T ỔN G QUAN
Lý do ch ọn đề t ài
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đã ghi nhận mức tăng trưởng GDP cao thứ hai thế giới trong suốt 20 năm qua, đạt 5,7% mỗi năm Tuy nhiên, trong 5 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã suy giảm đáng kể do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu và các điểm yếu nội tại.
Bảng 1.1 : Tăng trưởng GDP (%, giá năm 1994) Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Theo Tổng cục Thống kê 2013, lĩnh vực công nghiệp - xây dựng đóng góp đáng kể vào sự suy giảm kinh tế, đồng thời vẫn giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu ngành của nền kinh tế Việt Nam.
Bảng 1.2 : Cơ cấu các ngành kinh tế Việt Nam.
Tỷ trọng của các ngành
Tổng số Nông nghiệp Công nghiệp –
Ngu ồn : Tổng cục Thống kê 2013 ( TCTK)
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đang đối mặt với yêu cầu cấp bách về xây dựng và hoàn thiện hệ thống hạ tầng cơ sở Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu hút đầu tư, Việt Nam cần nâng cao chất lượng hạ tầng giao thông và tăng tốc phát triển Nhu cầu vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng rất lớn và dự kiến sẽ tiếp tục gia tăng, với mục tiêu đầu tư từ 11-12% GDP trong giai đoạn tới, so với 9-10% GDP trong những năm 1990 và 2000 Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực huy động thêm nguồn vốn và thu hút nhà đầu tư, cả trong và ngoài nước, để đáp ứng nhu cầu này.
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn và ngân sách hạn chế, việc thúc đẩy đầu tư hạ tầng trong khi vẫn đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế xã hội là rất cần thiết Quá trình xã hội hóa đầu tư trở thành một chủ trương đúng đắn Việt Nam đã áp dụng các hình thức đầu tư như BOT, BT, BTO tương tự như nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Hình thức đầu tư BOT đã được triển khai từ sớm trên toàn cầu, với dự án đầu tiên áp dụng mô hình này là kênh đào.
Kênh đào Suez, nằm tại Ai Cập, dài 195 km (121 dặm) với độ sâu 16 m và khúc hẹp nhất là 60 m, cho phép tàu lớn lên đến 150.000 tấn lưu thông Dự án bắt đầu từ năm 1854-1856, nhưng chính thức khởi động vào năm 1858 với sự hỗ trợ từ Pháp khi Công ty Kênh đào Suez được thành lập Sau nhiều xung đột chính trị và sự cố kỹ thuật, kênh đào này đã được hoàn thành vào ngày 17 tháng 11 năm 1869, với tổng chi phí vượt quá 2 lần so với dự tính ban đầu.
Dự án BOT đầu tiên trên thế giới đã hoàn thành nhưng đã gặp phải những rủi ro không lường trước, vượt ngoài dự đoán của các bên tham gia.
Dự án BOT đầu tiên tại Việt Nam là Nhà máy nước Bình An với công suất 100.000m3/ngày, do nhà đầu tư Malaysia thực hiện từ tháng 3/1995 và vẫn hoạt động hiệu quả đến nay Trong lĩnh vực hạ tầng giao thông, dự án BOT đầu tiên là cải tạo Quốc lộ 1A đoạn An Sương-An Lạc, hoàn thành và đưa vào sử dụng ngày 30/10/2004 Sự thành công của hai dự án này đã khẳng định bước đi đúng đắn trong phát triển hạ tầng Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế Sau 20 năm thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức BOT và BTO, Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng.
Đến nay, vẫn chưa có báo cáo hay cơ chế cụ thể nào từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đánh giá và tổng kết tình hình thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức BT Trong nỗ lực cao nhất, vào năm 2012, đã có những bước tiến trong việc xem xét vấn đề này.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiến hành thanh kiểm tra và tổng hợp số liệu từ các địa phương và bộ ngành liên quan đến đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, BTO, và BT Tính đến 31/12/2010, có 384 dự án đầu tư được cấp phép với tổng vốn đầu tư đạt 1,114,663 tỷ đồng, trong đó dự án BOT chiếm 54.22%, BT chiếm 29.08%, BTO kết hợp BT chiếm 16.62%, và BTO chỉ chiếm 0.08% Mặc dù hình thức đầu tư này đã được áp dụng trong thời gian dài, nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn bên cạnh những thuận lợi.
