GIỚI THIỆU
Tính cấp thiết đề tài
Thực hiện chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2001-2010, 2011-
Năm 2020, Chính Phủ đã phê duyệt và hoàn thiện các luật mới về chính sách thuế, trong đó có việc ban hành và sửa đổi Luật Quản lý thuế Điều này nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế, thiết lập khung pháp lý chung và áp dụng thống nhất trong thực thi chính sách thuế Luật mới cũng khắc phục tình trạng quản lý tách biệt giữa các loại thuế, tạo nền tảng cho cơ chế tự khai và tự nộp thuế.
Hình 1.1: Quy trình quản lý thuế theo cơ chế NNT tự kê khai, tự tính, tự nộp thuế
Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế
Người nộp thuế (NNT) cần thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp để thể hiện tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ đối với việc nộp thuế cho Nhà nước Điều này bao gồm việc đăng ký thuế, khai thuế chính xác và trung thực, cũng như nộp tiền thuế đầy đủ, đúng hạn và tuân thủ các quy định liên quan đến chính sách thuế Cơ quan thuế (CQT) có bốn chức năng cơ bản trong quản lý thuế: tuyên truyền và hỗ trợ NNT, kê khai và kế toán thuế, quản lý nợ thuế và cưỡng chế thu nợ thuế, cùng với thanh kiểm tra thuế nhằm đảm bảo NNT thực hiện nghĩa vụ thuế theo đúng pháp luật, từ đó đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước được thu đúng, đủ và kịp thời.
Cải cách tư duy từ thu thuế sang nộp thuế đã tạo sự đồng thuận trong cộng đồng xã hội về chính sách thuế của Đảng và Nhà nước Tuy nhiên, bên cạnh những người nộp thuế nhận thức rõ vai trò và nghĩa vụ của mình, vẫn còn nhiều người có hiểu biết pháp luật thuế hạn chế, dẫn đến việc không tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế Họ lợi dụng cơ chế hiện hành để trốn thuế, gian lận thuế, nợ thuế, hoặc sử dụng các thủ đoạn như kê khai khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng từ ngân sách Nhà nước, cũng như áp dụng các phương thức chuyển giá ngày càng tinh vi và phức tạp.
Trong giai đoạn 2001-2010 và đến năm 2020, Đảng và Nhà nước đã thúc đẩy công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng Việc thực hiện các chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế cho một số ngành nghề đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng số lượng doanh nghiệp và hộ kinh doanh, cùng với nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều Trình độ quản lý và lao động cũng được nâng cao, quy mô kinh doanh không chỉ giới hạn ở một địa phương mà ngày càng mở rộng ra toàn quốc và toàn cầu Sự đa dạng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã làm cho công tác quản lý thuế trở nên khó khăn và phức tạp hơn.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý đối tượng, nguồn lực cho công tác thanh kiểm tra thuế vẫn chưa đủ về số lượng và chất lượng để đáp ứng yêu cầu quản lý thuế theo cơ chế người nộp thuế tự kê khai và tự nộp Theo thông tin từ Tổng cục Thuế, điều này đặt ra thách thức lớn trong việc nâng cao hiệu quả quản lý thuế.
Năm 2012, số cán bộ thanh kiểm tra chỉ chiếm 19,9% tổng số công chức trong ngành, chưa đạt mức bình quân quốc tế khoảng 25-30% Phương pháp và kỹ năng thanh kiểm tra còn chậm phát triển, không theo kịp sự tiến triển nhanh chóng của các tập đoàn và công ty đa quốc gia Công tác thanh kiểm tra chưa được thực hiện kịp thời khi phát sinh sai phạm Trong giai đoạn 2006 – 2010, tỷ lệ doanh nghiệp được kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế chỉ đạt 16,6%, trong khi tỷ lệ doanh nghiệp được thanh kiểm tra chỉ đạt 1,7%, vẫn còn thấp so với yêu cầu.
Để đạt được mục tiêu cải cách công tác thanh kiểm tra đến năm 2020, cần nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong việc kiểm tra, giám sát sự tuân thủ của người nộp thuế (NNT) thông qua phân tích và đánh giá rủi ro Việc này bao gồm phân loại NNT ở tất cả các khâu như đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế và hoàn thuế, đồng thời đôn đốc kịp thời các khoản nợ thuế vào Ngân sách Nhà nước và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật thuế Để thực hiện điều này, công tác thanh kiểm tra thuế cần tập trung vào những đối tượng nộp thuế có nhiều rủi ro nhằm ngăn chặn gian lận thuế và thất thu ngân sách Từ những nhận thức này, tôi đã chọn đề tài “Phân tích rủi ro tuân thủ để lựa chọn doanh nghiệp thanh tra, kiểm tra thuế” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu chính của nghiên cứu là xác định và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tuân thủ của doanh nghiệp tại TP.HCM Qua đó, nghiên cứu nhằm lựa chọn các doanh nghiệp có rủi ro cao để lập kế hoạch thanh kiểm tra hàng năm, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh kiểm tra thuế.
Các mục tiêu cụ thể sau:
(i) Xác định và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tuân thủ thuế
Đo lường và đánh giá tác động của các yếu tố đến rủi ro tuân thủ là rất quan trọng đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tại TP.HCM Việc hiểu rõ mức độ ảnh hưởng này giúp các doanh nghiệp xác định các rủi ro tiềm ẩn và có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả công tác đánh giá rủi ro tuân thủ, cần khuyến nghị các giải pháp hoàn thiện, tạo cơ sở cho việc lựa chọn doanh nghiệp trong kế hoạch thanh kiểm tra hàng năm Điều này sẽ giúp xác định đúng đối tượng nộp thuế và đảm bảo hoạt động thanh kiểm tra thuế diễn ra hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tế của TP.HCM.
