản lý sinh viên là trách nhiệm chung của cả nhà trường và bệnh viện, dựa trên nguyên tắc phối hợp Kết quả khảo sát cho thấy nội dung này đạt điểm đánh giá trung bình cao nhất là 2,968, tuy vẫn ở mức khá, cho thấy sự quan tâm của cả hai bên đối với hoạt động quản lý sinh viên trong thời gian thực hành và thực tập.
Một trong những mục tiêu quan trọng của sự phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và bệnh viện là thu hút bác sĩ, điều dưỡng viên có trình độ cao tham gia vào quá trình giảng dạy và hướng dẫn thực hành cho sinh viên Mặc dù đã có chính sách huy động sự tham gia của đội ngũ chuyên môn giỏi từ các bệnh viện, hoạt động này vẫn chưa diễn ra một cách thường xuyên và nhất quán Theo khảo sát, mức độ phối hợp trong giảng dạy và hướng dẫn thực hành chỉ đạt điểm trung bình 2,700, cho thấy kết quả chưa đạt kỳ vọng mặc dù tiềm lực chuyên gia và cơ hội hợp tác trong khu vực là khá tốt.
Việc phối hợp trong sử dụng trang thiết bị thực hành, thực tập được đánh giá với điểm trung bình X ´ i = 2,763, cho thấy mức độ khá trong công tác này Hiện nay, sự phối hợp giữa nhà trường và bệnh viện chủ yếu tập trung vào thực tập, với mục tiêu giúp sinh viên tiếp cận thực tiễn qua việc sử dụng trang thiết bị của bệnh viện Tuy nhiên, do các thiết bị khám chữa bệnh hiện đại thường được sử dụng nhiều cho bác sĩ và có giá trị cao, bệnh viện thường hạn chế việc sử dụng chúng cho sinh viên Điều này khiến cho việc phối hợp trong sử dụng trang thiết bị thực hành được đánh giá là hợp lý trong bối cảnh thực tế Dù vậy, sự quan tâm của cán bộ quản lý bệnh viện đối với việc bố trí các thiết bị chuyên dụng cho sinh viên thực hành là một tín hiệu tích cực.
Phối hợp trong việc tổ chức đánh giá kết quả đào tạo sinh viên là một yếu tố quan trọng đối với các nhà trường, giúp xác định chất lượng đào tạo có đáp ứng yêu cầu thực tiễn hay không Hoạt động này bao gồm đánh giá trong quá trình đào tạo, đặc biệt là khâu thực hành tại bệnh viện và đánh giá sau tốt nghiệp Tuy nhiên, thực tế cho thấy các trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện khu vực Nam đồng bằng sông Hồng chưa chú trọng đến hoạt động phối hợp này Kết quả khảo sát cho thấy điểm đánh giá trung bình của bốn đối tượng là 2,584, chỉ đạt mức khá, cho thấy sự phối hợp trong đánh giá kết quả đào tạo sinh viên còn hạn chế, đặc biệt là trong đánh giá sau tốt nghiệp.
Thực trạng thực hiện hình thức phối hợp đào tạo giữa trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện
Nghiên cứu thực tế về phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện cho thấy, các trường đã áp dụng ba mô hình phối hợp: luân phiên, song hành và tuần tự, với mức độ và hiệu quả khác nhau Trước đây, mô hình tuần tự và luân phiên là chủ yếu, nhưng gần đây, mô hình đào tạo song song đã được triển khai Để khảo sát thực trạng phối hợp đào tạo, tác giả đã sử dụng phiếu hỏi và kết quả được thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 3 trình bày kết quả khảo sát về thực trạng thực hiện các hình thức phối hợp đào tạo giữa các trường đại học trong khối ngành sức khỏe tại khu vực Nam Đồng Bằng Sông Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả và mức độ hợp tác trong đào tạo, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục trong lĩnh vực sức khỏe.
Hồng và các bệnh viện
Hình thức phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB
1 Phối hợp đào tạo luân phiên
% 20,0 48,0 28,0 4,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,671
2 Phối hợp đào tạo song hành
% 17,3 32,0 40,0 10,7 Điểm trung bình các đối tượng 2,472
3 Phối hợp đào tạo tuần tự
% 16,0 49,3 26,7 8,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,865
Các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đã triển khai nhiều hình thức phối hợp đào tạo với các bệnh viện, bao gồm đào tạo luân phiên, song hành và tuần tự Mặc dù vậy, mức độ thực hiện của từng hình thức phối hợp này lại có sự khác biệt rõ rệt.
Hình thức phối hợp đào tạo có điểm đánh giá trung bình thấp nhất là
Đào tạo song hành tại trường đạt điểm đánh giá trung bình là 2,472, cho thấy hiệu quả chưa đạt như mong đợi Bốn đối tượng đánh giá không có sự khác biệt lớn, phản ánh thực tế rằng hình thức này cần cải thiện Thầy T.X.N, phó Hiệu trưởng phụ trách đào tạo, cho biết trường đã hợp tác với các bệnh viện bên ngoài để nâng cao thực hành cho sinh viên Tuy nhiên, việc triển khai gặp nhiều thách thức do thiếu hụt nhân lực bác sĩ và điều dưỡng viên, cùng với việc sắp xếp thời gian thực hành cho sinh viên.
Hình thức phối hợp đào tạo tuần tự được đánh giá cao hơn so với hai hình thức còn lại tại khu vực Nam đồng bằng sông Hồng, với điểm đánh giá trung bình đạt 2,865, cho thấy hiệu quả khá trong thực hiện Điểm đánh giá của bốn đối tượng khảo sát không có sự chênh lệch lớn Sự thành công của hình thức này xuất phát từ việc tách biệt giữa lý thuyết và thực hành, cho phép nhà trường, sinh viên và bệnh viện có thời gian chuẩn bị đầy đủ, giảm áp lực và tập trung vào hoạt động phối hợp.
