1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996 2011 , luận văn thạc sĩ

68 32 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Bộ Ba Bất Khả Thi Ở Việt Nam Giai Đoạn 1996 - 2011
Tác giả Huỳnh Thị Mai Trúc
Người hướng dẫn PGS – TS Nguyễn Thị Liên Hoa
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM
Chuyên ngành Tài Chính – Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2012
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 68
Dung lượng 3,16 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU (12)
  • CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY (14)
    • 2.1 Mô hình bộ ba bất khả thi của Mundell – Fleming (1963) (14)
    • 2.2 Các nghiên cứu về bộ ba bất khả thi của nhóm tác giả Joshua Aizenman, (15)
    • 2.3 Một số nghiên cứu về bộ ba bất khả thi cho các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển (25)
      • 2.3.1 Sự thay đổi cấu trúc tài chính trong xu thế toàn cầu hóa (25)
      • 2.3.2 Quan hệ giữa dự trữ ngoại hối và bộ ba bất khả thi trong thời kỳ khủng hoảng (27)
      • 2.3.3 Sự lựa chọn bộ ba bất khả thi của các nước mới nổi và đang phát triển (29)
    • 3.2 Xây dựng các chỉ số (32)
      • 3.2.1 Chỉ số tiền tệ độc lập (MI) (32)
      • 3.2.2 Chỉ số ổn định tỷ giá hối đoái (ERS) (34)
      • 3.2.3 Chỉ số hội nhập tài chính (KAOPEN) (36)
  • CHƯƠNG 4: NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (38)
    • 4.1 Sự phát triển của các chỉ số bộ ba bất khả thi (38)
      • 4.1.1 Mẫu hình kim cương (38)
      • 4.1.2 Đồ thị biểu diễn sự phát triển các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt (40)
      • 4.1.3 Sự ảnh hưởng của các sự kiện kinh tế tài chính nổi bật đến sự thay đổi các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam (41)
    • 4.2 Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba bất khả thi (42)
    • 4.3 Hiệu quả của sự kết hợp các chính sách (44)
    • 4.4 Tác động của bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối đối với tăng trưởng (45)
      • 4.4.1 Ước lượng mô hình tổng quát (48)
      • 4.4.2 Ước lượng các chỉ số tổng hợp (49)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ....................................................................................... 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO (51)
  • PHỤ LỤC (56)

Nội dung

GIỚI THIỆU

Nhiều nghiên cứu của các tác giả nổi tiếng đã chỉ ra tác động của bộ ba bất khả thi đến nền kinh tế vĩ mô, thu hút sự quan tâm của các nhà làm chính sách Các nghiên cứu này không chỉ áp dụng cho các nước phát triển mà còn cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi Tại Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước đã có những chuyển biến tích cực Quyết định gia nhập thị trường tài chính toàn cầu vào cuối những năm 80 đã mở ra nhiều cơ hội phát triển Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, như khủng hoảng kinh tế và ổn định tỷ giá.

Nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển cho thấy tầm quan trọng của việc tích trữ ngoại hối như một biến số thứ tư, nhằm cân bằng các yếu tố trong bộ ba này Bài viết sẽ đo lường các chỉ số của bộ ba bất khả thi và phân tích tác động của chính sách cùng dự trữ ngoại hối đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là mối quan hệ tuyến tính giữa ba chỉ số và ảnh hưởng của chúng đến tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả sẽ tập trung vào các đối tượng nghiên cứu cụ thể.

Chỉ số mức độ độc lập tiền tệ (MI);

Chỉ số ổn định tỷ giá hối đoái (ERS);

Chỉ số độ mở cửa tài chính (KAOPEN);

Mức độ dự trữ ngoại hối (IR)

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam (GDP)

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích các chỉ số của bộ ba bất khả thi, dự trữ ngoại hối và tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn 1996 - 2011.

Trong luận văn này tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Từ năm 1996 đến 2011, việc tính toán các chỉ số của bộ ba bất khả thi tại Việt Nam được thực hiện dựa trên phương pháp của Aizenman, Chinn và Hiro Ito Nghiên cứu này nhằm đánh giá khả năng quản lý chính sách tiền tệ và tài chính trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tương tác giữa tỷ giá hối đoái, lãi suất và dòng vốn Kết quả cho thấy sự thay đổi trong các chỉ số này có ảnh hưởng đáng kể đến ổn định kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu.

Bài viết này sử dụng các mô hình hồi quy để kiểm định mối tương quan tuyến tính giữa các chỉ số bộ ba bất khả thi và tác động của chúng cùng với dự trữ ngoại hối đối với GDP của Việt Nam Dữ liệu được thu thập từ “International Financial Statistics” năm 2011 của IMF cho các chỉ số lãi suất và tỷ giá, trong khi các thông tin về GDP, dòng vốn đầu tư và dự trữ ngoại hối được lấy từ “World Development Indicators” của Ngân hàng Thế giới.

Tác giả sử dụng phần mềm Excel và Megastat Excel 2007 để tính toán các chỉ số bộ ba bất khả thi dựa trên nguồn dữ liệu thu thập được, nhằm phân tích và xử lý dữ liệu một cách hiệu quả.

Kết cấu của luận văn: Luận văn bao gồm 5 chương chính:

Chương 2: Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Chương 4: Nội dung và kết quả nghiên cứu

TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

Mô hình bộ ba bất khả thi của Mundell – Fleming (1963)

Mô hình bộ ba bất khả thi của Mundell – Fleming (1963) chỉ ra rằng một quốc gia không thể đồng thời đạt được ba mục tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, chế độ tỷ giá hối đoái ổn định và tự do tài chính Mô hình này được minh họa bằng một tam giác, trong đó mỗi cạnh đại diện cho một mục tiêu và các đỉnh tương ứng với các công cụ chính sách Cụ thể, mục tiêu hội nhập tài chính đối lập với kiểm soát vốn, mục tiêu ổn định tỷ giá đối lập với tỷ giá thả nổi hoàn toàn, và mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập đối lập với liên minh tiền tệ Do đó, việc đạt được cả ba mục tiêu là không khả thi.