1.3 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Đối tượng được thực hiện để tiến hành nghiên cứu trong luận văn này là các DN thực hiện kê khai nộp thuế tại Văn phòng Cục Thuế TP.HCM Số lượng DN thực hiện kê khai nộp thuế tại Văn phòng Cục Thuế TP.HCM có khoảng 14.000 DN Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ tiến hành chọn mẫu nghiên cứu theo phương pháp ngẫu nhiên thuận tiện, số mẫu dự kiến là 5.000 DN Trong mẫu 5.000 DN, theo loại hình sở hữu có 2.327 công ty trách nhiệm hữu hạn, 1.458 công ty cổ phần, 631 DN đầu tư nước ngoài, 336 DN kinh tế nhà nước,
Trong tổng số, có 89 doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, 73 doanh nghiệp tư nhân và 86 doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu khác như viện đào tạo và trường học Theo phân loại ngành nghề, có 2.962 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại và 2.038 doanh nghiệp thuộc các ngành nghề khác.
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp từ nhiều nguồn, bao gồm thông tin từ NNT, tờ khai, chứng từ thuế, hồ sơ quyết toán thuế, và báo cáo tài chính, kết hợp với dữ liệu từ Kho bạc, Hải quan, Ngân hàng, Sở Kế hoạch Đầu tư TP.HCM, và Cục Thống kê TP.HCM Mục tiêu là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tuân thủ của doanh nghiệp tại TP.HCM, nhằm lựa chọn đúng đối tượng nộp thuế có nhiều rủi ro cho kế hoạch thanh kiểm tra hàng năm Nghiên cứu chủ yếu dựa vào số liệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong năm 2012.
Nghiên cứu được thực hiện theo 2 phương pháp: nghiên cứu thống kê mô tả và nghiên cứu định lượng sử dụng phân tích hồi quy
Phương pháp thống kê mô tả:
Sau khi thu thập và tổng hợp số liệu thứ cấp từ các doanh nghiệp, chúng tôi sẽ tiến hành thống kê và phân tích để đưa ra những đánh giá định tính về mức độ, xu hướng, tính chất và mối quan hệ giữa các biến số Phương pháp này được thực hiện với sự hỗ trợ của phần mềm Excel.
Phương pháp phân tích hồi quy được áp dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tuân thủ của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại TP.HCM Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS, chuyên dụng cho thống kê và kinh tế lượng Mô hình hồi quy nhị phân được sử dụng để ước lượng hàm hồi quy, trong đó biến phụ thuộc là rủi ro tuân thủ, còn các biến độc lập là những yếu tố tác động đến rủi ro này của doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu.
1.6 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện theo 2 phương pháp: nghiên cứu thống kê mô tả và nghiên cứu định lượng sử dụng phân tích hồi quy
Phương pháp thống kê mô tả:
Sau khi thu thập và tổng hợp số liệu thứ cấp từ các doanh nghiệp, chúng tôi sẽ tiến hành thống kê và phân tích để đưa ra những đánh giá định tính về mức độ, xu hướng, tính chất và mối quan hệ giữa các biến số Phương pháp này được thực hiện với sự hỗ trợ của phần mềm Excel.
Phương pháp phân tích hồi quy được áp dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tuân thủ của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại TP.HCM Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS, chuyên dụng cho thống kê và kinh tế lượng Mô hình hồi quy nhị phân được sử dụng để ước lượng hàm hồi quy, trong đó biến phụ thuộc là rủi ro tuân thủ và các biến độc lập là những yếu tố tác động đến rủi ro này trong mẫu nghiên cứu.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kế hoạch thanh kiểm tra đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi gian lận và trốn thuế của tổ chức, cá nhân.
Nâng cao chất lượng công tác thanh kiểm tra, đảm bảo thanh kiểm tra đúng đối tượng nộp thuế có vi phạm, giảm phiền hà cho NNT chân chính
Hiện đại hóa công tác thanh kiểm tra, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế.
Kết cấu luận văn
Luận văn bao gồm 5 chương:
Chương 1: Phần giới thiệu Chương này giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu, bao gồm lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi và đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và nghiên cứu trước Chương này trình bày các khái niệm, cơ sở lý thuyết, mô hình lý thuyết và các kết quả của những nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài nghiên cứu, từ đó đề xuất mô hình nghiên cứu của đề tài
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương này trình bày mô hình nghiên cứu của đề tài, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tuân thủ của các DN đang hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn TP.HCM, các phương pháp nghiên cứu được ứng dụng trong đề tài, mô tả phương thức khảo sát, thu thập số liệu và các kỹ thuật phân tích dữ liệu
Chương 4: Phân tích kết quả Mục đích của chương này là trình bày các kết quả nghiên cứu đạt được để giải quyết, trả lời các câu hỏi, mục tiêu nghiên cứu và cuối cùng là kiểm định các giả thuyết nghiên cứu đã đặt ra
Chương 5: Kết luận và gợi ý chính sách Phần cuối của luận văn trình bày tóm tắt các kết quả nghiên cứu đã đạt được, đề xuất chính sách từ kết quả nghiên cứu, nêu những hạn chế của đề tài và gợi ý cho các nghiên cứu tiếp theo.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Khái niệm, phân loại và chức năng của thuế
Cho đến nay, trong giới học giả và tài liệu kinh tế toàn cầu, vẫn chưa có sự đồng thuận về khái niệm thuế Các nhà kinh tế thường tiếp cận khái niệm thuế từ những góc độ khác nhau, chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của nó Mặc dù đã trải qua nhiều giai đoạn và được phân tích từ nhiều khía cạnh, các nhà kinh tế đều thống nhất rằng định nghĩa về thuế cần phải làm nổi bật các khía cạnh cốt lõi của nó.