Các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đã triển khai mô hình đào tạo luân phiên, trong đó sinh viên học lý thuyết tại trường và thực hành tại bệnh viện Mặc dù hình thức này ngày càng phổ biến, nhưng kết quả thực hiện vẫn chưa đạt yêu cầu, với điểm đánh giá trung bình chỉ đạt 2,671, cho thấy mức độ hài lòng khá nhưng thấp hơn so với hình thức đào tạo tuần tự, và cao hơn so với hình thức đào tạo song hành.
Nghiên cứu thực tế chỉ ra rằng không có hình thức phối hợp đào tạo nào vượt trội hoàn toàn, mỗi hình thức đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, phụ thuộc vào đặc điểm của từng ngành và từng khoa, bệnh viện Vì vậy, lãnh đạo nhà trường và cán bộ quản lý các khoa cần xem xét tính chất ngành đào tạo cũng như năng lực của mình để lựa chọn và áp dụng hình thức phối hợp đào tạo phù hợp và hiệu quả nhất.
Thực trạng các điều kiện phối hợp đào tạo giữa trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện
Nghiên cứu cho thấy sự phối hợp giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện đã được lãnh đạo quan tâm Các yếu tố quan trọng bao gồm sự chú trọng của lãnh đạo trường và bệnh viện, các văn bản pháp lý về đào tạo, đội ngũ giảng viên và bác sĩ tham gia, cơ sở vật chất, trang thiết bị, và nguồn tài chính cho phối hợp đào tạo Để đánh giá thực trạng, tác giả đã thu thập ý kiến từ cán bộ quản lý, giảng viên, bác sĩ và sinh viên, với kết quả khảo sát được trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 4: Kết quả khảo sát thực trạng điều kiện phối hợp đào tạo giữa trường Đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng
Sông Hồng và các bệnh viện Điều kiện Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB
1 Sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường
% 18,6 38,7 26,7 16,0 Điểm trung bình các đối tượng 3,054
2 Sự quan tâm của lãnh đạo bệnh viện
% 33,3 56,0 10,7 - Điểm trung bình các đối tượng 3,141
3 Các văn bản pháp lý về phối hợp đào tạo giữa trường và bệnh viện
% 28,0 50,7 13,3 8,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,765
4 Đội ngũ giảng viên, bác sĩ tham gia phối hợp đào tạo
% 32,0 46,7 21,3 - Điều kiện Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB Điểm trung bình các đối tượng 3,210
5 Cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng cho phối hợp đào tạo
% 17,3 68,0 14,7 - Điểm trung bình các đối tượng 2,853
6 Tài chính dành cho phối hợp đào tạo
% 13,3 32,0 46,7 8,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,560
Theo bảng 4, mức độ thực hiện các điều kiện phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe tại khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện đạt từ loại khá trở lên Tuy nhiên, mức độ thực hiện của từng loại điều kiện lại có sự khác biệt.
Đội ngũ giảng viên và bác sĩ tham gia đào tạo được đánh giá cao bởi sinh viên, với điểm trung bình X ´ i = 3,210, gần mức tốt Qua khảo sát tại các trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện khu vực Nam đồng bằng sông Hồng, cho thấy sự phối hợp giữa các nhà trường và bệnh viện trong việc trao đổi giảng viên, với bác sĩ và điều dưỡng giỏi được cử sang giảng dạy Điều này giúp sinh viên tiếp cận với những giảng viên có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm thực tiễn tốt, dẫn đến điểm đánh giá trung bình của sinh viên về điều kiện này đạt mức cao nhất là X ´ i = 3,424, cho thấy sự hài lòng và chất lượng đào tạo tốt.
Sự thành công của hoạt động phối hợp đào tạo giữa nhà trường và bệnh viện phụ thuộc lớn vào sự quan tâm của lãnh đạo hai bên Nếu không có sự chỉ đạo và giám sát chặt chẽ, hoạt động này có thể trở nên hình thức và kém hiệu quả Theo khảo sát, lãnh đạo các trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đã thể hiện sự quan tâm đáng kể, với điểm đánh giá trung bình lần lượt là 3,054 và 3,141 Đặc biệt, CBQL và giảng viên nhà trường đánh giá cao sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường với điểm 3,316 và 3,300, cho thấy mức độ hài lòng tốt Ngược lại, CBQL và bác sĩ bệnh viện chỉ đánh giá sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường ở mức trung bình khá (2,599) Đối với sự quan tâm của lãnh đạo bệnh viện, các đối tượng khảo sát đều có ý kiến đồng thuận, với điểm đánh giá trung bình dao động từ 2,992 đến 3,237, cho thấy mức độ hài lòng khá tốt.
Cơ sở vật chất và trang thiết bị là yếu tố quan trọng cho hoạt động phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện Khảo sát cho thấy, hiện nay, điều kiện này chưa đáp ứng yêu cầu, với điểm đánh giá trung bình là 2,853, đạt mức khá Mặc dù trường và bệnh viện đã đầu tư lớn vào trang thiết bị, việc mua sắm đồng bộ còn gặp khó khăn do nguồn kinh phí hạn chế Để triển khai hiệu quả hoạt động phối hợp, cần có cơ sở pháp lý rõ ràng; tuy nhiên, nhiều văn bản pháp lý hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu, với điểm đánh giá trung bình 2,765, cũng đạt mức khá Hiệu trưởng trường đại học X cho biết, mặc dù đã có văn bản hợp tác, nhưng quy chế và quy định chi tiết cho việc phối hợp đào tạo vẫn chưa được xây dựng, dẫn đến hiệu quả công tác chưa cao Do đó, cần có biện pháp khắc phục để nâng cao điều kiện phối hợp giữa nhà trường và bệnh viện, góp phần cải thiện chất lượng đào tạo.
