TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
Khảo luận nghiên cứu có liên quan
Theo Scoones (1998), thu nhập của hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi bốn yếu tố chính: vốn tự nhiên, vốn tài chính, vốn con người và vốn xã hội Vốn tự nhiên, bao gồm đất đai, nước và không khí, là nền tảng cho các hoạt động kinh tế Vốn tài chính phản ánh khả năng tiết kiệm và tiếp cận tín dụng của hộ gia đình để đầu tư vào các hoạt động tạo thu nhập Vốn con người liên quan đến giáo dục, lực lượng lao động và giới tính, ảnh hưởng đến năng suất lao động và hiệu quả công việc Cuối cùng, vốn xã hội thể hiện sự hợp tác và kết nối giữa con người, bao gồm sự tin tưởng, hiểu biết và chia sẻ giá trị đạo đức, góp phần tạo ra sự gắn kết trong các cộng đồng.
Nhiều nghiên cứu, như của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB, 1995), cho thấy sự thay đổi thu nhập do thay đổi điều kiện sống là đáng kể, vì vậy việc thu hồi đất và tái định cư cần được lên kế hoạch cẩn thận để giảm thiểu tổn thất trong các dự án phát triển ADB nhấn mạnh rằng những người bị ảnh hưởng nên nhận được hỗ trợ để cải thiện hoặc phục hồi mức sống của họ, ít nhất là ngang bằng với cuộc sống trước đây Đặc biệt, khi thu hồi đất, cần chú ý đến sinh kế và thu nhập của người dân; Ngân hàng Thế giới (World Bank, 2004) đã đề xuất các giải pháp sinh kế như tạo việc làm, cung cấp tín dụng và các hỗ trợ khác để đảm bảo cuộc sống của họ được cải thiện.
Phục hồi thu nhập là yếu tố thiết yếu trong chính sách thu hồi đất, nhằm hỗ trợ những người bị ảnh hưởng khi họ mất đi cơ sở sản xuất, việc làm và nguồn thu nhập khác Các biện pháp tạo thu nhập bao gồm cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ, đào tạo kỹ thuật, hỗ trợ tìm kiếm cơ hội việc làm trong khu vực Nhà nước và tư nhân, cũng như ưu tiên tuyển dụng cho những người bị ảnh hưởng Hơn nữa, phục hồi không chỉ dừng lại ở thu nhập mà còn cần hướng tới việc xây dựng sinh kế bền vững cho những đối tượng chịu thiệt hại do thu hồi đất, trong đó sinh kế bao gồm khả năng, tài sản và các hoạt động thiết yếu để kiếm sống.
Theo mô hình sinh kế bền vững (DFID, 1999), chính sách bồi thường cho người bị thu hồi đất cần tác động tích cực đến các tài sản sinh kế như vốn tự nhiên, vật chất, tài chính, con người và xã hội, nhằm đảm bảo tăng thu nhập và tạo sinh kế bền vững Vốn tự nhiên, bao gồm khí hậu, đất đai và nguồn nước, rất quan trọng cho những người sống dựa vào tài nguyên Vốn vật chất, như cơ sở hạ tầng và tài sản sản xuất, đáp ứng nhu cầu cơ bản và hỗ trợ thu nhập Vốn tài chính, linh hoạt và dễ chuyển đổi, bao gồm tiền mặt và khả năng tiếp cận tín dụng Vốn con người, với yếu tố giáo dục và kỹ năng, quyết định khả năng quản lý các nguồn vốn khác Cuối cùng, vốn xã hội, thông qua các mối quan hệ và mạng lưới, có ảnh hưởng lớn đến thu nhập và quản lý nguồn lực, góp phần vào sự phát triển bền vững.
Nguồn: Khung sinh kế bền vững của DFID, 1999
Hình 2.1 Khung phân tích sinh kế bền vững của DFID, 1999
Nghiên cứu của Trần Hoàng Anh (2001) chỉ ra rằng thu nhập của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm số năm học của các thành viên trong hộ, kích cỡ hộ gia đình, và diện tích đất canh tác.
Nghiên cứu của Thái Thanh Phong (2009) chỉ ra rằng tiền đền bù đất và đất tái định cư là tài sản quan trọng cho các hộ dân bị di dời, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập tổng thể của gia đình sau khi thu hồi đất Một số yếu tố có mối quan hệ đồng biến với thu nhập bao gồm trình độ học vấn của chủ hộ và số lao động trong hộ Ngược lại, tỷ lệ người lao động phụ thuộc và diện tích đất bị thu hồi lại có mối quan hệ nghịch biến với thu nhập của hộ gia đình.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Quốc Nghi, Nguyễn Thị Bảo Châu và Nguyễn Đinh Yến Oanh, Nguyễn Thị Thanh Huệ và Trương Toại Nguyện (2012) Nghiên
Hoàn cảnh của người dân: Bị một cú sốc lớn
- Tài sản tạo sinh kế (đất đai) bị thu hồi
- Nhận một khoản tiền bồi thường, hỗ trợ.