Nội dung kinh tế của thuế được xác định bởi các mối quan hệ tài chính giữa Nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội, với đặc điểm là không có sự hoàn trả trực tiếp.
Mối quan hệ tiền tệ này phát sinh một cách khách quan và mang ý nghĩa xã hội đặc biệt, thể hiện qua việc chuyển giao thu nhập theo yêu cầu bắt buộc của Nhà nước.
Thứ ba, xét theo khía cạnh pháp luật, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định
Thứ tư, việc sử dụng tiền thuế phải dung cho mục đích chung
Thuế hiện nay được hiểu là khoản đóng góp bắt buộc từ cá nhân và tổ chức theo quy định của pháp luật, không mang tính chất đối khoản và không được hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế Khoản thuế này được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu công cộng của Nhà nước (Tổng cục Thuế, 2009).
Phân loại thuế là quá trình tổ chức các sắc thuế trong hệ thống thuế thành các nhóm khác nhau dựa trên những tiêu chí nhất định Có nhiều tiêu chí phân loại khác nhau, và mỗi tiêu chí này lại bao gồm nhiều loại thuế khác nhau.
Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào Ngân sách Nhà nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu
Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp từ thu nhập của các cá nhân và pháp nhân, trong đó người nộp thuế (NNT) vừa là người chịu thuế theo quy định của pháp luật Loại thuế này có tác dụng điều tiết thu nhập và làm cho việc chuyển dịch gánh nặng thuế cho người khác trở nên khó khăn hơn Thuế trực thu thường mang tính lũy tiến, phản ánh khả năng tài chính của NNT Tại Việt Nam, các loại thuế trực thu bao gồm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế chuyển quyền sử dụng đất, và thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước áp dụng để thu một phần thu nhập từ người tiêu dùng thông qua việc đánh thuế vào người sản xuất và kinh doanh hàng hóa, dịch vụ Đặc điểm của thuế gián thu là người nộp thuế không phải là người chịu thuế, dẫn đến việc thuế này trở thành một phần trong giá cả hàng hóa, dịch vụ Người tiêu dùng cuối cùng là người gánh chịu thuế, và trong một số trường hợp, gánh nặng thuế có thể chuyển dịch Nguyên tắc của thuế gián thu thường mang tính lũy thoái, vì mọi người, bất kể thu nhập cao hay thấp, đều phải trả cùng một mức thuế khi mua cùng một loại hàng hóa hoặc dịch vụ Tại Việt Nam, các loại thuế gián thu bao gồm thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt.
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế (Tổng cục Thuế, 2009)
Trong suốt quá trình phát triển, thuế đóng vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước và điều tiết nền kinh tế.
Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành quỹ tiền tệ tập trung, đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước Chức năng này tạo ra tiền đề cho việc phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội cùng thu nhập quốc dân Trong đó, thuế là nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong Ngân sách Nhà nước.
Chức năng điều tiết kinh tế được thực hiện qua việc quy định các hình thức thu thuế, xác định đúng đối tượng chịu thuế và nộp thuế, cũng như xây dựng các mức thuế phù hợp với khả năng của người nộp thuế Nhà nước sử dụng linh hoạt các ưu đãi và miễn giảm thuế nhằm kích thích các hoạt động kinh tế, hướng đến lợi ích chung của xã hội.
Chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ, trong đó chức năng huy động tài chính ảnh hưởng đến sự phát triển của chức năng điều tiết Sự vận dụng hiệu quả chức năng điều tiết giúp thúc đẩy chức năng huy động tài chính, từ đó đảm bảo nguồn thu cho Nhà nước và tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội Tuy nhiên, nếu chức năng huy động tài chính được tăng cường quá mức, có thể dẫn đến giảm động lực phát triển kinh tế và làm suy yếu vai trò điều tiết Do đó, trong quản lý thuế và hoạch định chính sách thuế, cần chú ý đến mối quan hệ giữa hai chức năng này trong từng giai đoạn phát triển kinh tế.
Nghĩa vụ kê khai nộp thuế của NNT và trách nhiệm quản lý của CQT
2.2.1 Nghĩa vụ kê khai nộp thuế của NNT
Trong cơ chế tự khai tự nộp, người nộp thuế (NNT) không chỉ là đối tượng mà cơ quan thuế (CQT) phải phục vụ và quản lý, mà còn là đối tác đồng hành trong việc thực hiện các luật thuế do Nhà nước ban hành NNT đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, góp phần vào ngân sách Nhà nước Kết quả thu nội địa hàng năm phụ thuộc vào trách nhiệm của NNT, CQT và cán bộ thuế NNT có nghĩa vụ tuân thủ các quy định pháp luật, bao gồm đăng ký thuế, khai báo trung thực và chính xác, nộp thuế đầy đủ và đúng hạn, cũng như chấp hành nghiêm các quy định liên quan đến chính sách thuế.