Khi tổ chức hoạt động phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện, cần lưu ý đến cơ chế thị trường hiện nay, yêu cầu mọi hoạt động phải dựa trên quan điểm chi phí-lợi ích Để đảm bảo sự thành công của hoạt động phối hợp, việc cung cấp đầy đủ kinh phí là rất quan trọng Tuy nhiên, khảo sát cho thấy điều kiện tài chính dành cho phối hợp đào tạo ở các trường đại học khu vực Nam đồng bằng sông Hồng được đánh giá thấp, với điểm trung bình X ´ i = 2,560 Đặc biệt, giảng viên và bác sĩ chỉ đánh giá điều kiện tài chính ở mức trung bình, với X ´ i = 2,446 cho giảng viên và X ´ i = 2,506 cho bác sĩ Những đánh giá này dựa trên mức chi thực tế của nhà trường cho hoạt động phối hợp đào tạo, đặc biệt là chi bồi dưỡng cho giảng viên và bác sĩ tham gia giảng dạy.
Thực trạng về quản lý hoạt động phối hợp đào tạo giữa trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện
Thực trạng quản lý hoạt động xây dựng chương trình phối hợp đào tạo
Chương trình phối hợp đào tạo giữa trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện là một kế hoạch tổng thể, xác định đường hướng và nhiệm vụ để tổ chức các hoạt động đào tạo sinh viên Một số trường có thể gọi chương trình này là Chương trình đào tạo thực hành, bao gồm các phần thực hành trong chương trình đào tạo tổng thể cho từng ngành hoặc chuyên ngành Chương trình đào tạo thực hành được thiết kế để đạt được mục tiêu, nội dung, tiến trình, phương pháp dạy - học, hình thức kiểm tra và đánh giá năng lực của sinh viên Do vai trò quan trọng của chương trình phối hợp đào tạo, lãnh đạo các trường đại học và bệnh viện đã chú trọng đến việc xây dựng và triển khai chương trình này.
Bảng 5: Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý hoạt động phối hợp xây dựng chương trình phối hợp đào tạo
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính Mức độ thực hiện Điểm
Tốt Khá TB Yếu TB
1.Tổ chức cuộc họp lãnh đạo hai cơ quan thống nhất vấn đề phối
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính Mức độ thực hiện Điểm
Tốt Khá TB Yếu TB hợp đào tạo bệnh viện % 32,0 46,7 21,3 - Điểm trung bình các đối tượng 2,919
2 Thông qua bản ghi nhớ về hoạt động phối hợp đào tạo giữa hai cơ quan
% 24,0 52,0 13,3 10,7 Điểm trung bình các đối tượng 3,018
3 Phân công soạn thảo chương trình phối hợp đào tạo
% 10,7 48,0 33,3 8,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,644
4 Xây dựng cơ chế phối hợp đào tạo giữa hai cơ quan
% 13,3 50,7 29,3 6,7 Điểm trung bình các đối tượng 2,588
5 Kiểm tra và đánh giá việc soạn thảo Chương trình phối hợp đào tạo giữa hai cơ quan
% 21,3 40,0 28,0 10,7 Điểm trung bình các đối tượng 2,722
Chương trình phối hợp đào tạo
% 25,3 60,0 14,7 - Điểm trung bình các đối tượng 3,213
7 Ký hợp đồng nguyên tắc về
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính Mức độ thực hiện Điểm
Tốt Khá TB Yếu TB phối hợp đào tạo
% 13,3 49,3 30,7 6,7 Điểm trung bình các đối tượng 2,903
8 Ký hợp đồng chi tiết về phối hợp đào tạo
% 16,0 50,7 26,7 6,6 Điểm trung bình các đối tượng 2,839
Nghiên cứu thực tế tại các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng cho thấy các trường đều xây dựng chương trình phối hợp đào tạo với bệnh viện theo năm học trong kế hoạch tổng thể Chương trình này nhấn mạnh mục tiêu phối hợp và huy động sự tham gia của các lực lượng trong nhà trường, đồng thời lựa chọn các hoạt động phù hợp với mục tiêu đào tạo Tuy nhiên, mức độ thực hiện các khâu trong quản lý xây dựng chương trình phối hợp giữa trường đại học và bệnh viện lại khác nhau.
Theo bảng 5, các khâu trong quá trình quản lý xây dựng chương trình phối hợp đào tạo đều được đánh giá ở mức độ khá Tuy nhiên, điểm đánh giá trung bình của từng khâu quản lý lại có sự khác biệt giữa các đối tượng.
Quản lý tổ chức cuộc họp giữa lãnh đạo hai cơ quan là bước khởi đầu quan trọng cho việc phối hợp đào tạo Tuy nhiên, trong một số trường hợp, lãnh đạo nhà trường và bệnh viện đã ủy quyền cho các trưởng khoa thực hiện nhiệm vụ này Kết quả khảo sát cho thấy mức độ đánh giá về tổ chức cuộc họp chỉ đạt mức khá, với điểm trung bình là X ´ i = 2,919.
Khâu quản lý thứ hai được đánh giá cao thông qua bản ghi nhớ về hoạt động phối hợp đào tạo giữa hai cơ quan, với điểm trung bình đạt 3,018, cho thấy mức thực hiện khá Bản ghi nhớ này là văn bản thỏa thuận ban đầu, tạo nền tảng cho việc xây dựng kế hoạch tổng thể và các kế hoạch chi tiết về hoạt động phối hợp đào tạo giữa nhà trường và bệnh viện Nghiên cứu tại các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng cho thấy, sau cuộc họp giữa lãnh đạo nhà trường và bệnh viện, bản ghi nhớ về các thỏa thuận đã được soạn thảo, mặc dù nội dung còn mang tính tổng quát và chưa cụ thể.