Việc áp dụng kỹ năng và công nghệ hiện đại từ khu vực tư nhân mang lại nhiều thuận lợi, giúp khu vực công chú trọng vào đầu ra và lợi ích thay vì chỉ tập trung vào đầu vào Sự tham gia của vốn tư nhân không chỉ giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho dự án mà còn giúp chia sẻ rủi ro giữa các đối tác Hơn nữa, các nhà cung cấp tư nhân có trách nhiệm hơn trong việc cung cấp dịch vụ trong một môi trường khuyến khích phù hợp.
Hình thức BOT có thể dẫn đến việc khu vực công cộng mất quyền kiểm soát quản lý, điều này gây khó khăn trong việc chấp nhận về mặt chính trị Đồng thời, nhà đầu tư cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro trong quá trình đầu tư, bao gồm các vấn đề pháp lý, giải phóng mặt bằng, sự ổn định của nguồn thu, khả năng huy động tài chính, cũng như các khía cạnh liên quan đến xây dựng và vận hành.
Trong 3 năm gần đây, nhiều dự án đã gặp khó khăn khi triển khai, dẫn đến tình trạng bế tắc và phải xin ngừng hoặc chuyển hình thức đầu tư Ví dụ điển hình là dự án cầu Sài Gòn, nơi đã gặp phải những vướng mắc chưa được giải quyết hoàn chỉnh, gây ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án.
Tại TP.HCM, việc thiếu quy hoạch vị trí các trạm thu phí trước khi quyết định đầu tư BOT đã dẫn đến việc không thể xây thêm trạm thu phí trên xa lộ Hà Nội, khiến dự án bị chậm gần 2 năm để chuyển sang phương thức đầu tư BT Một dự án BOT khác, cầu Phú Mỹ, cũng gặp khó khăn do lượng xe qua cầu thấp, dẫn đến việc thu phí không đủ để trả nợ, và nhà đầu tư đã đề nghị trả lại cầu cho chính quyền TP.HCM Ngoài ra, trường hợp nhà đầu tư dự án BOT Quang Đức bị chấm dứt hợp đồng vào tháng 7/2014 do năng lực yếu cũng cho thấy những thách thức trong các dự án BOT tại khu vực này.
Sự gia tăng tính phổ biến của hợp đồng BOT đã thu hút nhiều công ty, bao gồm cả công ty nhà nước, tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài, đầu tư vào các dự án mà không thực hiện nghiên cứu kỹ lưỡng về tính khả thi và rủi ro tiềm ẩn Hành động này có thể dẫn đến đình trệ hoặc hỏng hóc các dự án quan trọng Để đảm bảo sự thành công của dự án BOT, các bên tham gia cần xác định rõ tính khả thi và mức độ ảnh hưởng của rủi ro, từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
M ục ti êu nghiên c ứu
Trong các dự án xây dựng theo hình thức hợp đồng BOT, rủi ro rất đa dạng do tính phức tạp của dự án và tác động của môi trường kinh tế, xã hội, pháp luật và văn hóa luôn thay đổi Rủi ro hiện diện ở mọi giai đoạn, từ việc xác định chủ trương đầu tư cho đến khi dự án được đưa vào khai thác Nhiều yếu tố, cả trực tiếp và gián tiếp, có thể gây ra rủi ro và dẫn đến những hậu quả nhất định Do đó, việc đánh giá nguyên nhân và hậu quả của rủi ro cần dựa trên các giai đoạn khác nhau của dự án Nghiên cứu này được thực hiện nhằm làm rõ những vấn đề này.
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công của dự án BOT tại khu vực Tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương;
- Đo lường mức độ ảnh hưởng và đánh giá khả năng thành công của một dự án theo hình thức BOT;
- Hình thành các hàm ý quản trị.
Ph ương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu áp dụng phương pháp phân tích định lượng nhằm đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố Sử dụng thang đo Likert 5 mức để đo lường các biến số, từ đó lựa chọn biến số có tác động lớn nhất để áp dụng phương pháp AHP.