Hình 2.1: Tam giác bất khả thi

Các nghiên cứu về bộ ba bất khả thi của nhóm tác giả Joshua Aizenman,

Dựa trên lý thuyết bộ ba bất khả thi, nhiều nhà kinh tế học đã nghiên cứu để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn mẫu hình này Nổi bật trong nghiên cứu là nhóm tác giả Joshua Aizenman, Menzie D Chinn và Hiro Ito, những người đã chỉ ra các lợi ích của bộ ba bất khả thi và phát triển các thang đo mới cho độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính Họ cũng đã phân tích mối quan hệ giữa mẫu hình bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối so với GDP Aizenman, Chinn và Ito (2008) đã khẳng định rằng các cuộc khủng hoảng lớn trong bốn thập niên qua, như sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, đều bắt nguồn từ sự đổ vỡ của cấu trúc tài chính.

Các tác giả đã xem xét sự phát triển của cơ cấu chính sách liên quan đến bộ ba bất khả thi và nắm giữ DTNH Trong thập niên qua, các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi, đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ DTNH, đồng thời có xu hướng hội tụ về mức trung bình của bộ ba bất khả thi Nghiên cứu cũng thử nghiệm mối quan hệ tuyến tính giữa các chỉ số của bộ ba bất khả thi, cho thấy tổng trọng của ba yếu tố chính sách là không đổi; sự gia tăng của một yếu tố sẽ dẫn đến sự giảm hiệu quả của hai yếu tố còn lại.

Trong bài nghiên cứu "Giả thuyết 'Bộ ba bất khả thi' trong thời đại khủng hoảng toàn cầu: Sự đo lường và kiểm định" của nhóm tác giả Joshua Aizenman, Menzie D Chinn, và Hiro Ito (2008), các tác giả đã khắc phục sự thiếu hụt trong lý thuyết nguyên thủy của bộ ba bất khả thi bằng cách phát triển các công cụ đo lường các chỉ số liên quan Nghiên cứu này đưa ra các phương pháp cụ thể để tính toán các yếu tố của bộ ba bất khả thi, từ đó cung cấp một cách tiếp cận rõ ràng hơn trong việc phân tích các chỉ số này.

Chỉ số độc lập tiền tệ (MI) được xác định thông qua sự tương quan hàng năm của lãi suất hàng tháng giữa một quốc gia và quốc gia cơ sở, được tính toán bằng một công thức cụ thể.

Trong nghiên cứu này, i đại diện cho nước nghiên cứu và j là nước cơ sở, với lãi suất sử dụng được xác định dựa trên thị trường tiền tệ Chỉ số MI, dao động từ 0 đến 1, cho thấy mức độ độc lập của chính sách tiền tệ; chỉ số càng cao, mức độ độc lập càng lớn.

Chỉ số ổn định tỷ giá (ERS) được xác định thông qua độ lệch chuẩn hàng năm của tỷ giá hàng tháng giữa quốc gia nghiên cứu và quốc gia cơ sở.

Chỉ số ERS cũng biến thiên trong khoảng từ 0 đến 1, chỉ số này càng cao cho thấy sự ổn định tỷ giá hối đoái và ngược lại

Chỉ số hội nhập tài chính (KAOPEN) do Chinn và Ito (2008) đề xuất nhằm đo lường mức độ hội nhập tài chính thông qua độ mở tài khoản vốn, dựa trên thông tin từ báo cáo hàng năm về cơ chế tỷ giá và các hạn chế ngoại hối do Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) phát hành KAOPEN là chỉ số quan trọng phản ánh sự tồn tại của cơ chế đa tỷ giá, các hạn chế trong giao dịch tài khoản vãng lai và tài khoản vốn, cũng như yêu cầu về việc bỏ nguồn thu xuất khẩu Một quốc gia áp dụng chính sách đa tỷ giá thường đi kèm với các biện pháp kiểm soát vốn nghiêm ngặt.

KAOPEN được đề xuất dựa trên độ mở tài khoản vốn theo pháp lý, phản ánh mục tiêu chính sách của các quốc gia Chỉ số này dao động từ 0 đến 1, với giá trị cao cho thấy mức độ mở cửa với giao dịch vốn xuyên quốc gia Để tóm tắt xu hướng của các quốc gia, nhóm tác giả đã xây dựng một sơ đồ hình thoi, bao gồm ba yếu tố của bộ ba bất khả thi: chính sách tiền tệ độc lập, tỷ giá hối đoái ổn định và hội nhập tài chính, cùng với yếu tố thước đo quỹ dự trữ ngoại hối (IR/GDP) Các thước đo này cũng biến thiên trong khoảng từ 0 đến 1, thể hiện xu hướng lựa chọn bộ ba bất khả thi của các quốc gia qua các năm.

1971 – 2006 được thể hiện trong hình 2.2, cho thấy xu hướng của các nước như sau:

Các nước công nghiệp hóa (IDC) đang trải qua xu hướng hội nhập tài chính, dẫn đến việc giảm bớt chính sách độc lập về tiền tệ và ổn định tỷ giá Trong khi đó, các nước không sử dụng đồng Euro, mặc dù có mức độ hội nhập tài chính tương tự, lại duy trì cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn và có nhiều tự chủ hơn về chính sách tiền tệ.

Các nền kinh tế mới nổi (EMG) đang gia tăng hội nhập tài chính, cho thấy sự linh hoạt hơn trong tỷ giá hối đoái và giảm bớt sự độc lập tiền tệ Trong khi đó, các nước đang phát triển nhưng không phải thị trường mới nổi (Non-EMG) cũng đang dần mở cửa tài chính, nỗ lực đạt được mức độ ổn định tỷ giá nhất định mà vẫn duy trì sự độc lập tiền tệ.

Nhóm các nước mới nổi có khả năng tăng dự trữ ngoại hối dễ dàng hơn, tạo ra một khoản đệm an toàn trong bối cảnh bộ ba bất khả thi Trong khi đó, các quốc gia phát triển không phải thị trường mới nổi chỉ tăng dự trữ ngoại hối ở mức vừa phải, và các nước công nghiệp giữ tỷ lệ dự trữ ở mức thấp nhất Điều này giúp các nền kinh tế mới nổi đạt được sự cân bằng tương đối giữa ba mục tiêu vĩ mô trong những năm 2000, điều mà không một nhóm nước nào khác có thể thực hiện.