Bước tiếp theo trong việc xây dựng chương trình phối hợp đào tạo là soạn thảo kế hoạch đào tạo thực hành hằng năm, xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân và đơn vị trong trường và bệnh viện Mặc dù đã có sự phối hợp giữa trường và bệnh viện trong việc xây dựng kế hoạch, nhưng hiệu quả chưa cao do nhiều trường còn sao chép kế hoạch cũ mà không điều chỉnh cho phù hợp với thực tế Việc phân bổ nguồn lực và xác định biện pháp thực hiện chưa được đầu tư đúng mức, dẫn đến việc thực hiện không bám sát vào thời gian và nguồn nhân lực Bệnh viện tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch nhưng chưa có kế hoạch riêng về phối hợp đào tạo, khiến họ không thể đóng góp ý kiến cụ thể Kết quả đánh giá mức độ thực hiện khâu phân công soạn thảo chương trình phối hợp đào tạo chỉ đạt trung bình khá với điểm 2,644, cho thấy cần có biện pháp khắc phục từ lãnh đạo các trường đại học trong khu vực.
Việc xây dựng cơ chế phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện là rất cần thiết, nhưng thực tế tại khu vực Nam đồng bằng sông Hồng cho thấy vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập Kết quả khảo sát cho thấy mức độ thực hiện chỉ đạt trung bình khá với X ´ i = 2,588 Ông H.T.S, Giám đốc bệnh viện P, cho biết rằng việc xây dựng cơ chế phối hợp hiện chưa được thực hiện hiệu quả Điều này cho thấy cần thiết phải thống nhất các nội dung và lợi ích giữa nhà trường, bệnh viện và sinh viên để nâng cao hiệu quả phối hợp đào tạo.
Theo bảng 5, việc kiểm tra và đánh giá soạn thảo Chương trình phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe tại khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và các bệnh viện đạt mức khá với điểm trung bình X ´ i = 2,722 Đáng lưu ý, cả ba nhóm đối tượng được khảo sát đều có điểm đánh giá trung bình tương đương nhau.
Nghiên cứu về quản lý hoạt động phối hợp đào tạo giữa nhà trường và bệnh viện cho thấy, hiệu trưởng các trường đã thành lập ban kiểm tra để soạn thảo và thực hiện kế hoạch phối hợp đào tạo, tuy nhiên việc điều chỉnh và thực hiện sau kiểm tra chưa được chú trọng Đặc biệt, hầu hết các trường chưa xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá cho hoạt động này, cho thấy sự thiếu quan tâm từ lãnh đạo Theo phó hiệu trưởng trường đại học X, nhà trường luôn chú trọng đến hoạt động kiểm tra, đánh giá, bao gồm cả việc soạn thảo và thực hiện kế hoạch phối hợp với bệnh viện Mặc dù có ban kiểm tra với nhiệm vụ rõ ràng và quy trình thiết lập, việc xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá vẫn chưa được thực hiện bài bản, dẫn đến thiếu tiêu chí cụ thể để đánh giá thực tiễn, từ đó không có thông tin phản hồi giúp lãnh đạo điều chỉnh và cải tiến quản lý.
Theo Nghị định số 111/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 10 năm
Năm 2017, quy định về tổ chức đào tạo thực hành trong lĩnh vực sức khỏe yêu cầu các trường và bệnh viện ký hợp đồng phối hợp đào tạo Hợp đồng này bao gồm hợp đồng nguyên tắc và hợp đồng chi tiết, được ký kết theo thỏa thuận giữa hai bên nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo thực hành Trường và bệnh viện cần ký hợp đồng nguyên tắc ít nhất 06 tháng trước khi bắt đầu khóa đào tạo, trong khi hợp đồng chi tiết sẽ được ký theo từng năm học và chương trình đào tạo cụ thể Thực tế cho thấy, các trường đại học khối ngành sức khỏe tại khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đã chú trọng đến việc ký kết các hợp đồng này, với điểm đánh giá trung bình cho hợp đồng nguyên tắc là 2,903 và cho hợp đồng chi tiết là 2,839, đều đạt loại khá.
Thực trạng quản lý hoạt động phối hợp xây dựng và phát triển chương trình đào tạo
Phối hợp giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe ở Nam đồng bằng sông Hồng và bệnh viện là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng và phát triển chương trình đào tạo Sự hợp tác này giúp thực hiện nguyên tắc học đi đôi với hành, đảm bảo lý luận gắn liền với thực tiễn, đồng thời giúp các trường đại học tránh tình trạng đào tạo theo nhu cầu nội bộ mà không chú ý đến yêu cầu của xã hội Để khảo sát thực trạng phối hợp giữa các trường và bệnh viện trong việc phát triển chương trình đào tạo, tác giả đã tiến hành thu thập dữ liệu, kết quả được trình bày trong Bảng 6.
Bảng 6: Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý hoạt động phối hợp xây dựng và phát triển chương trình đào tạo
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB
1 Thành lập tổ công tác hỗn hợp về phối hợp xây dựng và phát triển chương trình đào tạo
% 9,3 28,0 50,7 12,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,363
2 Lập kế hoạch phối hơp xây dựng và phát
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB triển chương trình đào tạo
% 17,3 22,7 46,7 13,3 Điểm trung bình các đối tượng 2,644
3 Phân công nhiệm vụ cho các bộ phận trong xây dựng và phát triển chương trình đào tạo
% 13,3 49,3 26,7 10,7 Điểm trung bình các đối tượng 2,625
4 Phối hợp huy động nguồn lực phục vụ xây dựng và phát triển chương trình đào tạo
% 9,3 32,0 44,0 14,7 Điểm trung bình các đối tượng 2,708
5 Chỉ đạo các khoa tổ chức hội thảo hỗn hợp góp ý cho dự thảo
% 18,7 46,7 34,6 - Điểm trung bình các đối tượng 2,834
6 Triển khai kiểm tra, đánh giá Chương trình đào tạo đã được xây dựng
% 20,0 44,0 28,0 8,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,841
Việc mời bệnh viện tham gia vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo và biên soạn giáo trình là rất cần thiết cho các trường đại học khối ngành sức khỏe Tuy nhiên, lãnh đạo nhiều trường vẫn chưa chú trọng đến việc tổ chức bộ phận hỗn hợp giữa nhà trường và bệnh viện, dẫn đến việc triển khai hoạt động này thường mang tính đơn phương Kết quả khảo sát cho thấy, hoạt động thành lập tổ công tác hỗn hợp chỉ đạt mức độ thực hiện trung bình với điểm đánh giá 2,363, trong khi việc lập kế hoạch phối hợp cũng chỉ đạt điểm 2,644 Sự thiếu tham gia của cán bộ quản lý bệnh viện và bác sĩ trong việc xây dựng kế hoạch phát triển chương trình đào tạo đã khiến đánh giá về mức độ thực hiện chỉ đạt 2,440.