Đăng ký thuế là quy trình mà người nộp thuế (NNT) thông báo sự hiện diện và nghĩa vụ nộp thuế của mình với cơ quan quản lý thuế Trong quá trình này, NNT cần kê khai thông tin theo mẫu quy định và nộp tờ khai cho cơ quan thuế, từ đó sẽ được cấp mã số thuế để thực hiện quyền và nghĩa vụ nộp thuế (Tổng cục Thuế, 2009).
Kê khai nộp thuế là trách nhiệm của người nộp thuế (NNT) trong việc xác định số thuế phải nộp theo quy định của pháp luật thuế NNT cần sử dụng hồ sơ khai thuế phù hợp với từng loại thuế và tự chịu trách nhiệm về độ chính xác của thông tin trong hồ sơ Cơ quan thuế (CQT) sẽ cung cấp chứng từ và hướng dẫn lập chứng từ nộp tiền vào Ngân sách Nhà nước NNT phải ghi đầy đủ thông tin trên chứng từ nộp thuế và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đúng hạn theo quy định.
2.2.3 Trách nhiệm của CQT trong quản lý thuế
CQT tôn trọng quyền tự tính thuế, khai thuế và nộp thuế của người nộp thuế (NNT), đồng thời thực hiện các biện pháp giám sát hiệu quả để đảm bảo tuân thủ tự nguyện và phát hiện, ngăn ngừa vi phạm pháp luật thuế Luật quản lý thuế 2006 quy định rõ trách nhiệm của CQT trong việc này.
- Tổ chức thực hiện thu thuế theo quy định của pháp luật
- Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật về thuế; công khai các thủ tục về thuế
Việc xác định nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế (NNT) là rất quan trọng, nhằm cung cấp thông tin rõ ràng về mức thuế phải nộp của các hộ gia đình và cá nhân kinh doanh tại các xã, phường, thị trấn Công khai thông tin thuế không chỉ giúp NNT hiểu rõ trách nhiệm của mình mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý thuế của cơ quan chức năng.
- Giữ bí mật thông tin của NNT theo quy định của Luật này
Theo quy định của Luật thuế và các quy định pháp luật liên quan, việc miễn thuế, giảm thuế, xóa nợ tiền thuế và tiền phạt, cũng như hoàn thuế là những biện pháp quan trọng nhằm hỗ trợ người nộp thuế.
- Xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT khi có đề nghị theo quy định của pháp luật
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc thực hiện pháp luật về thuế theo thẩm quyền
- Giao kết luận, biên bản kiểm tra thuế, thanh tra thuế cho đối tượng kiểm tra thuế, thanh tra thuế và giải thích khi có yêu cầu
- Bồi thường thiệt hại cho NNT theo quy định của Luật này
- Giám định để xác định số thuế phải nộp của NNT theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
Luật Quản lý Thuế năm 2012 đã bổ sung trách nhiệm quản lý thuế theo rủi ro cho cơ quan thuế, thông qua việc áp dụng hệ thống quy định pháp luật và quy trình nghiệp vụ nhằm xác định, đánh giá và phân loại các rủi ro có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả quản lý thuế Điều này tạo cơ sở cho cơ quan quản lý thuế trong việc phân bổ nguồn lực hợp lý và thực hiện các biện pháp quản lý hiệu quả.
Áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế bao gồm việc thu thập thông tin và dữ liệu liên quan đến người nộp thuế (NNT), xây dựng các tiêu chí quản lý thuế, đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của NNT, và đề xuất các biện pháp quản lý thuế hiệu quả.
Cơ quan quản lý thuế sử dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ để đánh giá rủi ro thuế và mức độ tuân thủ pháp luật của người nộp thuế Hệ thống này cũng giúp lựa chọn đối tượng kiểm tra, thanh tra thuế và hỗ trợ cho các hoạt động nghiệp vụ khác trong quản lý thuế.
Rủi ro tuân thủ
Rủi ro là một dạng không chắc chắn có thể ước đoán được xác suất xảy ra, trong khi những tình trạng không chắc chắn không thể đoán định thì được gọi là sự bất trắc Để đo lường rủi ro, người ta xác định sự khác biệt giữa giá trị thực tế và giá trị kỳ vọng, với giá trị kỳ vọng là trung bình có trọng số của biến đó dựa trên xác suất xảy ra Độ lệch chuẩn và phương sai được sử dụng như thước đo cho rủi ro, phản ánh mối quan hệ giữa biến và kỳ vọng của nó.
Theo Viện tiêu chuẩn Anh quốc (2002), rủi ro được định nghĩa là sự kết hợp giữa khả năng xảy ra của một sự kiện và hệ quả của nó Hệ quả này có thể tạo ra cơ hội có lợi hoặc đe dọa đến sự thành công của hoạt động Trong các lĩnh vực yêu cầu mức độ an toàn cao, hệ quả từ rủi ro thường mang tính bất lợi Do đó, quản lý rủi ro chủ yếu tập trung vào việc phòng ngừa và giảm thiểu tác hại mà rủi ro có thể gây ra.