Hình 2.2: Cấu hình bộ ba bất khả thi và dự trữ quốc tế theo thời gian

Nghiên cứu của Aizenman, Chinn và Ito (2008) đã kiểm tra mối liên hệ giữa các sự kiện kinh tế tài chính quan trọng và sự thay đổi trong cấu trúc bộ ba bất khả thi, hay còn gọi là điểm gãy cấu trúc Những sự kiện tài chính được xem xét bao gồm sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods năm 1973, khủng hoảng nợ ở Mexico năm 1982, và khủng hoảng Châu Á năm 1997-1998 Ngoài ra, nghiên cứu cũng đề cập đến làn sóng toàn cầu hóa trong thập niên 1990 và sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001.

Các năm 1982, 1990, 1997-1998 và 2001 đánh dấu thời điểm xảy ra sự phá vỡ cấu trúc bộ ba bất khả thi Những năm này cũng là thời kỳ thực hiện kiểm định sự bằng nhau giữa giá trị trung bình của các nhóm mẫu con, phản ánh sự ảnh hưởng của các sự kiện này đến các phân tích thống kê.

Kết quả từ các biến và mẫu trong phụ lục 2 cho thấy rằng các sự kiện trong các năm khác nhau đã gây ra sự thay đổi trong mô hình bộ ba bất khả thi, nhưng mức độ thay đổi khác nhau giữa các nhóm nước Đối với các nước mới nổi (EMG), sự phá vỡ cấu trúc của chính sách tiền tệ độc lập và tỷ giá hối đoái ổn định đã xảy ra vào năm 2001 và 1982 Trong khi đó, sự sụp đổ của làn sóng toàn cầu hóa năm 1990 là sự kiện quan trọng nhất đối với các nước Non-EMG, thì cuộc khủng hoảng Châu Á lại là sự kiện then chốt đối với các nước EMG Các nhà làm chính sách cần ưu tiên lựa chọn trong ba chính sách để tìm ra sự kết hợp tốt nhất giữa hai trong ba chính sách của bộ ba bất khả thi, và sự ưu tiên này sẽ thay đổi tùy theo từng giai đoạn.

Các tác giả đã tiến hành kiểm định tính khả thi của mô hình bộ ba bất khả thi bằng cách sử dụng hàm hồi quy đơn giản, với giả định rằng tổng tỷ trọng của ba biến là một hằng số.

Một số nghiên cứu về bộ ba bất khả thi cho các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển

2.3.1 Sự thay đổi cấu trúc tài chính trong xu thế toàn cầu hóa

Joshua Aizenman (2010) cho rằng toàn cầu hóa tài chính quy mô lớn trong những năm 1990-2000 đã làm thay đổi bối cảnh của bộ ba bất khả thi Hệ quả không mong muốn của quá trình này là sự gia tăng bất ổn định tài chính, liên quan đến sự dừng đột ngột của các dòng vốn vào, thoái vốn và giảm nợ.

Trong ba thập kỷ qua, sự phát triển đáng chú ý của các thị trường mới nổi được lý giải bởi nỗ lực theo đuổi hội nhập tài chính, đồng thời vẫn duy trì sự ổn định tài chính.

Vào năm 1980, tỷ giá hối đoái linh hoạt gia tăng, dẫn đến sự gia tăng đáng kể của tỷ lệ IR/GDP Đáng chú ý, phần lớn sự gia tăng dự trữ được nắm giữ xảy ra ở các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là ở khu vực Đông Á mới nổi.

Hội nhập tài chính ở các nước đang phát triển đã tạo ra sự thay đổi đáng kể trong nhu cầu dự trữ quốc tế, trước đây chỉ đơn thuần là công cụ tự bảo hiểm chống lại các dòng chảy thương mại không ổn định Tuy nhiên, sự hội nhập này cũng đòi hỏi các quốc gia phải tự bảo đảm trước các dòng chảy tài chính bất ổn, do tính biến động của thị trường tài chính và sự gia tăng nhanh chóng của rủi ro Điều này dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ gia tăng, với động cơ tự bảo hiểm tài chính trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, đặc biệt sau các cuộc khủng hoảng Đông Á, khi các quốc gia bị ảnh hưởng đã có phản ứng mạnh mẽ bằng cách gia tăng đáng kể kho dự trữ của mình.

Mối liên hệ giữa dự trữ tích trữ và hội nhập tài chính cung cấp thêm một khía cạnh của bộ ba bất khả thi Trong ngắn hạn, các quốc gia kỳ vọng rằng việc quản lý dự trữ ngoại hối sẽ tăng cường ổn định tài chính và cho phép thực hiện chính sách tiền tệ độc lập, điều này đặc biệt quan trọng đối với các thị trường mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ, nơi sử dụng chính sách vô hiệu hóa để kiểm soát lạm phát Ngược lại, các nước công nghiệp với tỷ lệ IR/GDP thấp có khả năng tiếp cận dễ dàng thông qua trao đổi song phương và có khả năng vay ngoại tệ, phản ánh sự linh hoạt trong quản lý nhu cầu ngoại tệ khẩn cấp.

Kinh nghiệm từ các thị trường mới nổi cho thấy rằng, mặc dù khả năng hội nhập tài chính còn hạn chế, các quốc gia có thể nới lỏng một số hạn chế của bộ ba bất khả thi trong ngắn hạn thông qua việc tích trữ dự trữ ngoại hối Sự tương phản giữa Mỹ Latinh và các nền kinh tế mới nổi châu Á minh chứng cho điều này: Mỹ Latinh đã nhanh chóng tự do hóa thị trường tài chính từ những năm 1990, nhưng lại giảm độc lập tiền tệ và duy trì ổn định tỷ giá hối đoái ở mức thấp Ngược lại, các nền kinh tế mới nổi châu Á đã đạt được ổn định tỷ giá hối đoái và hội nhập tài chính cao hơn, đồng thời duy trì độc lập tiền tệ lớn hơn Hai nhóm nền kinh tế này phân biệt rõ rệt qua mức độ dự trữ ngoại hối cao Trung Quốc, ví dụ, đã gia tăng dự trữ ngoại hối trong khi dần dần mở cửa tài chính mà không từ bỏ ổn định tỷ giá hối đoái và độc lập tiền tệ Điều này cho thấy rằng nỗ lực nới lỏng bộ ba bất khả thi trong ngắn hạn thường đi kèm với sự gia tăng dự trữ ngoại hối.