Trong quản lý phát triển chương trình đào tạo, việc huy động sự tham gia của các đơn vị trong nhà trường là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả trong việc xây dựng chương trình Lãnh đạo các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đã chỉ đạo các khoa chuyên ngành phối hợp với phòng đào tạo để xây dựng chương trình đào tạo Các khoa cũng cần chủ động mời các bộ phận liên quan từ bệnh viện tham gia vào quá trình soạn thảo chương trình chuyên ngành Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho các bộ phận trong xây dựng và phát triển chương trình đào tạo sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong khu vực này.
Hồng được đánh giá chưa đạt yêu cầu, chỉ có mức thực hiện trung bình khá với chỉ số X´i = 2,625 Sự bất cập này là trách nhiệm của các lãnh đạo trường đại học trong lĩnh vực sức khỏe.
Việc phối hợp huy động nguồn lực trong xây dựng và phát triển chương trình đào tạo chỉ đạt mức độ khá với điểm trung bình X ´ i = 2,708 Đặc biệt, điểm đánh giá giữa các đối tượng khảo sát có sự chênh lệch rõ rệt: CBQL nhà trường đánh giá cao nhất với X ´ i = 3,052, trong khi CBQL bệnh viện và bác sĩ chỉ đạt X ´ i = 2,359 Nguyên nhân của sự đánh giá thấp từ phía bệnh viện là do các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng thường tự xây dựng chương trình mà ít mời chuyên gia bệnh viện tham gia Tuy nhiên, các trường đã chú trọng mời chuyên gia tham gia hội thảo góp ý cho chương trình đã xây dựng, dẫn đến hoạt động tổ chức hội thảo hỗn hợp được đánh giá cao với điểm X ´ i = 2,834.
Hoạt động triển khai kiểm tra và đánh giá chương trình đào tạo đã đạt điểm trung bình 2,841, cho thấy sự thực hiện tốt từ các đối tượng đánh giá Đây là một bước quản lý bắt buộc trong quy trình xây dựng và phát triển chương trình đào tạo mà tất cả các trường đại học phải tuân thủ Tuy nhiên, điểm đánh giá chỉ ở mức khá do các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng ít phối hợp với bệnh viện trong quá trình triển khai Lãnh đạo các trường cần rút kinh nghiệm từ thực trạng này để cải thiện hoạt động đánh giá trong tương lai.
Thực trạng quản lý phối hợp trong hoạt động giảng dạy và hướng dẫn
Trong việc phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện, giảng dạy và hướng dẫn thực hành cho sinh viên là hoạt động chủ yếu nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp Hoạt động này giúp sinh viên làm quen với thực tiễn khám chữa bệnh tại bệnh viện và được thực hiện theo chương trình đào tạo đã ký kết Tác giả luận án đã tiến hành khảo sát tại các trường đại học và bệnh viện khu vực Nam đồng bằng sông Hồng để đánh giá thực trạng phối hợp trong giảng dạy và hướng dẫn sinh viên thực hành, thực tập Kết quả khảo sát được trình bày trong Bảng 7.
Bảng 7: Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý phối hợp trong hoạt động giảng dạy và hướng dẫn sinh viên
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB
1 Lập kế hoạch nguyên tắc về phối hợp giảng dạy và hướng dẫn sinh viên
% 8,0 40,0 42,7 9,3 Điểm trung bình các đối tượng 2,457
2 Lập kế hoạch chi tiết về chuyên gia bệnh viện tham gia giảng dạy
% 16,0 52,0 22,7 9,3 Điểm trung bình các đối tượng 2,854
3 Lập kế hoạch chi tiết về hướng dẫn thực hành cho sinh viên tại bệnh viện
% 13,3 48,0 30,7 8,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,655
4 Tuyển chọn giảng viên và bác sĩ theo đúng quy định tham gia giảng dạy và hướng dẫn sinh viên
% 18,7 53,3 16,0 12,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,910
5 Bố trí kinh phí cho hoạt động giảng dạy và hướng dẫn thực hành
% 6,7 41,3 48,0 4,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,689
6 Chi đạo tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB phạm cho các bác sĩ, điều dưỡng tham gia giảng dạy và hướng dẫn
% 4,0 18,7 50,7 26,6 Điểm trung bình các đối tượng 2,163
7 Chỉ đạo xem xét khen thưởng các bác sĩ, điều dưỡng và xác nhận quá trình tham gia giảng dạy và hướng dẫn sinh viên
% 9,3 44,0 41,4 5,3 Điểm trung bình các đối tượng 2,467
8 Tổ chức quản lý sinh viên trong thời gian thực hành, thực tập tại bệnh viện
% 18,7 48,0 20,0 13,3 Điểm trung bình các đối tượng 2,996
9 Kiểm tra, giám sát hoạt động giảng dạy và hướng dẫn sinh viên
% 17,3 48,0 21,3 13,4 Điểm trung bình các đối tượng 2,850
Kết quả khảo sát tại Bảng 7 cho thấy hoạt động phối hợp giữa nhà trường và bệnh viện trong việc giảng dạy và hướng dẫn sinh viên thực hành tại bệnh viện chưa đạt yêu cầu mong đợi Trong số 8 hoạt động phối hợp được khảo sát, có 3 hoạt động chỉ đạt mức độ thực hiện trung bình và 5 hoạt động còn lại chỉ đạt mức độ khá.