Nghiên cứu sử dụng mô hình AHP và Fuzzy AHP để xây dựng véc tơ trọng số, kiểm định bằng hệ số nhất quán nhằm loại bỏ các khảo sát không phù hợp Dựa vào véc tơ trọng số, nghiên cứu xác định các nhân tố có tác động lớn nhất đến thành công của dự án Mô hình này cũng được áp dụng để đánh giá mức độ thành công của dự án cụ thể, hỗ trợ quyết định cho nhà đầu tư.
Gi ới hạn v à ph ạm vi nghi ên c ứu
Dữ liệu khảo sát hiện tại về các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của dự án BOT còn hạn chế, điều này gây khó khăn trong việc thu thập và đánh giá đầy đủ các nhân tố quan trọng.
- Các dự án được đầu tư theo hình thức BOT tại Tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương;
- Thời gian thực hiện dự án từ năm 2000 đến năm 2014;
- Số mẫu dùng để thu thập số liệu là 172 mẫu;
Đối tượng khảo sát bao gồm các nhà đầu tư, nhà thầu thi công, chuyên gia tư vấn, thành viên cơ quan nhà nước có thẩm quyền và kỹ sư tham gia các dự án đầu tư theo hình thức BOT.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Các khái ni ệm v à m ột số quy định cơ bản về dự án BOT
Việt Nam đã áp dụng các hình thức đầu tư BOT, BT, BTO, tạo ra cơ hội cho nguồn lực tài chính và chuyên môn từ khu vực tư nhân, nhằm nâng cao chất lượng và mở rộng dịch vụ cơ sở hạ tầng Chính phủ cùng các bộ ngành đã thiết lập khung pháp lý thuận lợi để khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư.
- Nghị định 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 về việc đầu tư theo hình thức
Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT);
- Nghị định 24/2011/NĐ-CP ngày 05/4/2011 sửa đổi một số điều của Nghị định số 108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng -
Kinh doanh - Chuyển giao (BOT), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO), Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT);
- Thông tư 03/2011/TT-BKHĐT ngày 27/01/2011 về việc hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 108/2009/NĐ-CP;
Thông tư 166/2011/TT-BTC ban hành ngày 17/11/2011 quy định về quản lý và sử dụng chi phí chuẩn bị dự án cũng như kinh phí hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình quản lý dự án Thông tư này nêu rõ một số chỉ tiêu tài chính liên quan đến hợp đồng dự án, điều kiện và phương thức thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án theo hình thức hợp đồng Xây dựng Chuyển giao Ngoài ra, thông tư cũng quy định về việc quyết toán giá trị công trình dự án thực hiện theo các hình thức hợp đồng như Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao, Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh và Xây dựng - Chuyển giao.
- Nghị định 15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 về việc đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
Dự án BOT (Xây dựng – Vận hành - Chuyển giao) là mô hình đầu tư trong đó nhà đầu tư thành lập công ty dự án và ký hợp đồng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng cơ sở hạ tầng Sau khi hoàn tất, nhà đầu tư có quyền kinh doanh công trình trong một khoảng thời gian nhất định Khi hết thời gian này, công trình sẽ được chuyển giao lại cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Dự án BOT đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng bằng cách thu hút nguồn tài chính tư nhân, giúp Nhà nước sử dụng ngân sách cho các mục đích hiệu quả hơn Nhờ hình thức BOT, nhiều dự án được triển khai nhanh chóng mà không phải chờ đợi vốn từ ngân sách, giảm thiểu rủi ro và gánh nặng cho Nhà nước Việc sử dụng nguồn vốn tư nhân cũng góp phần giảm chi phí và thời gian xây dựng, nâng cao hiệu quả dự án Bên cạnh đó, BOT tạo điều kiện cho chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực và phát triển thị trường tài chính khu vực Đặc biệt, khác với tư nhân hoá, cơ quan nhà nước vẫn có khả năng kiểm soát và khai thác dự án khi kết thúc thời hạn chuyển giao.