2.3.2 Quan hệ giữa dự trữ ngoại hối và bộ ba bất khả thi trong thời kỳ khủng hoảng

Theo nghiên cứu của Joshua Aizenman, Menzie D Chinn và Hiro Ito, trong 20 năm qua, nhiều quốc gia đang phát triển đã chuyển sang áp dụng hệ thống tỷ giá hối đoái hỗn hợp, như tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, nhằm tăng cường dự trữ ngoại tệ Mặc dù hệ thống này mang lại sự linh hoạt hơn trong quản lý tỷ giá, tỷ lệ IR/GDP vẫn ghi nhận sự gia tăng đáng kể, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997-1998.

Sự tích lũy dự trữ ngoại hối không đồng đều giữa các quốc gia, với chỉ số IR/GDP của các nước công nghiệp hóa ổn định khoảng 4%, trong khi các quốc gia đang phát triển chứng kiến sự gia tăng từ 5% năm 1980 lên 27% vào năm 2006 Hiện nay, khoảng 2/3 dự trữ ngoại tệ toàn cầu thuộc về các quốc gia đang phát triển, chủ yếu tập trung ở Châu Á, nơi tỷ lệ IR/GDP tăng từ 5% lên 37% trong giai đoạn 1980-2006 (32% đối với các nước Châu Á không bao gồm Trung Quốc) Đặc biệt, Trung Quốc ghi nhận sự thay đổi mạnh mẽ khi chỉ số IR/GDP tăng từ 1% năm 1980 lên khoảng 41% năm 2006 và gần 50% vào năm 2008.

Từ sau cuộc khủng hoảng Châu Á 1997-1998, tỷ lệ dự trữ ngoại hối đã tăng đáng kể, nhưng lại giảm vào năm 2000 Đầu những năm 2000, Trung Quốc đã có sự gia tăng mạnh mẽ về dự trữ ngoại hối, đánh dấu một sự thay đổi cấu trúc quan trọng trong khu vực Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc được thể hiện trong hình 2.4 dưới đây.

Hình 2.4: Dự trữ ngoại hối/GDP, giai đoạn 1980 - 2006

Nguồn: Aizenman, Chinn và Ito (2010)

Toàn cầu hóa thị trường tài chính đang diễn ra mạnh mẽ trong bối cảnh hội nhập tài chính gia tăng trên toàn cầu Mặc dù mô hình nguyên bản của học thuyết bộ ba bất khả thi không đề cập đến vai trò của dự trữ ngoại tệ, các xu hướng gần đây cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa dự trữ ngoại tệ và sự thay đổi trong mô hình này, đặc biệt đối với các nước đang phát triển Nghiên cứu hiện nay nhấn mạnh vai trò của dự trữ ngoại tệ như một công cụ trung gian trong quản lý tỷ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát Tuy nhiên, mô hình này cũng gặp hạn chế trong việc giải thích sự gia tăng gần đây của dự trữ ngoại tệ, khi cho rằng sự linh hoạt trong chính sách tỷ giá có thể dẫn đến giảm lượng dự trữ, điều này trái ngược với những xu hướng quan sát được.

2.3.3 Sự lựa chọn bộ ba bất khả thi của các nước mới nổi và đang phát triển

Trong nghiên cứu "Châu Á đương đầu với bộ ba bất khả thi" của IIa Patnaik và Ajay Shah (2010), các tác giả chỉ ra rằng chính sách tiền tệ phản chu kỳ là một chiến lược quan trọng để ổn định tỷ giá, kiềm chế lạm phát và gia tăng sản lượng Hiện nay, phần lớn các quốc gia ở Châu Á đang trải qua sự phát triển mạnh mẽ trong hội nhập tài khoản vốn dưới chế độ tỷ giá cứng nhắc Khi các dòng vốn diễn ra theo chu kỳ, các giao dịch tiền tệ của ngân hàng nhà nước sẽ điều chỉnh dòng vốn mang tính chu kỳ theo chính sách tiền tệ tương ứng.

Năm 2010 cho thấy các nước EMG đã chuyển hướng sang chế độ tỷ giá linh hoạt hơn, tăng cường hội nhập tài chính và giảm độc lập tiền tệ so với các quốc gia đang phát triển không thuộc EMG Từ năm 2000, các quốc gia EMG đã trải qua quá trình hội tụ về mức trung bình của ba chỉ số này, trong khi các quốc gia không thuộc EMG vẫn chưa có xu hướng tương tự.

Chế độ trung gian của bộ ba bất khả thi phù hợp với các quốc gia đang phát triển và EMG, với vấn đề mấu chốt nằm ở việc kiểm soát vốn Kiểm soát vốn cho phép Chính phủ thực hiện chính sách tỷ giá và điều hành chính sách tiền tệ như những công cụ riêng biệt Do đó, cần xem xét mức độ kiểm soát vốn và cơ chế tỷ giá ở các nền kinh tế Châu Á đã diễn ra như thế nào.

Mức độ kiểm soát vốn

Patnaik & Shah (2010) chỉ ra rằng sự chênh lệch giữa giá trị thực và giá trị báo cáo từ hoạt động xuất, nhập khẩu của các dòng tài chính xuyên biên giới xảy ra khi giao dịch TKV lớn, hoạt động này giúp phá vỡ kiểm soát vốn Họ cũng khám phá rằng hội nhập TKV thực sự phát sinh khi các tập đoàn đa quốc gia đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, từ đó tổng các dòng vốn trên TKV trở thành một thước đo cho nền kinh tế toàn cầu hóa.

Chế độ tỷ giá hối đoái

Ila Patnaik và Ajay Shah (2010) đã tiến hành nghiên cứu chế độ tỷ giá của 11 nền kinh tế Châu Á thông qua mô hình hồi quy tuyến tính dựa trên tỷ giá trao đổi chéo Kết quả cho thấy có rất ít sự biến động đáng kể trong chế độ tỷ giá hối đoái thực.