Kế hoạch nguyên tắc phối hợp giảng dạy và hướng dẫn sinh viên thực hành là điều kiện tiên quyết để triển khai hoạt động tại bệnh viện Tuy nhiên, lãnh đạo các trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện khu vực Nam đồng bằng sông Hồng vẫn chưa chú trọng đến việc xây dựng kế hoạch này Kết quả khảo sát cho thấy hoạt động lập kế hoạch chỉ đạt điểm đánh giá trung bình 2,457, cho thấy mức độ thực hiện ở mức trung bình Đáng chú ý, cả ba đối tượng khảo sát đều đồng nhất đánh giá mức độ thực hiện hoạt động này chỉ ở mức trung bình.
Trong quá trình hợp tác giữa các trường đại học và bệnh viện, các bác sĩ và điều dưỡng viên có trình độ cao được mời làm giảng viên kiêm nhiệm Để đảm bảo hoạt động này diễn ra suôn sẻ, các trường cần lập kế hoạch chi tiết cho sự tham gia của các chuyên gia bệnh viện Kết quả khảo sát cho thấy nội dung quản lý lập kế hoạch chi tiết đạt điểm đánh giá trung bình X ´ i = 2,854, cho thấy mức độ thực hiện ở loại khá.
Để nâng cao chất lượng giảng dạy tại trường, bên cạnh việc lập kế hoạch chi tiết cho các chuyên gia bệnh viện tham gia, cần xây dựng kế hoạch hướng dẫn thực hành cho sinh viên tại bệnh viện Kế hoạch này sẽ xác định rõ nhiệm vụ, nội dung và lịch trình thực hành cho giảng viên hướng dẫn cũng như sinh viên Tuy nhiên, hiện tại, việc thực hiện kế hoạch này chỉ đạt mức đánh giá trung bình khá với điểm số X ´ i = 2,655.
Trong thời gian gần đây, các trường đại học khối ngành sức khỏe tại khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đã nỗ lực tuyển chọn giảng viên và bác sĩ theo quy định của Nghị định số 111/2017/NĐ-CP Tuy nhiên, việc đánh giá chất lượng tuyển chọn này chỉ đạt điểm trung bình X´i = 2,910, tương đương loại khá Nguyên nhân chủ yếu là do đội ngũ bác sĩ và điều dưỡng viên tại các bệnh viện chưa được đào tạo sư phạm, dẫn đến phương pháp giảng dạy và hướng dẫn còn hạn chế, cùng với số lượng bác sĩ, điều dưỡng viên giỏi không nhiều.
Để hoạt động phối hợp giảng dạy và hướng dẫn thực hành cho sinh viên giữa nhà trường và bệnh viện diễn ra hiệu quả, vấn đề tài chính đóng vai trò quan trọng Các trường đại học khối ngành sức khỏe ở khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đã thực hiện việc bố trí kinh phí cho hoạt động này, với chi phí giảng dạy và hướng dẫn thực hành được tính trong giá dịch vụ đào tạo (học phí) Mức chi phí được xác định dựa trên tỷ lệ thời gian thực hành trong chương trình đào tạo Các trường và bệnh viện đã thống nhất mức chi phí đào tạo thực hành và quy định cụ thể trong hợp đồng Kết quả khảo sát cho thấy việc bố trí kinh phí cho hoạt động này đạt mức khá với điểm số X ´ i = 2,689.
Đội ngũ bác sỹ và điều dưỡng viên tham gia giảng dạy cho sinh viên chưa được đào tạo về phương pháp giảng dạy, điều này vi phạm quy định của Nghị định số 111/2017/NĐ-CP về tổ chức đào tạo thực hành trong khối ngành sức khỏe Theo quy định, giảng viên thực hành cần có ít nhất 12 tháng kinh nghiệm và được bồi dưỡng phương pháp dạy - học lâm sàng Do đó, các trường đại học khu vực Nam đồng bằng sông Hồng cần tổ chức các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên tại các trường này chưa được chú trọng, với mức đánh giá thực hiện chỉ đạt trung bình (X̄i = 2,163).
Trong quản lý hoạt động giảng dạy và hướng dẫn sinh viên, việc tạo động lực cho bác sĩ và điều dưỡng viên tham gia giảng dạy là rất quan trọng để nâng cao hiệu quả đào tạo Hai chính sách cần chú ý là khen thưởng cho những người tích cực giảng dạy và xác nhận quá trình tham gia giảng dạy để làm minh chứng cho các danh hiệu sau này Tuy nhiên, khảo sát cho thấy lãnh đạo các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng chưa quan tâm đúng mức đến việc thực hiện các chính sách này, dẫn đến hoạt động khen thưởng và xác nhận chỉ đạt điểm đánh giá trung bình.
Trong quản lý giảng dạy, việc phối hợp tổ chức quản lý sinh viên trong thời gian thực hành tại bệnh viện là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thực hành và hiệu quả hợp tác giữa nhà trường và bệnh viện Các trường đại học khối ngành sức khỏe tại Nam đồng bằng sông Hồng đã thiết lập quy định thỏa thuận với bệnh viện để quản lý sinh viên, bao gồm kế hoạch thực hành rõ ràng với số lượng sinh viên, danh sách bác sĩ và điều dưỡng viên hướng dẫn Trước khi thực hành, nhà trường phổ biến quy định làm việc tại bệnh viện và yêu cầu sinh viên tuân thủ Bệnh viện cũng phân công bác sĩ và điều dưỡng viên để hướng dẫn sinh viên, đồng thời giám sát sự chuyên cần của họ trong thời gian thực tập Đánh giá cho thấy các nội dung phối hợp quản lý đạt mức khá, trong đó nhà trường đánh giá công tác quản lý tại bệnh viện đạt mức tốt.