Các quan điểm về rủi ro trên phù hợp với quản lý thuế ở nước ta hiện nay
2.3.2 Định nghĩa rủi ro về thuế
Theo Tom McClelland (2008), rủi ro về thuế mà doanh nghiệp (DN) phải đối mặt bao gồm mọi sự kiện liên quan đến chiến lược thuế, hoạt động kinh doanh, báo cáo tài chính hoặc tuân thủ pháp luật, có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình thuế hoặc kinh doanh của DN Những rủi ro này có thể dẫn đến việc bị phạt, phải nộp thêm thuế, tổn hại đến uy tín, mất cơ hội kinh doanh hoặc tác động xấu đến báo cáo tài chính.
Hiện nay, có bảy loại rủi ro về thuế mà doanh nghiệp cần lưu ý, bao gồm: rủi ro nghiệp vụ, rủi ro hoạt động, rủi ro tuân thủ, rủi ro kế toán tài chính, rủi ro cộng hưởng, rủi ro quản lý và rủi ro uy tín (Công ty Kiểm toán D.T.L, 2012) Những rủi ro này có thể ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả kinh doanh và sự phát triển bền vững của công ty.
Rủi ro tuân thủ thuế, theo Trung tâm nghiên cứu chính sách và quản lý thuế của OECD (2004), là nguy cơ phát sinh từ việc người nộp thuế không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ theo quy định pháp luật, bao gồm việc đăng ký thuế, nộp tờ khai và thông tin liên quan đúng thời hạn, báo cáo thông tin chính xác và lưu giữ sổ sách, cũng như nộp thuế đúng hạn và đúng số tiền Rủi ro này không chỉ dẫn đến thất thu ngân sách nhà nước mà còn tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
Rủi ro tuân thủ được phân làm 2 nhóm:
Rủi ro tuân thủ quy định hành chính là tình trạng người nộp thuế (NNT) không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định về kê khai và nộp thuế đúng hạn Các quy định liên quan đến hành vi không tuân thủ được quy định rõ ràng trong các văn bản luật Tại Việt Nam, Luật Quản lý thuế 2006 và Luật Quản lý thuế sửa đổi bổ sung 2012 đã nêu rõ các thủ tục hành chính mà NNT cần tuân thủ.
Rủi ro tuân thủ kỹ thuật liên quan đến việc người nộp thuế thực hiện tính toán và nộp thuế không đúng theo quy định của các Luật thuế Việc xác định rủi ro này trở nên phức tạp khi các quy định trong Luật thuế không rõ ràng và dễ hiểu, dẫn đến khó khăn trong việc xác định chính xác số thuế phải nộp.
Rủi ro tuân thủ thuế tại Việt Nam hiện nay chủ yếu xuất phát từ việc người nộp thuế (NNT) vi phạm các nghĩa vụ pháp lý liên quan đến đăng ký, kê khai, báo cáo và nộp thuế Việc không tuân thủ những quy định này có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho NNT, bao gồm phạt tiền và các biện pháp xử lý khác.
Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tuân thủ
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hoài (2011), việc tuân thủ thuế chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố bên ngoài như chính sách thuế của Nhà nước, quản lý của cơ quan thuế, các yếu tố xã hội, sự phát triển dịch vụ thuế Bên cạnh đó, các yếu tố nội tại của người nộp thuế như đặc thù hoạt động doanh nghiệp, yếu tố tài chính và hành vi cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tuân thủ thuế.
Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tuân thủ từ phía người nộp thuế (NNT) Cụ thể, nghiên cứu tập trung vào ba nhóm yếu tố: nhóm phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, nhóm đặc thù hoạt động của doanh nghiệp, và nhóm đánh giá thực hiện nghĩa vụ kê khai nộp thuế Các yếu tố này được thu thập từ tờ khai quyết toán thuế hàng năm, báo cáo tài chính của doanh nghiệp nộp cho cơ quan thuế (CQT) và từ hệ thống cơ sở dữ liệu nội bộ của CQT.
2.4.1 Nhóm yếu tố phản ánh tình hình tài chính của DN
Tình hình tài chính của doanh nghiệp là bức tranh tổng thể phản ánh kết quả và hiệu quả từ các hoạt động tài chính, kinh doanh và đầu tư trong kỳ Sự thành công của các hoạt động này sẽ nâng cao khả năng thanh toán, tăng vốn chủ sở hữu và cải thiện độc lập tài chính Ngược lại, sự yếu kém trong bất kỳ hoạt động nào cũng có thể làm giảm khả năng thanh toán và an ninh tài chính Để đánh giá tình hình tài chính, hệ thống báo cáo tài chính bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động và báo cáo lưu chuyển tiền tệ là rất quan trọng, cung cấp thông tin cần thiết cho quản lý và ra quyết định Các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính giúp phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh và tình trạng tài chính của doanh nghiệp, từ đó đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tuân thủ thuế.
Tài sản là nguồn lực mà doanh nghiệp kiểm soát, mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai, bao gồm khả năng tăng nguồn tiền hoặc giảm chi phí Lợi ích này có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với các tài sản khác để sản xuất, cung cấp dịch vụ, thanh toán nợ, hoặc phân phối cho chủ sở hữu Tài sản có thể là vật chất như nhà xưởng, máy móc, hoặc phi vật chất như bản quyền, nhưng đều phải đảm bảo khả năng mang lại lợi ích kinh tế và thuộc quyền kiểm soát của doanh nghiệp Tài sản hình thành từ các giao dịch hoặc sự kiện đã qua như góp vốn, mua sắm, hay được biếu tặng; trong khi các sự kiện dự kiến trong tương lai không làm tăng tài sản Chi phí phát sinh thường tạo ra tài sản, nhưng những chi phí không mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai sẽ không tạo ra tài sản.