Xây dựng các chỉ số

3.2.1 Chỉ số tiền tệ độc lập (MI)

Chỉ số này được xác định dựa trên mối liên hệ giữa lãi suất của Việt Nam và lãi suất của Mỹ Theo nghiên cứu của Ainzenman, Chinn và Ito (2008), lãi suất được xem xét là lãi suất trên thị trường tiền tệ hàng tháng.

Lãi suất của Việt Nam được ký hiệu là i i, trong khi lãi suất của Mỹ được ký hiệu là i j Tác giả đã sử dụng lãi suất thị trường tiền tệ của cả hai quốc gia để phân tích.

“International Financial Statistics” năm 2011 của IMF

Theo công thức trên thì MI có giá trị nằm trong khoảng từ 0 đến 1 MI càng lớn thì mức độ độc lập vào tiền tệ càng cao

Tác giả sử dụng phương pháp tính toán của nhóm tác giả Aizenman, Chinn, Ito cho kết quả tính toán như sau:

Bảng 3.1: Chỉ số độc lập tiền tệ (MI) của Việt Nam

Nguồn: tính toán của tác giả

Hình 3.1: Đồ thị biểu diễn mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam

Nguồn: Tính toán của tác giả

Từ năm 2000 trở về trước, mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam khá cao, với lãi suất Việt Nam và Mỹ có tương quan âm; lãi suất Việt Nam giảm trong khi lãi suất Mỹ tăng Tuy nhiên, sau năm 2000, mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam giảm mạnh do lãi suất giữa hai nước biến động cùng chiều, cho thấy chính sách tiền tệ của Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài Nguyên nhân của sự thay đổi này bao gồm quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, với các mốc quan trọng như gia nhập APEC năm 1998, ký hiệp định thương mại với Mỹ năm 2000 và chính thức gia nhập WTO năm 2007.

Từ năm 2007 đến nay, chỉ số mức độ độc lập tiền tệ (MI) của Việt Nam đã đạt mức khá, với giá trị 0,538 vào năm 2007 và tăng lên 0,551 trong các năm 2008 và 2009 Điều này cho thấy mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam đang ở mức trung bình so với Mỹ.

3.2.2 Chỉ số ổn định tỷ giá hối đoái (ERS)

Công thức của chỉ số này như sau:

The article discusses the exchange rate index that reflects the depreciation of the Vietnamese Dong (VND) against the US Dollar (USD) The data utilized by the author is sourced from the "International Financial Statistics" report published by the IMF in 2011.

Chỉ số ERS cũng nằm từ 0 đến 1, và mức độ càng lớn thì biểu thị sự ổn định về tỷ giá hối đoái và ngược lại

Bảng 3.2: Chỉ số ổn định tỷ giá hối đoái (ERS) của Việt Nam

Nguồn: tính toán của tác giả

Hình 3.2: Đồ thị biểu diễn mức độ ổn định tỷ giá của Việt Nam

Từ năm 1996 đến nay, mức độ ổn định tỷ giá của Việt Nam đã giảm rõ rệt, đặc biệt là sau khủng hoảng kinh tế Châu Á Trong giai đoạn 1996-1999, Chính phủ đã thực hiện chính sách thả nổi tỷ giá, nhưng kể từ năm 1999, chính sách này đã hoàn toàn thay đổi Chính phủ đã áp dụng biện pháp ổn định tỷ giá nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực từ khủng hoảng khu vực và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn đầy tiềm năng.

Năm 2007, đồng Việt Nam đã tăng giá khoảng 20% so với đô la Mỹ sau một thời gian dài chịu áp lực giảm giá, chủ yếu do lạm phát cao ở Việt Nam với mức 12,7% và 20% trong hai năm 2007 và 2008 Sự gia nhập WTO đã mở ra nhiều cơ hội đầu tư, dẫn đến sự gia tăng đột biến trong lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Năm 2007, cầu đồng Việt Nam tăng đã dẫn đến sự tăng giá của đồng Việt Nam Tuy nhiên, với chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện chính sách vô hiệu hóa nhằm kiềm chế lạm phát và duy trì sự ổn định của tỷ giá.

Kể từ năm 2007, tỷ giá của Việt Nam đã trở nên linh hoạt hơn, với chính sách tỷ giá được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn Đây là thời điểm Việt Nam chính thức gia nhập WTO, đồng thời cũng là giai đoạn nền kinh tế bắt đầu chịu tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, làm lộ rõ nhiều điểm yếu của một nền kinh tế phụ thuộc vào nhập siêu.

3.2.3 Chỉ số hội nhập tài chính (KAOPEN)

Theo nghiên cứu của Aizenman, Chin và Ito (2008), chỉ số KAOPEN là một chỉ số phức tạp liên quan đến biến động tỷ giá, cán cân thương mại và vốn Để đơn giản hóa chỉ số này, tác giả áp dụng phương pháp của Hutchinson, Sengputa và Sing (2010), giúp làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến KAOPEN.

Theo đó, chỉ số KAOPEN của Việt Nam từ năm 1996 đến 2011 như sau:

Bảng 3.3: Chỉ số hội nhập tài chính (KAOPEN) của Việt Nam Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

Nguồn: Tính toán của tác giả

Hình 3.3: Đồ thị biểu diễn mức độ hội nhập tài chính (KAOPEN) của Việt Nam

Nguồn: Tính toán của tác giả

Chỉ số mở cửa tài chính của Việt Nam đã giảm từ 0,223 vào năm 1999 xuống 0,161 vào năm 2001 và duy trì ở mức này đến năm 2007 Sau khi gia nhập WTO năm 2007, mức độ mở cửa tài chính tăng lên 0,404 trong năm 2008-2009 và tiếp tục tăng đến 0,56 vào năm 2011 Xu hướng này phản ánh sự chuyển mình của các nền kinh tế mới nổi, với việc từng bước mở cửa tài chính, kiểm soát vốn, linh hoạt trong tỷ giá và sử dụng chính sách tiền tệ một cách nhịp nhàng để củng cố dự trữ ngoại hối.