Kiểm tra và giám sát hoạt động giảng dạy cũng như hướng dẫn sinh viên trong quá trình phối hợp đào tạo giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và bệnh viện được đánh giá đạt loại khá với điểm trung bình 2,850 Đây là yêu cầu bắt buộc để nâng cao chất lượng đào tạo Tuy nhiên, hình thức, phương pháp và tần suất kiểm tra giám sát hiện tại chưa thực sự chặt chẽ và hợp lý, dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao Việc triển khai chưa đồng bộ đã ảnh hưởng lớn đến kết quả của công tác này.
Thực trạng quản lý phối hợp sử dụng cơ sở vật chất và trang thiết bị đào tạo
Phối hợp sử dụng cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe và bệnh viện là một hoạt động ưu tiên, mang lại lợi ích cho cả hai bên Tuy nhiên, trường đại học là bên hưởng lợi trước hết, khi sinh viên có cơ hội học tập và thực hành trên các máy móc, thiết bị y tế hiện đại Hoạt động này giúp sinh viên nhanh chóng tiếp cận thực tiễn khám chữa bệnh, nâng cao chất lượng đào tạo.
Bảng 8: Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý phối hợp sử dụng cơ sở vật chất và trang thiết bị đào tạo
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB
1 Xác định nhu cầu sử dụng trang thiết bị phục vụ dạy học thực hành và thực tập
% 8,0 36,0 40,0 16,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,404
2 Khảo sát số lượng và chất lượng của các trang thiết bị hiện có ở nhà trường và bệnh viện
% 4,0 25,3 56,0 14,7 Điểm trung bình các đối tượng 2,327
3 Lập kế hoạch phối hợp sử dụng trang thiết bị phục vụ dạy học, thực hành, thực tập
% 16,0 50,7 24,0 9,3 Điểm trung bình các đối tượng 2,715
4 Tổ chức bộ máy triển khai kế hoạch phối hợp sử dụng trang thiết bị phục vụ dạy học, thực hành, thực tập
% 13,3 46,7 34,7 5,3 Điểm trung bình các đối tượng 2,455
5 Chỉ đạo bộ phận quản lý trang thiết bị bố trí kịp thời và theo đúng kế hoạch phối hợp.
% 12,0 41,3 36,0 10,7 Điểm trung bình các đối tượng 2,615
6 Ban hành quy định CBQL Số lượng 12 18 8 - 3,106
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm
Tốt Khá TB Yếu TB phối hợp sử dụng hiệu quả các trang thiết bị phục vụ dạy học, thực hành, thực tập trường % 31,6 47,4 21,0 -
% 18,7 48,0 25,3 8,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,808
7 Kiểm tra và giám sát quá trình phối hợp sử dụng trang thiết bị phục vụ dạy hoc, thực hành, thực tập
Để phối hợp hiệu quả trong đào tạo thực hành, cần xác định nhu cầu sử dụng trang thiết bị dạy học Các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng thường bỏ qua khâu quản lý này, dẫn đến tình trạng thiếu phương tiện trong giảng dạy và hướng dẫn thực hành, với mức đánh giá chỉ đạt trung bình (X´i = 2,404) Việc khảo sát số lượng và chất lượng trang thiết bị hiện có tại trường và bệnh viện là cần thiết để đảm bảo đủ cơ sở vật chất cho hoạt động thực hành theo chương trình đào tạo Tuy nhiên, hoạt động khảo sát này cũng chỉ được đánh giá ở mức trung bình (X´i = 2,327), cho thấy cần cải thiện hơn nữa trong việc quản lý và sử dụng trang thiết bị dạy học.
Mặc dù việc xác định nhu cầu và khảo sát cơ sở vật chất phục vụ dạy học chưa được thực hiện tốt, nhưng các trường và bệnh viện đã chú trọng vào việc lập kế hoạch phối hợp sử dụng trang thiết bị cho dạy học, thực hành và thực tập Tuy nhiên, mức độ thực hiện chỉ đạt loại khá với điểm đánh giá trung bình là X ´ i = 2,715.
Trong quản lý phối hợp sử dụng cơ sở vật chất và trang thiết bị đào tạo tại các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng, khâu tổ chức bộ máy triển khai kế hoạch chỉ đạt mức trung bình với điểm đánh giá X ´ i = 2,455 Mặc dù vậy, lãnh đạo các trường đã chú trọng chỉ đạo bộ phận quản lý trang thiết bị, đảm bảo việc bố trí kịp thời và đúng kế hoạch, dẫn đến điểm đánh giá trung bình cho khâu quản lý này là X ´ i = 2,615.
Bệnh viện đã ban hành quy định sử dụng cơ sở vật chất và trang thiết bị trong đào tạo thực hành, cho phép sử dụng trang thiết bị của trường đại học (nếu có) tại bệnh viện trong hoạt động chuyên môn Kết quả khảo sát cho thấy quy định này đã được thực hiện hiệu quả, với điểm đánh giá trung bình đạt X´i = 2,808, cho thấy sự phối hợp giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và bệnh viện là tương đối tốt.
Việc kiểm tra và giám sát quá trình phối hợp sử dụng trang thiết bị dạy học tại các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đã được lãnh đạo tổ chức thực hiện, nhưng chưa thường xuyên và thiếu sự chặt chẽ giữa nhà trường và bệnh viện Kết quả khảo sát cho thấy hoạt động này đạt mức trung bình khá với chỉ số X ´ i = 2,555.