Cơ quan nhà nước đóng vai trò quan trọng trong dự án BOT, từ việc chấp thuận chủ trương đầu tư đến phê duyệt và quản lý dự án Họ cũng có thể hỗ trợ vốn cho nhà đầu tư thông qua bảo lãnh vay ngân hàng và cung cấp nguồn vốn chi phí thấp Ngoài ra, cơ quan nhà nước quản lý hoạt động khai thác của nhà đầu tư, kiểm soát thu nhập và đảm bảo chất lượng công trình cho đến khi chuyển giao Đồng thời, cần có quy hoạch hợp lý để đảm bảo nguồn thu hồi vốn cho nhà đầu tư.
Thông thường dự án BOT bao gồm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1 của dự án bao gồm việc chuẩn bị, thẩm định đầu tư và phát triển Nhà đầu tư sẽ đề xuất dự án mới (nếu chưa có trong danh mục) và thực hiện đánh giá toàn diện về thu nhập và chi phí để chọn lựa phương án đầu tư hiệu quả nhất Đồng thời, nhà đầu tư cùng các bên liên quan sẽ xem xét tác động của dự án đối với cộng đồng cư dân xung quanh, cũng như lợi ích kinh tế, chính trị và xã hội của dự án trong dài hạn.
Giai đoạn 2 (B=Build) bao gồm việc thực hiện dự án, thiết kế chi tiết và xây dựng Đầu tiên, cần ký kết hợp đồng BOT với cơ quan nhà nước có thẩm quyền Tiếp theo, triển khai thiết kế dự án theo các quyết định đã được thẩm tra và phê duyệt Đồng thời, huy động nguồn vốn để thực hiện dự án và phân bổ nguồn tiền vào các giai đoạn khác nhau Cuối cùng, tiến hành nghiệm thu dự án để đưa vào sử dụng.
Giai đoạn 3 (O=Operation) là giai đoạn vận hành và khai thác công trình, thuộc sự quản lý của nhà đầu tư Trong giai đoạn này, nhà đầu tư sẽ tiến hành khai thác để thu hồi chi phí đầu tư và chịu trách nhiệm về các chi phí bảo trì, bảo dưỡng cũng như chi phí quản lý - vận hành Thời gian vận hành khai thác được xác định dựa trên cam kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, và các điều kiện này sẽ được quy định rõ ràng trong hợp đồng BOT.
Giai đoạn 4 (T=Transfer) là giai đoạn chuyển giao, trong đó nhà đầu tư phải chuyển nhượng quyền sở hữu công trình cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau khi hết thời gian khai thác theo hợp đồng BOT Tại giai đoạn này, người nhận chuyển giao sẽ không còn quyền thu phí từ dự án, và quyền lợi sẽ được chuyển giao cho cộng đồng cư dân Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nhà nước có thể tiếp tục khai thác và thu phí để bổ sung ngân sách địa phương.
Chuẩn bị đầu tư Thực hiện đầu tư Vận hành, khai thác Chuyển giao (B=Build) (O=Operation) (T=Transfer)
Hình 2.1 Các giai đoạn của dự án BOT
2.1.2 Phạm vi được đầu tư dự án BOT [17]
Chính phủ khuyến khích thực hiện các dự án xây dựng, vận hành và quản lý công trình kết cấu hạ tầng mới, cũng như cải tạo, mở rộng và hiện đại hóa các công trình hiện có Những lĩnh vực ưu tiên bao gồm: đường bộ, cầu đường bộ, hầm đường bộ và bến phà; đường sắt, cầu đường sắt và hầm đường sắt; cảng hàng không, cảng biển và cảng sông; hệ thống cung cấp nước sạch, thoát nước, thu gom và xử lý nước thải, chất thải; nhà máy điện và đường dây tải điện; cùng với các công trình kết cấu hạ tầng khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
2.1.3 Nguồn vốn thực hiện dự án [17]
Nhà đầu tư hoặc Doanh nghiệp dự án phải tự thu xếp các nguồn vốn để thực hiện Dự án theo thỏa thuận tại Hợp đồng dự án.
HĐ BOT Xây dựng V ận h ành và b ảo dưỡng Chuy ển giao quy ền sở hữu
Đối với dự án có tổng vốn đầu tư dưới 1.500 tỷ đồng, doanh nghiệp dự án phải đảm bảo tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu là 15% tổng vốn đầu tư Trong trường hợp dự án có tổng vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu sẽ được xác định theo nguyên tắc lũy tiến từng phần.