Chỉ số này đã tăng từ năm 2007, phản ánh sự giao lưu và hội nhập kinh tế của Việt Nam Điều này cho thấy Việt Nam đang khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế, nhờ việc dỡ bỏ một số quy định kiểm soát vốn theo cam kết WTO.

NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Sự phát triển của các chỉ số bộ ba bất khả thi

4.1.1 Mẫu hình kim cương Để theo dõi sự phát triển của các chỉ số bộ ba bất khả thi Việt Nam, tác giả sử dụng kết quả các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam đã tính toán được ở Chương 3 để vẽ đồ thị hình kim cương, tác giả chia dữ liệu làm ba giai đoạn là 1996 – 2000, 2001 – 2006 và 2007 – 2011 Để vẽ đồ thị hình kim cương thì ngoài ba yếu tố của bộ ba bất khả thi được biểu diễn bằng 3 vectơ thì tác giả đã đưa thêm tỷ lệ dự trữ ngoại hối/GDP (phần IR/GDP tác giả sẽ trình bày trong phần 4.4 dưới đây) Mỗi vectơ trong hình được biến thiên giữa 0 tới 1

Hình 4.1: Bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 1996-2011

Nguồn: Tính toán của tác giả

Hình 4.1 minh họa sự phát triển các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam qua các giai đoạn thời gian Từ 1996-2000, Việt Nam tập trung vào việc ổn định tỷ giá hối đoái và duy trì độc lập tiền tệ Giai đoạn 2001-2006, chính sách ổn định tỷ giá được duy trì ở mức cao hơn, tuy nhiên, độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính có sự sụt giảm Từ 2007-2011, Việt Nam tăng cường hội nhập tài chính, giữ độc lập tiền tệ ở mức trung bình và tỷ giá hối đoái trở nên linh hoạt hơn Tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP cũng tăng từ 0,089 trong giai đoạn 1996-2000 lên 0,155 trong giai đoạn 2001-2006 và đạt 0,198 trong giai đoạn 2007-2011.

Việc tự bảo đảm chống lại sự bất ổn định tài chính trong bối cảnh gia tăng hội nhập tài chính và duy trì ổn định tỷ giá hối đoái yêu cầu Việt Nam cần tăng cường dự trữ ngoại tệ Điều này khẳng định vai trò quan trọng của dự trữ ngoại hối trong việc hỗ trợ Việt Nam trong quá trình hội nhập tài chính và phát triển kinh tế bền vững.

Hội nhập tài chính Ổn định tỷ giá Độc lập tiền tệ

IR/GDP đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng, nhưng để đạt được hiệu quả cao, chúng ta cần kết hợp các thành phần một cách tối ưu.

4.1.2 Đồ thị biểu diễn sự phát triển các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam theo thời gian:

Hình 4.2: Sự phát triển các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam giai đoạn 1996-2011

Từ năm 1996 đến 2000, Việt Nam nỗ lực duy trì ổn định tỷ giá hối đoái và độc lập tiền tệ trong bối cảnh các nước Đông Nam Á đối mặt với khủng hoảng nợ năm 1997 Khi đó, Việt Nam vừa mới gia nhập thị trường tài chính thế giới, do đó sự hội nhập tài chính còn hạn chế Việc bảo vệ hai yếu tố này đã giúp Việt Nam vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực và đạt được sự phát triển tương đối nhanh chóng trong những năm tiếp theo.

Giai đoạn 2001 đến 2006, Việt Nam nỗ lực duy trì tỷ giá hối đoái ổn định và có những thay đổi trong chính sách tiền tệ độc lập, mặc dù mức độ hội nhập tài chính còn thấp do rào cản chính sách Từ 2007 đến 2011, khi Việt Nam gia nhập WTO, KAOPEN tăng nhanh, chỉ số MI duy trì ở mức trung bình và ERS thấp Đặc biệt, năm 2010, các chỉ số bộ ba bất khả thi hội tụ về một điểm.

4.1.3 Sự ảnh hưởng của các sự kiện kinh tế tài chính nổi bật đến sự thay đổi các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam

Tác giả kiểm tra mối quan hệ giữa các sự kiện kinh tế tài chính và sự thay đổi bộ ba bất khả thi của Việt Nam, tập trung vào sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001 và Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 Mặc dù khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-1998 có ảnh hưởng đến Việt Nam, nhưng do phạm vi nghiên cứu bắt đầu từ năm 1996, nên sự kiện này không được đưa vào kiểm định, dẫn đến việc chưa nhận thấy sự thay đổi trong cấu trúc bộ ba bất khả thi.

Bảng 4.1 trình bày việc kiểm định ảnh hưởng của các sự kiện kinh tế tài chính nổi bật đến sự biến động của các chỉ số bộ ba bất khả thi tại Việt Nam.

Vào năm 2001, các nước Đông Nam Á bắt đầu phục hồi sau khủng hoảng, trong khi sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO và vụ khủng bố 11/09 đã tác động mạnh đến kinh tế toàn cầu và chính sách kinh tế của Việt Nam Việt Nam đã nhanh chóng giảm độc lập tiền tệ và chuyển sang chế độ cố định tỷ giá nhằm tận dụng sự ổn định tỷ giá để thúc đẩy phát triển kinh tế Đến năm 2007, kinh tế thế giới rơi vào suy thoái, và Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng, buộc phải điều chỉnh chính sách vĩ mô sau khi gia nhập WTO Tỷ giá của Việt Nam chuyển từ cố định sang thả nổi với sự thay đổi nhanh chóng, cho thấy sự chuyển dịch trong tư duy kinh tế của Chính phủ Từ năm 2008 đến nay, các chỉ số kinh tế của Việt Nam dao động quanh mức 0,5, phản ánh nỗ lực duy trì sự ổn định trong bối cảnh suy thoái.

Mối quan hệ tuyến tính của các chỉ số bộ ba bất khả thi

Tác giả áp dụng mô hình hồi quy của Aizenman, Chinn, Ito (2008) để kiểm tra mối quan hệ tuyến tính giữa các chỉ số trong bộ ba bất khả thi, nhằm xác định xem tổng trọng số của ba biến chính sách có phải là một hằng số hay không Để thực hiện điều này, tác giả tiến hành kiểm định tính phù hợp của mô hình hồi quy.