Chính sách của Nhà nước:
-Bồi thường thiệt hại -Chính sách đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp
-Doanh nghiệp nhận lao động vào làm việc -Hỗ trợ về vốn, kỹ thuật
TÀI SẢN TẠO SINH KẾ
Lựa chọn hoạt động sinh kế
-Thu nhập tăng -Tính bền vững cao tăng -Đời sống nâng cao
-An ninh lương thực đảm bảo -Sử dụng đất đai bền vững
Nghiên cứu về tác động của khu công nghiệp Hòa Phú tỉnh Vĩnh Long cho thấy sự thay đổi đáng kể về thu nhập của cộng đồng bị thu hồi đất Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi này bao gồm trình độ học vấn của chủ hộ, số lao động trong hộ, tỷ lệ người phụ thuộc, diện tích đất bị thu hồi, phương án sử dụng tiền đền bù và khả năng tham gia làm việc tại khu công nghiệp.
Nghiên cứu của Huỳnh Văn Chương và Ngô Hữu Hoạnh (2010) về ảnh hưởng của việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp tại Hội An, Quảng Nam cho thấy việc thu hồi đất đã gây ra sự xáo trộn lớn trong cuộc sống của người nông dân Tài sản đất đai của họ thường chuyển thành vốn tài chính và vật chất, nhưng rất ít trường hợp chuyển thành nguồn vốn xã hội và con người Mặc dù nhiều hộ dân có thu nhập cao hơn sau khi chuyển đổi đất để phục vụ đô thị hóa, họ vẫn cảm thấy bất an do thu nhập không ổn định và cuộc sống tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thuận An (2012) về tác động của việc thu hồi đất và giải phóng mặt bằng tại dự án khu đô thị mới quận Hải An, Hải Phòng cho thấy 70,75% hộ gia đình có thu nhập tăng lên so với trước khi thu hồi đất Nguồn thu nhập chủ yếu của những hộ này đến từ hoạt động buôn bán nhỏ lẻ và dịch vụ, trong khi thu nhập từ sản xuất nông nghiệp đã giảm đáng kể, cho thấy sự chuyển dịch sang các hoạt động phi nông nghiệp.
Nghiên cứu của Đinh Phi Hổ và Nguyễn Huỳnh Sơn Vũ (2011) đã chỉ ra rằng thu nhập của người dân chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm trình độ học vấn và tuổi tác của chủ hộ, tỷ lệ phụ thuộc trong gia đình, quy mô lao động, diện tích đất bị thu hồi, mục đích sử dụng tiền đền bù, cũng như số lao động làm việc trong khu công nghiệp.
Nghiên cứu cho thấy việc thu hồi đất nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế có tác động tích cực đến thu nhập của người dân, góp phần vào sự phát triển kinh tế của địa phương Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều bất cập trong chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư và ổn định việc làm, dẫn đến nhiều vụ khiếu nại và kiện tụng, gây mất ổn định chính trị - xã hội tại các địa phương.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu về công tác thu hồi đất, nhưng tại tỉnh Kiên Giang, chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân bị thu hồi đất một cách toàn diện Nghiên cứu này sẽ xác định những yếu tố quan trọng, từ đó cải thiện quy trình thu hồi đất, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội cho huyện Kiên Lương và các khu vực khác.
Khung phân tích
Dựa vào khung phân tích sinh kế bền vững của Cơ quan phát triển quốc tế Vương Quốc Anh (DFID, 2003)
Nguồn: Dựa trên khung sinh kế bền vững (DFID, 2003)
Hình 2.2: Khung phân tích thu nhập bền vững
Khung sinh kế bền vững phản ánh sự tương tác giữa năm nhóm sinh kế: chính sách sinh kế, nhóm dễ tổn thương, tài sản sinh kế, chiến lược sinh kế và kết quả sinh kế Mỗi nhóm này chứa các yếu tố tác động đến sự biến đổi cuộc sống của người dân Nghiên cứu sẽ tập trung vào nhóm tài sản sinh kế để xác định các yếu tố giải thích sự thay đổi thu nhập của người dân trong bối cảnh bị thu hồi đất.
Theo mô hình thu nhập bền vững, chính sách thu nhập đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, góp phần vào tiến trình phát triển kinh tế.
Nhóm chính sách thu nhập
Chuyển dịch nông nghiệp sang công nghiệp
- Đời sống sinh kế người dân
- Người dân mất đất có thu nhập thay đổi
Nhóm tài sản sinh kế
Nhóm chiến lược sinh kế
- Nghiên cứu các yếu tố tác động sinh kế
- Phân tích mức ảnh hưởng
Nhóm kết quả sinh kế
- Cuộc sống ổn định vật chất, tinh thần
Các yếu tố ảnh hưởng
- Số lao động trong hộ
- Diện tích đất thu hồi
- Số lao động trong khu công nghiệp
- Khả năng đầu tư sản xuất kinh doanh
Thu nhập từ nghiệp hóa và đô thị hóa ảnh hưởng lớn đến nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt là những người dân bị thu hồi đất, dẫn đến thay đổi trong đời sống và sinh kế Nhóm nghiên cứu đã phân tích các yếu tố tác động, bao gồm trình độ học vấn, giới tính chủ hộ, số lao động trong hộ, tuổi chủ hộ, tỷ lệ phụ thuộc, diện tích đất bị thu hồi, số lao động có việc làm trong khu công nghiệp và khả năng đầu tư sản xuất kinh doanh Mục tiêu là tìm ra các yếu tố này nhằm đạt được kết quả sinh kế bền vững, nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống cho người dân.