- Đối với phần vốn đầu tư đến 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu của Doanh nghiệp dự án không được thấp hơn 15% của phần vốn này;
Đối với các dự án có vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng, doanh nghiệp cần đảm bảo tỷ lệ vốn chủ sở hữu không thấp hơn 10% tổng vốn Nghị định 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 quy định rằng trong tổng vốn thực hiện dự án, vốn nhà nước không được vượt quá 49% tổng vốn đầu tư, nhằm đảm bảo ý nghĩa huy động vốn từ toàn xã hội cho các dự án BOT.
S ự th ành công c ủa dự án BOT
Có nhiều nghiên cứu về sự thành công của dự án và các tiêu chí để đánh giá sự thành công của dự án như:
Theo quan điểm đánh giá dự án truyền thống, Blaney (1989) đã đưa ra tiêu chí đánh giá dự án thành công dựa trên 3 mục tiêu:
Hình 2.2 Các mục tiêu đánh giá thành công dự án của Blaney (1989)
Thời gian Yêu cầu kỹ thuật
Mặc dù ba mục tiêu quan trọng là thời gian, đặc điểm kỹ thuật và ngân sách đã được thiết lập, nhưng chúng không đủ để đánh giá các yếu tố khác như chất lượng dự án và mức độ hài lòng của chủ dự án.
Dựa trên nghiên cứu của Blaney (1989), Baccarini (1999) đã phát triển mô hình tam giác mục tiêu truyền thống bằng cách bổ sung hai yếu tố quan trọng: quy trình đảm bảo chất lượng và sự thỏa mãn của khách hàng.
Hình 2.3 Các mục tiêu đánh giá thành công dự án của Baccarini (1999)
Shenhar (1997) đề xuất một hệ thống mục tiêu để đánh giá thành công của dự án xây dựng, trong đó sự thành công được xem xét qua bốn khía cạnh theo thời gian.
- Đo lường trong giai đoạn thi công xây dựng và ngay khi dự án hoàn thành
- Đo lường trong giai đoạn sau khi dự án hoàn thành một thời gian ngắn, khi dự án được chuyển giao cho khách hàng
- Đo lường sau khi dự án đã hoàn thành mục tiêu kinh doanh ( sau 1-2 năm)
- Đo lường 5 năm sau khi hoàn thành dự án
Thời gian Yêu cầu kỹ thuật
Thỏa mãn yêu cầu chủ dự ánChất lượng của quy trình quản lý dự án
Hình 2.4 Các mục tiêu đánh giá thành công dự án của Shenhar (1997)
Atkinson (1999) trong một mô hình xác định dự án thành công tương tự trong ba giai đoạn:
- Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn giao hàng: quá trình làm đúng;
- Giai đoạn thứ hai là giai đoạn sau giao hàng: hệ thốngđúng;
- Giai đoạn cuối cùng cũng thuộc sau giao hành: lợi nhuận đạt
Chuẩn bị cho tương lai
- Chuẩn bị về tổ chức và hạ tầng
Thành công trong kinh doanh
- Đo lường thời gian thực hiện, chu kỳ thời gian năng xuất, chất lượng
Tác động đến khách hàng
- Liên quan đến khách hàng
- Hoàn thành đúng tiến độ
- Bên trong giới hạn ngân sách
Hình 2.5 Các mục tiêu đánh giá thành công dự án của Atkinson (1999)
Lim và Mohamed (1999) nhấn mạnh rằng sự thành công của dự án cần được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, bao gồm quan điểm của các chủ sở hữu cá nhân, nhà phát triển, nhà thầu, người sử dụng và công chúng Vì vậy, tác giả đánh giá thành công của dự án dựa trên cả hai khía cạnh vĩ mô và vi mô.
Nghiên cứu của Lim và Mohamed (1999) đã đưa ra các mục tiêu đánh giá thành công dự án xây dựng, được nhiều nhà nghiên cứu công nhận vì tính bao quát và rõ ràng Định nghĩa về thành công của dự án xây dựng đã được bàn luận qua nhiều nghiên cứu với những quan điểm khác nhau.