Thực trạng quản lý phối hợp tổ chức thực hiện đánh giá kết quả đào tạo
Đánh giá kết quả đào tạo sinh viên là một bước quan trọng trong chu trình đào tạo, nhằm xác định chất lượng đào tạo thông qua việc kiểm tra kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên Trong quá trình phối hợp đào tạo với bệnh viện, các trường đại học đóng vai trò chủ trì trong việc tổ chức đánh giá kết quả, với sự hỗ trợ từ phía bệnh viện Để hiểu rõ thực trạng quản lý phối hợp trong việc đánh giá này giữa các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng và bệnh viện, tác giả đã tiến hành khảo sát ý kiến từ cán bộ quản lý trường đại học, giảng viên, cán bộ quản lý bệnh viện và bác sĩ tham gia đào tạo sinh viên, với kết quả được thể hiện trong Bảng 9.
Bảng 9: Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý phối hợp tổ chức thực hiện đánh giá kết quả đào tạo sinh viên
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB
1 Xây dựng kế hoach phối hợp đánh giá kết quả đào tạo sinh viên
% 12,0 49,3 21,3 17,4 Điểm trung bình các đối tượng 2,523
2 Thành lập Hội đồng hỗn hợp để đánh giá kết quả đào tạo sinh viên
% 16,0 37,3 25,3 21,4 Điểm trung bình các đối tượng 2,602
3 Phối hợp thống nhất cách thức đánh giá kết quả đào tạo sinh viên
% 21,3 42,7 26,7 9,3 Điểm trung bình các đối tượng 2,883
4 Phối hợp xây dựng bộ tiêu chí đánh giá kết quả đào tạo sinh viên
% 16,0 41,3 34,7 8,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,564
5 Tổ chức thu thập ý kiến đánh giá của bệnh viện về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên
% 12,0 48,0 33,3 6,7 Điểm trung bình các đối tượng 3,022
Nội dung phối hợp Đối tượng Đơn vị tính
Mức độ thực hiện Điểm Tốt Khá TB Yếu TB
6 Chỉ đạo tổ chức hội nghị thường niên giữa nhà trường và bệnh viện về kết quả phối hợp đào tạo sinh viên
% 16,0 40,0 29,3 14,7 Điểm trung bình các đối tượng 2,836
7 Kiểm tra và giám sát các hoạt động đánh giá kết quả đào tạo sinh viên
% 21,3 38,7 32,0 8,0 Điểm trung bình các đối tượng 2,808
Khâu lập kế hoạch phối hợp đánh giá kết quả đào tạo sinh viên tại các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng chưa được quan tâm đúng mức Theo khảo sát, giảng viên đánh giá mức thực hiện chỉ đạt trung bình với X ´ i = 2,457 Họ cho rằng trong quá trình phối hợp với bệnh viện để đánh giá kết quả đào tạo, đặc biệt là phần thực hành, thường gặp khó khăn về thời gian và các điều kiện cần thiết Tổng hợp ý kiến từ ba đối tượng khảo sát cho thấy nội dung xây dựng kế hoạch phối hợp đánh giá chỉ đạt loại trung bình khá với X ´ i = 2,523.
Việc tổ chức Hội đồng hỗn hợp để đánh giá kết quả đào tạo sinh viên đã được thực hiện tại các trường, tuy nhiên, mức độ triển khai phụ thuộc vào từng khoa và bệnh viện Kết quả khảo sát cho thấy ý kiến về việc thành lập hội đồng hỗn hợp chỉ đạt điểm trung bình X ´ i = 2,602, cho thấy sự đồng thuận chưa cao Đối với các khoa đã thành lập hội đồng, giảng viên tham gia đã chủ động trao đổi với đại diện bệnh viện để thống nhất phương pháp đánh giá, từ đó giúp quá trình đánh giá, đặc biệt là khâu thực hành tại bệnh viện, diễn ra thuận lợi và hiệu quả Sự phối hợp này được đánh giá cao với điểm X ´ i = 2,883, cho thấy kết quả đào tạo sinh viên đạt mức khá.
Việc thống nhất cách thức đánh giá và phối hợp xây dựng bộ tiêu chí đánh giá kết quả đào tạo sinh viên là rất cần thiết để các thành viên hội đồng có thể đánh giá một cách đồng nhất về kiến thức, kỹ năng và thái độ của sinh viên Theo khảo sát, hoạt động phối hợp này chỉ đạt mức trung bình khá với X ´ i = 2,564, cho thấy các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng chưa tích cực hợp tác với các bệnh viện trong việc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá Do đó, các cán bộ quản lý nhà trường cần có những biện pháp khắc phục tình trạng này trong tương lai.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của các trường đại học là thường xuyên thu thập ý kiến từ người sử dụng lao động về chương trình đào tạo, bao gồm kiến thức, kỹ năng và thái độ của sinh viên Điều này giúp các trường điều chỉnh chương trình học và xây dựng chuẩn đầu ra phù hợp Nghiên cứu thực tế cho thấy các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đã thực hiện tốt việc thu thập ý kiến đánh giá từ bệnh viện về năng lực nghề nghiệp của sinh viên, với điểm trung bình đánh giá đạt 3,022.
Lãnh đạo các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đã chú trọng tổ chức hội nghị thường niên giữa nhà trường và bệnh viện để đánh giá kết quả phối hợp đào tạo sinh viên Qua hội nghị, hai bên đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý giá trong việc hợp tác đào tạo và đánh giá kết quả học tập của sinh viên Kết quả đánh giá nội dung chỉ đạo tổ chức hội nghị đạt điểm trung bình 2,836, tương đương loại khá.
Hoạt động kiểm tra và giám sát đánh giá kết quả đào tạo sinh viên là bước cuối cùng trong quản lý phối hợp tổ chức Qua khảo sát, lãnh đạo các trường đại học khối ngành sức khỏe khu vực Nam đồng bằng sông Hồng đã chú trọng đến công tác này và thường xuyên hợp tác với các bệnh viện để thực hiện Kết quả khảo sát cho thấy ý kiến đánh giá về công tác kiểm tra, giám sát từ các đối tượng liên quan là tích cực, với điểm trung bình đạt 2,808.