Thông tin về tài sản được trình bày tại bảng cân đối kế toán của DN
Nợ phải trả là nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp, phát sinh từ các giao dịch và sự kiện đã qua, mà doanh nghiệp phải thanh toán từ nguồn lực của mình Nợ phải trả xác định nghĩa vụ khi doanh nghiệp nhận tài sản, tham gia cam kết hoặc phát sinh nghĩa vụ pháp lý Việc thanh toán có thể thực hiện bằng tiền, tài sản khác, cung cấp dịch vụ, thay thế nghĩa vụ hoặc chuyển đổi nợ thành vốn chủ sở hữu Các khoản nợ này có thể đến từ mua hàng hóa chưa thanh toán, sử dụng dịch vụ chưa thanh toán, vay nợ, cam kết bảo hành, nghĩa vụ hợp đồng, trả lương cho nhân viên, thuế và các khoản phải trả khác (Bộ Tài chính, 2002).
Thông tin về nợ phải trả được trình bày tại bảng cân đối kế toán của DN
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (DN) được xác định là giá trị vốn, tính bằng chênh lệch giữa tổng giá trị tài sản và nợ phải trả Trong Bảng cân đối kế toán, vốn chủ sở hữu bao gồm vốn đầu tư từ các nhà đầu tư, thặng dư vốn cổ phần, lợi nhuận giữ lại, các quỹ như quỹ dự trữ và quỹ đầu tư phát triển, cùng với lợi nhuận chưa phân phối và các chênh lệch tỷ giá Khi lập báo cáo tài chính, cần chú ý đến hình thức sở hữu và nội dung kinh tế của tài sản Đặc biệt, trong trường hợp thuê tài chính, DN có thể không sở hữu tài sản nhưng vẫn ghi nhận lợi ích kinh tế từ việc sử dụng tài sản thuê DN đi thuê sẽ phải trả một khoản tiền tương đương giá trị hợp lý của tài sản, dẫn đến việc phát sinh các mục "Tài sản" và "Nợ phải trả" trong Bảng cân đối kế toán.
Thông tin về vốn chủ sở hữu được trình bày tại bảng cân đối kế toán của
Doanh thu và thu nhập khác
Doanh thu và thu nhập khác là tổng giá trị lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán từ hoạt động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác, góp phần tăng vốn chủ sở hữu, không bao gồm vốn góp của cổ đông Doanh thu từ hoạt động kinh doanh thông thường bao gồm doanh thu bán hàng, cung cấp dịch vụ, tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi nhuận chia Trong khi đó, thu nhập khác phát sinh từ các hoạt động ngoài doanh thu như thu từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố định và tiền phạt khách hàng do vi phạm hợp đồng.
Thông tin về doanh thu được trình bày tại bảng kết quả hoạt động kinh doanh của DN
Chi phí là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán, bao gồm tiền chi ra, khấu trừ tài sản và phát sinh nợ, dẫn đến giảm vốn chủ sở hữu, không tính khoản phân phối cho cổ đông Chi phí này bao gồm chi phí sản xuất và kinh doanh phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh thông thường.
Chi phí sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý, chi phí lãi vay và các khoản chi phí liên quan đến việc cho bên ngoài sử dụng tài sản sinh lợi, như tiền bản quyền Những chi phí này thường xuất hiện dưới dạng tiền mặt, khoản tương đương tiền, hàng tồn kho và khấu hao tài sản cố định như máy móc, thiết bị.
Chi phí khác là những khoản chi ngoài chi phí sản xuất và kinh doanh, phát sinh trong quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp Những chi phí này bao gồm chi phí thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, cũng như các khoản tiền bị phạt từ khách hàng do vi phạm hợp đồng (Bộ Tài chính, 2002).
Thông tin về chi phí được trình bày tại bảng kết quả hoạt động kinh doanh của DN
Lợi nhuận là chỉ số quan trọng phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Các yếu tố chính ảnh hưởng đến việc xác định lợi nhuận bao gồm doanh thu, thu nhập khác và chi phí.
Theo Nguyễn Tấn Bình (2010), để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh, cần phân tích các giai đoạn của lợi nhuận, bao gồm: lãi gộp, được tính bằng hiệu số giữa doanh thu và giá vốn hàng bán; lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT), là hiệu số giữa lãi gộp và chi phí bán hàng, chi phí quản lý; lợi nhuận trước thuế, là hiệu số giữa EBIT và lãi vay; lợi nhuận sau thuế, được tính bằng hiệu số giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập; và cuối cùng là lợi nhuận giữ lại, là hiệu số giữa lợi nhuận sau thuế và cổ tức Thông tin chi tiết về lợi nhuận này thường được trình bày trong bảng kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong quản lý thuế, việc phân tích rủi ro kê khai và nộp thuế là rất quan trọng Các chỉ tiêu cần xem xét bao gồm doanh thu, khả năng thanh toán tổng quát, suất sinh lời của tài sản, vốn chủ sở hữu và doanh thu Ngoài ra, tỷ lệ giá vốn hàng bán trên doanh thu thuần, tỷ lệ chi phí bán hàng và chi phí quản lý trên doanh thu thuần cũng là những yếu tố cần được đánh giá để đảm bảo tính chính xác và minh bạch trong kê khai thuế.