Giai đoạn sau giao hàng
- Tác động đến khách hàng
- Lợi nhuận: cổ đông, khách hàng, nhân viên dự án
- Tiêu chuẩn từ cấp quản lý
- Hiệu quả Ở nghiên cứu này, sự thành công của dự án được cụ thể hóa từ quan điểm vi mô của tác giả Lim và Mohamed (1999) như sau:
- HSSE&S ( Sức khỏe, an toàn, an ninh, môi trường và xã hội)
Yêu cầu về chất lượng và HSSE&S là điều kiện bắt buộc trong các dự án, và nhà đầu tư luôn ưu tiên tiến độ hoàn thành cùng hiệu quả tài chính sau khi đáp ứng các tiêu chí này Do đó, nghiên cứu này tập trung vào các dự án với mục tiêu lợi nhuận kinh tế và tiến độ Để một dự án BOT thành công, cần xem xét nhiều khía cạnh khác nhau.
Bảng 2.1: Tiêu chí đánh giá sự thành công của dự án BOT
STT Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công dự án
Yếu tố đo lường sự thành công của dự án
1 Nguồn thu của dự án (Doanh thu); tỷ lệ % thu nhập đạt được so với dự kiến trong điều kiện bình thường.
2 Dòng tiền giải ngân trong dự án (Kinh phí, thời gian); số ngày sớm
(hoặc chậm trễ) so với tiến độ dự kiến trong điều kiện bình thường, tỷ lệ % giải ngân so với khối lượng thực hiện.
3 Tiến độ hoàn thành dự án (Thời gian); số ngày sớm ( hoặc chậm trễ) so với tiến độ dự kiến trong điều kiện bình thường.
4 Tổng mức đầu tư (Kinh phí); tỷ lệ % tổng giá trị quyết toán so với tổng mức đầu tư đã lập trong điều kiện bình thường.
Các nghiên c ứu về đánh giá dự án BOT
2.3.1 Các nghiên cứu nước ngoài
Quản lý rủi ro và đánh giá thành công của các dự án xây dựng đã thu hút sự chú ý đáng kể từ nhiều nhà nghiên cứu Nhiều mô hình đánh giá đã được phát triển để phân tích và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của dự án Một số nghiên cứu tiêu biểu đã được thực hiện trong lĩnh vực này.
Tarek.M.Z và Luh-Maan Chang (2002) đã phát triển mô hình đánh giá rủi ro cho dự án BOT thông qua thuật toán AHP Nghiên cứu này giới thiệu hệ số rủi ro (F) được hình thành từ bốn nhóm yếu tố tác động chính.
(1) Giai đoạn phát triển dự án;
(2) Giai đoạn thi công xây dựng;
(4) Nhân tố ảnh hưởng chung;
Nghiên cứu của Sharmila Mane và S.S Pimplikar (2013) về đánh giá rủi ro các dự án hạ tầng đầu tư theo hình thức BOT tại Ấn Độ đã chỉ ra ba nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến sự thành công của các dự án này.
Nghiên cứu chỉ xác định các nhóm nhân tố và đề xuất giải pháp khắc phục cho từng nhóm, nhưng chưa đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến hiệu quả của dự án.
A.V.Thomas và các cộng sự(2006) đã phân tích các rủi ro ảnh hưởng đến dự án BOT cầu đường tại Ấn Độ Nghiên cứu đã chỉ ra các nhóm rủi ro chính có ảnh hưởng lớn đến dự án BOT đường bộ tại Ấn Độ được sắp xếp theo thứ tự giảm dần mức độ ảnh hưởng, gồm các nhóm rủi ro chính:
(1) Rủi ro về thu nhập từ phí giao thông;
(2) Rủi ro từ chậm trễ giải phóng mặt bằng, thu hồi đất;
(3) Rủi ro từ việc giảm nhu cầu đi lại trên các đoạn đường có đi qua dự án;
(4) Rủi ro trong việc chậm trễ giải ngân;
(5) Rủi ro trong việc hoàn thành dự án (Dự án có khả năng không hoàn thành hoặc hoàn thành không đạt tiến độ);
(6) Rủi ro về việc vượt chi phí đã định;
(7) Rủi ro từ dịch vụ cho vay tín dụng;
(8) Rủi ro từ môi trường chính trị.