1 = a * MI + b *ERS + c * KAOPEN + ε t Với dữ liệu như trên thì kết quả sau khi thực hiện việc tính toán là:

Regression output variables coefficients std error t (df) p-value

Source SS df MS F p-value

Với hệ số R² đạt 0,944 và hệ số R điều chỉnh là 0,853, mô hình này cho thấy sự phù hợp cao với các kết quả thống kê, khẳng định rằng các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam có mối quan hệ tuyến tính rõ ràng.

Theo kết quả tính toán thì mô hình hồi quy các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam giai đoạn 1996 – 2011 là: l = 0.545 * MI + 0.475 * ERS + 1.176 * KAOPEN – 0.667

Theo công thức đã nêu, chỉ số KAOPEN có tác động mạnh mẽ hơn so với hai chỉ số còn lại khi có sự thay đổi tương đương Thực tế ở Việt Nam trong hơn 10 năm qua cho thấy, kể từ khi gia nhập WTO vào năm 2007, KAOPEN đã có ảnh hưởng rõ rệt đến hai chỉ số kia Hơn nữa, việc tách mình khỏi khủng hoảng kinh tế Đông Nam Á năm 1997 cho thấy KAOPEN gần như không thay đổi trong suốt 10 năm, trong khi hai chỉ số còn lại biến động ngược chiều nhưng vẫn duy trì sự cân bằng trong bộ ba bất khả thi Do đó, mặc dù cả ba chỉ số đều quan trọng trong việc điều hành chính sách, nhưng trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, cần chú ý hơn đến sự hội nhập tài chính, vì đây là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến việc quản lý bộ ba bất khả thi.

Hiệu quả của sự kết hợp các chính sách

Từ mô hình đã xây dựng, chúng ta có thể tính toán tổng trọng số của ba chỉ số trong bộ ba bất khả thi, cũng như từng cặp chỉ số qua các năm Kết quả cho thấy tổng trọng số thường dao động xung quanh giá trị 1.

Hình 4.3: Hiệu quả kết hợp chính sách: (a MI + b ERS), (a MI + c KAOPEN), (b

ERS + c KAOPEN) và (a MI + b ERS + c KAOPEN)

Từ năm 1996 đến 2006, chính sách tiền tệ độc lập và ổn định tỷ giá là ưu tiên hàng đầu của Việt Nam Tuy nhiên, kể từ năm 2007, khi Việt Nam gia nhập WTO, xu hướng chuyển sang độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính đã trở thành lựa chọn chiến lược Đặc biệt, giai đoạn 1997-1998 và 2008 cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong chính sách này.

Năm 2009 đánh dấu sự nổi bật của chính sách độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính, trong bối cảnh xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997-1998) và khủng hoảng kinh tế toàn cầu (2008-2009).

Hình 4.4: Hiệu quả từng chính sách a MI, b ERS và c KAOPEN

Nguồn: Tính toán của tác giả

Hình 4.4 minh họa sự đóng góp của các thành phần vào định hướng chính sách, nhấn mạnh nỗ lực duy trì độc lập tiền tệ, tăng cường hội nhập tài chính từ năm 2007, khi Việt Nam gia nhập WTO, và sự linh hoạt ngày càng cao của tỷ giá hối đoái.

Tác động của bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối đối với tăng trưởng

Nếu như trước đây việc nghiên cứu bộ ba bất khả thi chỉ dừng lại ở việc xem xét

Trong hơn 15 năm qua, bên cạnh ba yếu tố truyền thống là ổn định tỷ giá, độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính, mức dự trữ ngoại hối của một quốc gia đã trở thành một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mô hình kinh tế Cụ thể, tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối và GDP của các nước nghiên cứu đang được xem xét ngày càng nhiều trong các lý thuyết kinh tế hiện đại.

Mô hình tổng quát được xây dựng như sau:

Y = α 0 + α 1 * TLM + α 2 * TR + α3 * (TLM * TR) Trong đó:

Y đo lường hiệu quả của kinh tế vĩ mô

TLM là vectơ của hai trong ba nhân tố bất kỳ (MI, ERS, KAOPEN)

TR là tỷ lệ của dự trữ ngoại hối (trừ vàng) trên GDP

Từ đó, TLM * TR biểu thị sự tương tác giữa việc thực hiện 2 yếu tố trong bộ ba với dự trữ ngoại hối

Theo lý thuyết của Aizenman, Chinn, Ito (2008), Y đại diện cho biến động sản lượng đầu ra (output volatility) Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tác giả chỉ tập trung vào ảnh hưởng của bộ ba bất khả thi đối với GDP của Việt Nam trong giai đoạn 1996-2011 Để đảm bảo tính tương thích với các chỉ số của bộ ba bất khả thi, tác giả đã sử dụng GDP tính bằng USD, lấy nước Mỹ làm cơ sở.

Bảng 4.2: Dự trữ ngoại hối và GDP của Việt Nam từ 1996 đến 2011 ĐVT: Triệu USD

Nguồn: Word Development Indicators – World Bank

Hình 4.5: Dự trữ ngoại hối và GDP của Việt Nam từ 1996 đến 2011

Nguồn: Word Development Indicators – World Bank

Bảng 4.3: Tỷ lệ Dự trữ ngoại hối/GDP của Việt Nam từ 1996 đến 2011

Nguồn: Word Development Indicators – World Bank, tính toán của tác giả

Hình 4.6: Tỷ lệ IR/GDP của Việt Nam từ 1996 đến 2011

Nguồn: Word Development Indicators – World Bank

4.4.1 Ước lượng mô hình tổng quát

Tác giả tiếp tục kiểm định mối quan hệ giữa bộ ba bất khả thi, dự trữ ngoại hối và tăng trưởng kinh tế thông qua mô hình ước lượng đã đề cập Kết quả của nghiên cứu được trình bày trong bảng 4.4.