* Suất sinh lời của tài sản (ROA)
Hệ số Suất sinh lời của tài sản được tính bằng lợi nhuận sau thuế chia cho tài sản bình quân của doanh nghiệp, trong đó tài sản bình quân là trung bình cộng của tài sản đầu kỳ và cuối kỳ trên bảng cân đối kế toán Chỉ số này phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế từ tài sản; hệ số càng cao cho thấy khả năng sinh lời của tài sản càng lớn, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (Nguyễn Ngọc Quang, 2011).
* Suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE)
Hệ số suất sinh lời của vốn chủ sở hữu được tính bằng lợi nhuận sau thuế chia cho vốn chủ sở hữu bình quân của doanh nghiệp, trong đó vốn chủ sở hữu bình quân là trung bình cộng của vốn chủ sở hữu đầu kỳ và cuối kỳ Hệ số này phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế từ vốn chủ sở hữu mà doanh nghiệp sử dụng trong hoạt động kinh doanh Chỉ tiêu này càng cao, khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu càng tốt, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng được nâng cao Đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
* Suất sinh lời của doanh thu (ROS)
Kinh nghiệm của các nước về quản lý thuế dựa trên phân tích rủi ro tuân thủ
Dựa trên tài liệu của Trung tâm nghiên cứu chính sách và quản lý thuế của OECD (2004), bài viết giới thiệu kinh nghiệm quản lý thuế của Pháp thông qua phân tích rủi ro Tại Pháp, quy định về xác định rủi ro không được quản lý tập trung, mà được phân cấp cho cấp địa phương hoặc thực hiện bởi các bộ phận chuyên trách thanh kiểm tra Việc lựa chọn đối tượng thanh kiểm tra được thực hiện qua nhiều kênh, bao gồm thông tin thu thập tại địa phương và đánh giá rủi ro.
Thu thập thông tin về rủi ro tuân thủ:
Tại cấp địa phương, cán bộ thuế quận nắm rõ hồ sơ tuân thủ của người nộp thuế (NNT) và các sự kiện đặc biệt ảnh hưởng đến thuế Mỗi CQT có đội ngũ chuyên trách thu thập thông tin về tình hình tuân thủ của NNT Ở cấp trung ương, bộ phận xử lý các trường hợp gian lận nghiêm trọng (DNEF) có quyền kiểm tra cơ sở kinh doanh của những đối tượng nghi ngờ gian lận thuế, nhằm đánh giá và kiểm soát rủi ro tuân thủ hiệu quả.
Tất cả dữ liệu được tập trung tại cấp trung ương bởi một nhóm chuyên trách, đảm nhận chức năng đánh giá rủi ro và kiểm tra Phân tích rủi ro được thực hiện qua hai phần mềm chính là OASIS và SYNFONIE, với mỗi rủi ro được xếp loại theo mức điểm từ 1 đến 5.
Hồ sơ có điểm số cao hơn 20 được xem là có rủi ro thuế cao, với tất cả các rủi ro được xác nhận thông qua tính toán tương quan trong cơ sở dữ liệu doanh nghiệp Phần mềm này không chỉ ghi nhận các rủi ro hiện có mà còn phát hiện các rủi ro mới bằng cách so sánh mẫu các yếu tố quan tâm với kết quả thanh kiểm tra trong 3 năm qua của các doanh nghiệp cùng lĩnh vực Khi mẫu này khớp với kết quả kiểm tra, rủi ro mới sẽ được công nhận và cập nhật vào phần mềm.
Tại mỗi CQT, các đội chuyên trách sử dụng phần mềm OASIS và SYNFONIE để lựa chọn đối tượng thanh kiểm tra Dữ liệu từ các cơ quan địa phương và các nguồn khác được kiểm tra qua quy trình của hai phần mềm này Sau khi phân tích, các trường hợp được lựa chọn sẽ được chuyển giao cho các trưởng nhóm thanh kiểm tra.
Quá trình “sàng lọc” và phân tích hồ sơ là bước quan trọng để tiến hành thanh kiểm tra Kết quả từ quá trình này sẽ được gửi lại cho CQT nhằm đưa ra quyết định về việc thanh kiểm tra.
Các nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu của Tổng cục Thuế (2011) đã xây dựng bộ 16 tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế nhằm hỗ trợ công tác thanh kiểm tra Các tiêu chí này bao gồm việc chậm nộp hồ sơ khai thuế, phân loại doanh nghiệp theo loại hình kinh tế, và so sánh biến động tỷ lệ thuế giữa các năm Nghiên cứu áp dụng phương pháp thống kê mô tả, sử dụng dữ liệu từ kê khai thuế, quyết toán thuế, và báo cáo tài chính của doanh nghiệp, cùng với kết quả từ các cuộc thanh kiểm tra Các tiêu chí được đánh giá và phân loại thành bốn mức độ rủi ro: cao, vừa, thấp và rất thấp, với điểm số tương ứng là 4, 3, 2, 1 Cuối cùng, điểm số của từng tiêu chí được nhân với trọng số và tổng hợp để xác định danh sách doanh nghiệp cần thanh kiểm tra, ưu tiên từ điểm rủi ro cao xuống thấp.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Thành (2013) áp dụng phương pháp thống kê mô tả, sử dụng dữ liệu từ ngành thuế, kết quả các cuộc thanh kiểm tra, cùng với thông tin từ các cơ quan ban ngành liên quan đến người nộp thuế (NNT) để xây dựng phân tích chi tiết.