Syed Kamarul Bakri Syed Ahmad Bokharey và các cộng sự (2010) đã thực hiện nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của dự án BOT Nghiên cứu này cũng đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các dự án BOT, góp phần cải thiện quản lý và triển khai dự án trong lĩnh vực này.
Các nghiên cứu này chủ yếu được thực hiện ở nước ngoài, do đó khi áp dụng vào các dự án tại Việt Nam sẽ gặp nhiều hạn chế Điều này xuất phát từ việc Việt Nam có nhiều điều kiện khác biệt, cả khách quan lẫn chủ quan, so với các quốc gia mà các nghiên cứu đã được thực hiện.
2.3.2 Các nghiên cứu trong nước
Trong nghiên cứu “Đánh giá các rủi ro trong dự án công trình giao thông tại Việt Nam” (2007), Trịnh Thùy Anh đã xác định ba nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến các dự án công trình giao thông tại Việt Nam.
(1) Nhân tố trong chủ trương đầu tư;
(2) Nhân tố trong triển khai và điều hành kế hoạch đầu tư;
(3) Nhân tố trong quá trình vận hành, khai thác
Nghiên cứu này đã xác định các nhóm nhân tố chính và phân tích ảnh hưởng của chúng đến các dự án giao thông, đồng thời đề xuất biện pháp phòng ngừa Tuy nhiên, nghiên cứu chưa chỉ ra các nhân tố đặc thù của các dự án thực hiện theo hình thức hợp đồng BOT và cũng chưa thiết lập mô hình đánh giá mức độ tác động đến sự thành công của dự án BOT trong điều kiện Việt Nam.
Nguyễn Văn Giàu trong nghiên cứu "Phương thức đối tác công tư (PPP): kinh nghiệm quốc tế và khuôn khổ thể chế tại Việt Nam" đã chỉ ra những khó khăn trong việc thực hiện hình thức PPP, bao gồm cả BOT, và đề xuất giải pháp để hoàn thiện khuôn khổ thể chế PPP tại Việt Nam Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa liệt kê đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của các dự án PPP và không tiến hành đánh giá một dự án cụ thể nào.
Các nghiên cứu trong và ngoài nước về đánh giá sự thành công của các dự án BOT cho thấy rằng, mặc dù phương pháp nghiên cứu nước ngoài khá đầy đủ, nhưng môi trường và điều kiện thực hiện lại khác biệt.
Việt Nam còn những nghiên cứu tại Việt Nam lại chưa có nghiên cứu cụ thể cho dự án
Nghiên cứu này sẽ tập trung vào phương pháp định tính, áp dụng mô hình của các tác giả nước ngoài vào bối cảnh thực tế tại Việt Nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thi ết kế nghi ên c ứu
Nghiên cứu được thực hiện qua hai giai đoạn chính: đầu tiên là nghiên cứu định tính để xây dựng bản phỏng vấn, tiếp theo là nghiên cứu định lượng nhằm thu thập và phân tích dữ liệu khảo sát, cũng như ước lượng và kiểm định mô hình Quy trình nghiên cứu được minh họa trong hình 3.1.
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu
- Kiểm định bằng hệ số nhất quán (CR)
- Xây dựng véc tơ trọng số Áp dụng dự án và viết báo cáo
Xem xét các tài liệu liên quan đến các nhân tố tác động đến sự thành công của dự án BOT
Bảng phỏng vấn sơ bộ
(Phỏng vấn với 15 chuyên gia)
- Thống kê mô tả, xây dựng cấu trúc thứ bậc
- Kiểm định thang đo bằng Cronback’s Anpha
Nghiên cứu định tính được tiến hành bằng phương pháp thảo luận nhóm tập trung nhằm điều chỉnh thang đo và xây dựng nhóm nhân tố Mục tiêu của giai đoạn này là bổ sung hoặc loại bỏ các biến quan sát, cụ thể là các nhân tố thuộc thứ bậc thấp hơn trong mô hình AHP.
Trong giai đoạn cuối của nghiên cứu định tính, chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu 15 chuyên gia am hiểu về các dự án đầu tư BOT tại ba tỉnh thành để xác định các yếu tố phục vụ cho nghiên cứu định lượng Nội dung chi tiết của bảng câu hỏi được trình bày trong phụ lục 1.