Bảng 4.4: Bộ ba bất khả thi, dự trữ ngoại hối và tăng trưởng GDP

Nguồn: Tính toán của tác giả

Kết quả hồi quy cho thấy R² điều chỉnh trong khoảng [0.37; 0.56], cho thấy sự kết hợp các chính sách chưa rõ ràng tác động đến nền kinh tế Cụ thể, độc lập tiền tệ làm giảm tăng trưởng kinh tế, trong khi ổn định tỷ giá lại thúc đẩy tăng trưởng Ngược lại, hội nhập tài chính có xu hướng làm giảm tăng trưởng kinh tế Tương tác giữa ổn định tỷ giá và dự trữ chỉ tác động rất ít đến tăng trưởng, tương tự như tương tác giữa độc lập tiền tệ và dự trữ, cũng như giữa hội nhập tài chính và dự trữ Dù một số hệ số ước lượng không có ý nghĩa thống kê rõ ràng, vẫn có dấu hiệu cho thấy tác động của các yếu tố này đối với tăng trưởng kinh tế.

4.4.2 Ước lượng các chỉ số tổng hợp

Theo Aizenman, Chinn và Ito (2010), tác giả đã xây dựng một chỉ số tổng hợp dựa trên việc lựa chọn hai trong ba mục tiêu: MI_ERS để đo lường độ đóng cửa kinh tế, ERS_KAOPEN liên quan đến chế độ chuẩn tiền tệ, và MI_KAOPEN đánh giá chế độ tỷ giá linh hoạt.

Tiếp theo, tác giả kiểm định mối quan hệ giữa các chỉ số tổng hợp, dự trữ ngoại hối và tỷ lệ GDP Kết quả thể hiện ở bảng 4.5:

Bảng 4.5: Tác động của các định hướng chính sách đối với GDP

Nguồn: Tính toán của tác giả

Các kết quả từ cột (1) đến (6) cho thấy mỗi mô hình đều thể hiện một chỉ số tổng hợp và sự tương tác của nó với dự trữ GDP Đặc biệt, nền kinh tế đóng (MI_ERS) không cho thấy xu hướng tác động rõ ràng nào đối với GDP.

Việc kiểm định tác động của bộ ba bất khả thi cho thấy rằng mức độ độc lập tiền tệ có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng GDP, trong khi ổn định tỷ giá lại góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP Ngược lại, hội nhập tài chính lại làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP.

Kết quả kiểm định cho thấy rằng chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt (MI_KAOPEN) có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng GDP, dẫn đến sự giảm sút trong tốc độ phát triển kinh tế.

Ngày đăng: 15/07/2022, 21:44

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

2.1 Mơ hình bộ ba bất khả thi của Mundell– Fleming (1963) - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
2.1 Mơ hình bộ ba bất khả thi của Mundell– Fleming (1963) (Trang 14)
Hình 2.2: Cấu hình bộ ba bất khả thi và dự trữ quốc tế theo thời gian. - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
Hình 2.2 Cấu hình bộ ba bất khả thi và dự trữ quốc tế theo thời gian (Trang 18)
Hình 2.3: Khuynh hƣớng chính sách của các nƣớc cơng nghiệp hóa (IDC) và các nƣớc đang phát triển (LDC) - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
Hình 2.3 Khuynh hƣớng chính sách của các nƣớc cơng nghiệp hóa (IDC) và các nƣớc đang phát triển (LDC) (Trang 20)
Hình 2.4: Dự trữ ngoại hối/GDP, giai đoạn 1980 -2006 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
Hình 2.4 Dự trữ ngoại hối/GDP, giai đoạn 1980 -2006 (Trang 28)
Bảng 3.1: Chỉ số độc lập tiền tệ (MI) của Việt Nam - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
Bảng 3.1 Chỉ số độc lập tiền tệ (MI) của Việt Nam (Trang 33)
Bảng 3.2: Chỉ số ổn định tỷ giá hối đoái (ERS) của Việt Nam - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
Bảng 3.2 Chỉ số ổn định tỷ giá hối đoái (ERS) của Việt Nam (Trang 34)
Hình 3.2: Đồ thị biểu diễn mức độ ổn định tỷ giá của Việt Nam - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
Hình 3.2 Đồ thị biểu diễn mức độ ổn định tỷ giá của Việt Nam (Trang 35)
Hình 3.3: Đồ thị biểu diễn mức độ hội nhập tài chính (KAOPEN) của Việt Nam - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
Hình 3.3 Đồ thị biểu diễn mức độ hội nhập tài chính (KAOPEN) của Việt Nam (Trang 37)
Hình 4.1: Bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 1996-2011 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
Hình 4.1 Bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 1996-2011 (Trang 39)
Hình 4.2: Sự phát triển các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam giai đoạn 1996-2011 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
Hình 4.2 Sự phát triển các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam giai đoạn 1996-2011 (Trang 40)
Bảng 4.1: Kiểm định sự ảnh hƣởng của các sự kiện kinh tế tài chính nổi bật đến sự thay đổi các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
Bảng 4.1 Kiểm định sự ảnh hƣởng của các sự kiện kinh tế tài chính nổi bật đến sự thay đổi các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam (Trang 41)
hình phù hợp với những kết quả thống kê, chứng tỏ các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam có mối quan hệ tuyến tính với nhau - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
hình ph ù hợp với những kết quả thống kê, chứng tỏ các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam có mối quan hệ tuyến tính với nhau (Trang 43)
Từ mơ hình trên ta tính được tổng trọng số của ba chỉ số bộ ba bất khả thi và từng cặp chỉ số cho từng năm, kết quả cho thấy tổng trọng số xoay quanh giá trị 1 - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
m ơ hình trên ta tính được tổng trọng số của ba chỉ số bộ ba bất khả thi và từng cặp chỉ số cho từng năm, kết quả cho thấy tổng trọng số xoay quanh giá trị 1 (Trang 44)
Hình 4.4: Hiệu quả từng chính sách aMI, bERS và cKAOPEN - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
Hình 4.4 Hiệu quả từng chính sách aMI, bERS và cKAOPEN (Trang 45)
Mơ hình tổng qt được xây dựng như sau: - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở việt nam giai đoạn 1996   2011 , luận văn thạc sĩ
h ình tổng qt được xây dựng như sau: (Trang 46)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w