12 tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế bao gồm: ngành kinh tế, quy mô doanh nghiệp, loại hình kinh tế, tình hình tuân thủ nộp thuế, tình hình tuân thủ nộp hồ sơ khai thuế, kỳ thanh kiểm tra gần nhất, sự tăng giảm bất thường của doanh thu, hệ số khả năng thanh toán tổng quát, so sánh biến động của tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp trên doanh thu qua các năm, mức biến động tỷ suất giá vốn trên doanh thu, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, và thay đổi tỷ trọng chi phí bán hàng cùng chi phí quản lý doanh nghiệp trên doanh thu Nghiên cứu này thực hiện phân ngưỡng, chấm điểm rủi ro, đánh trọng số cho từng tiêu chí và tính tổng điểm rủi ro cho từng người nộp thuế, tương tự như nghiên cứu của Tổng cục Thuế.
Các nghiên cứu đã xác định các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tuân thủ thuế, từ đó xây dựng bộ tiêu chí đánh giá rủi ro nhằm lựa chọn người nộp thuế có nguy cơ cao để đưa vào kế hoạch thanh kiểm tra Điều này giúp phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi gian lận và trốn thuế, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế Nghiên cứu cung cấp cơ sở lý luận cho các nghiên cứu tiếp theo, mặc dù chỉ phân tích dữ liệu thống kê đã qua xử lý dựa trên tình hình đăng ký và kê khai thuế của doanh nghiệp, sử dụng phương pháp thống kê mô tả để nhận diện.
Nghiên cứu này dựa trên lý thuyết của các nghiên cứu trước nhưng khác biệt ở chỗ áp dụng phương pháp định lượng và phân tích bằng mô hình hồi quy với dữ liệu thứ cấp thô chưa xử lý, thu thập trực tiếp từ Cục Thuế TP.HCM, đảm bảo độ tin cậy cao hơn Mô hình này đã chỉ ra một số yếu tố tài chính và đặc thù hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến rủi ro tuân thủ, điều mà các nghiên cứu trước chưa đề cập.
Mô hình nghiên cứu đề nghị
Dựa trên lý thuyết và thực trạng rủi ro tuân thủ của doanh nghiệp tại Cục Thuế TP HCM, bài viết đề xuất áp dụng mô hình Logistic (Maddala, 1984) Mô hình này là một công cụ định lượng với biến phụ thuộc là biến giả, chỉ nhận hai giá trị 0 hoặc 1 Nó được sử dụng phổ biến trong phân tích kinh tế và rủi ro, giúp cơ quan thuế xác định khả năng rủi ro tuân thủ của người nộp thuế (NNT) dựa trên các yếu tố ảnh hưởng (biến độc lập).
Mô hình đề nghị như sau:
Hình 2.1: Sơ đồ các yếu tố ảnh hưởng rủi ro tuân thủ
Từ đó, mô hình hồi quy có dạng :
Y = f(ROA, ROE, ROS, H, D_THU, GV, CPBH, CPQL, TTLK, NGANH, D_TU, C_NOP, TNDN, GTGT)
Biến phụ thuộc Y đại diện cho rủi ro tuân thủ của doanh nghiệp, trong đó giá trị 1 biểu thị doanh nghiệp có rủi ro tuân thủ và giá trị 0 thể hiện doanh nghiệp không có rủi ro.
Các biến độc lập theo mô hình trên như sau:
Nhóm tình hình tài chính của DN
- ROA: tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân của DN (%)
- ROE: tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của DN (%)
- ROS: tỷ lệ lợi nhuận trên tổng doanh thu của DN (%)
- H: Khả năng thanh toán tổng quát (%)
Ngành nghề kinh doanh chủ yếu Loại hình
Biến động về kê khai thuế TNDN giữa các năm
Nhóm đặc thù hoạt động
Nhóm tình hình tài chính
Thông tin giao dịch liên kết
Biến động về kê khai thuế GTGT giữa các năm
Giá vốn hàng bán/Doanh thu thuần
Chi phí quản lý/Doanh thu thuần
Nhóm tình hình thực hiện nghĩa vụ kê khai, nộp thuế
- D_THU: Doanh thu của DN (tỷ đồng)
- GV: Tỷ lệ giá vốn hàng bán trên doanh thu của DN (%)
- CPBH: Tỷ lệ chi phí bán hàng trên doanh thu của DN (%)
- CPQL: Tỷ lệ chi phí quản lý trên doanh thu của DN (%)
Nhóm đặc thù hoạt động của DN
Thông tin giao dịch liên kết (TTLK) là một biến định tính, trong đó giá trị 1 được gán cho doanh nghiệp có giao dịch liên kết, trong khi giá trị 0 được áp dụng cho những doanh nghiệp không có giao dịch liên kết.
- NGANH: Ngành nghề kinh doanh của DN là biến định tính (mang giá trị 1 là ngành thương mại dịch vụ, giá trị 0 là ngành công nghiệp)
- D_TU: Loại hình của DN là biến định tính (mang giá trị 1 là DN FDI, các DN khác mang giá trị 0)
Nhóm tình hình thực hiện nghĩa vụ kê khai nộp thuế
- C_NOP: Số lần chậm nộp tờ khai trong kỳ (lần)
- TNDN: Biến động tỷ lệ Thuế Thu nhập doanh nghiệp trên doanh thu giữa các năm (%)
- GTGT: Biến động tỷ lệ Thuế giá trị gia tăng trên doanh thu giữa các năm (%)