Quá trình nghiên cứu định lượng bao gồm hai bước chính Bước đầu tiên là xây dựng bảng câu hỏi để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố, dựa trên đánh giá trung bình và kiểm định Cronbach’s Alpha Bước thứ hai là tạo bảng câu hỏi phục vụ cho việc xây dựng ma trận so sánh cặp, từ đó hình thành véc tơ trọng số trong phương pháp AHP.
Để tăng độ chính xác và giảm độ rộng của khoảng tin cậy, một phương pháp đơn giản là tăng kích thước mẫu Tuy nhiên, độ chính xác chỉ cải thiện theo tỷ lệ với căn bậc hai của kích thước mẫu, điều này có nghĩa là chi phí lấy mẫu tăng lên nhanh hơn nhiều so với sự gia tăng của độ chính xác.
Công thức tính toán kích thước mẫu như sau:
S X : độ lệch chuẩn của trị trung bình của mẫu
SX : độ lệch chuẩn của mẫu
E : sai số cho php, khoảng tin cậy;
Giá trị Z trong phân phối chuẩn được xác định dựa trên hệ số tin cậy Kích thước mẫu phụ thuộc vào mức độ chấp nhận rủi ro (được biểu thị bằng giá trị Z), độ biến thiên của quần thể (ước lượng qua độ lệch chuẩn) và khoảng tin cậy (sai số cho php).
Việc tính toán kích thước mẫu thực tế phức tạp hơn nhiều so với công thức đơn giản Thông thường, chúng ta không biết độ lệch chuẩn cho đến khi bắt đầu lấy mẫu, nhưng lại cần biết thông tin này để xác định kích thước mẫu trước khi khảo sát Giá trị độ lệch chuẩn thường chỉ là ước lượng, có thể được lấy từ các nghiên cứu trước, nghiên cứu thí điểm hoặc phỏng vấn thử nghiệm Đôi khi, ta cũng bắt đầu với một kích thước mẫu thử nghiệm, sau đó tính toán độ lệch chuẩn từ dữ liệu thu thập được để điều chỉnh kích thước mẫu cho phù hợp.
Trong việc tính toán kích thước mẫu, thường gặp nhiều khó khăn, do đó, việc áp dụng công thức này ít được phổ biến, đặc biệt khi mục tiêu của dự án không yêu cầu độ chính xác cao cho các thông số dự đoán.
Quy luật phỏng đoán cho thấy bằng kinh nghiệm rằng cần ít nhất 30 phần tử trong một mẫu để giá trị thống kê có ý nghĩa.
Theo Hoelter (1983), số lượng mẫu tới hạn là 200 mẫu
Theo Bollen (1989), số lượng mẫu tối thiểu phải là 5 mẫu cho một tham số cần ước lượng (tỷ lệ 5:1).
Trong nghiên cứu định lượng, việc sử dụng các thang đo lường phù hợp là rất quan trọng do tính phức tạp của các hiện tượng kinh tế - xã hội Để đảm bảo độ tin cậy của nghiên cứu, các thang đo cần được xây dựng và kiểm tra trước khi sử dụng Kiểm định thang đo giúp xác định các mục hỏi nào phù hợp với khái niệm lý thuyết đang nghiên cứu và những mục hỏi nào không liên quan Quá trình này bao gồm hai phép tính: tương quan giữa các mục hỏi và tương quan giữa điểm số của từng mục hỏi với điểm số tổng hợp của toàn bộ bảng câu hỏi.
Hệ số Cronbach’s Alpha là một chỉ số thống kê quan trọng dùng để đánh giá mức độ liên kết giữa các mục hỏi trong thang đo Phép kiểm định này giúp xác định tính đơn khía cạnh của thang đo thông qua phương pháp kiểm tra độ tin cậy chia đôi, từ đó đảm bảo độ tin cậy của các công cụ đo lường.
Công thức tính hệ số Cronbach’s Alpha:
Trong đó: n : số biến (items) trong mẫu;
2 : phương sai của biến thứ i;
St 2 : phương sai của tổng cc biến;
: có giá trị 0