Các giả thuyết nghiên cứu
Qua các lý thuyết nghiên cứu, các nghiên cứu trong và ngoài nước và dựa trên khung sinh kế bền vững (DFID, 2003), Đinh Phi Hổ và Nguyễn Huỳnh Sơn
Nghiên cứu của Vũ (2001) và Nguyễn Hoàng Bảo cùng Nguyễn Minh Tuấn (2013) đã xác định tám yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập sau thu hồi đất, bao gồm: trình độ học vấn, giới tính của chủ hộ, số lượng lao động trong hộ, độ tuổi của chủ hộ, tỷ lệ phụ thuộc, diện tích đất bị thu hồi, số lao động có việc làm trong khu công nghiệp, và khả năng đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Nghiên cứu này nhằm phân tích các yếu tố tác động đến sự thay đổi thu nhập của hộ dân sau khi bị thu hồi đất tại dự án nuôi trồng thủy sản ở vùng Vàm Răng – Ba Hòn, xã Hòa Điền, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.
Tuổi tác của chủ hộ ảnh hưởng đáng kể đến khả năng kiếm thu nhập, vì những người có tuổi đời cao thường tích lũy được nhiều kinh nghiệm sống Kinh nghiệm này giúp họ có khả năng tạo ra thu nhập cao hơn so với những hộ gia đình trẻ tuổi, từ đó làm tăng xác suất cải thiện thu nhập cho hộ.
Giới tính của chủ hộ có ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập trong các hộ gia đình nông thôn, đặc biệt sau khi thu hồi đất Những hộ gia đình do nam giới làm chủ thường có khả năng đạt thu nhập cao hơn so với những hộ do nữ giới làm chủ, do nhu cầu sức khỏe cơ bắp trong lao động nông nghiệp.
Trình độ học vấn của chủ hộ có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng áp dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất Những hộ gia đình có trình độ học vấn cao thường có khả năng tạo ra thu nhập tốt hơn so với những hộ không có trình độ học vấn.
Số lượng lao động trong một hộ gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tạo ra thu nhập Gia đình có nhiều người lao động sẽ có tiềm năng tạo ra của cải lớn hơn, từ đó gia tăng khả năng cải thiện thu nhập cho cả hộ và xã hội Ngược lại, những hộ có ít lao động sẽ gặp khó khăn hơn trong việc nâng cao thu nhập.
Tỷ lệ người phụ thuộc trong một hộ gia đình ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu nhập, khi có nhiều người không tạo ra thu nhập, gánh nặng tài chính sẽ tăng lên Điều này không chỉ làm giảm khả năng cải thiện thu nhập của hộ mà còn tạo ra khó khăn trong việc duy trì cuộc sống.
Hộ gia đình có nhiều lao động làm việc trong khu công nghiệp sẽ có nguồn thu nhập cao hơn, vì sự hiện diện của nhiều người lao động tạo ra cơ hội gia tăng thu nhập cho gia đình Do đó, xác suất thu nhập tăng lên khi có người làm việc trong khu công nghiệp là rất cao.
Diện tích đất bị thu hồi lớn sẽ dẫn đến số tiền bồi thường cao, giúp hộ gia đình có thêm nguồn tài chính để nâng cao thu nhập Số tiền này không chỉ hỗ trợ cuộc sống mà còn tạo điều kiện cho việc tái đầu tư vào sản xuất, từ đó góp phần tăng thêm thu nhập bền vững.
Sử dụng tiền đền bù đất để đầu tư vào sản xuất và kinh doanh giúp người bị thu hồi đất tăng cơ hội tạo ra lợi nhuận Khi biết cách quản lý và đầu tư nguồn tiền này, khả năng cải thiện thu nhập sẽ cao hơn, từ đó mang lại những lợi ích kinh tế đáng kể cho họ.
Chương 2 của bài viết tập trung trình bày các khái niệm cốt lõi liên quan đến thu hồi đất, bồi thường đất và thu nhập của hộ gia đình Đồng thời, chương này cũng đề cập đến một số cơ sở lý thuyết quan trọng của các mô hình nghiên cứu trong nước và quốc tế, từ đó rút ra một số vấn đề then chốt giúp xác định các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của người bị thu hồi đất.
Trong chương 2, tác giả áp dụng khung phân tích sinh kế bền vững của cơ quan phát triển quốc tế Vương Quốc Anh (DIFD, 2003) và các nghiên cứu của Đinh Phi Hổ, Nguyễn Huỳnh Sơn Vũ (2001), Nguyễn Hoàng Bảo và Nguyễn Minh Tuấn (2013) để xây dựng mô hình nghiên cứu Mô hình này gồm tám nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập.
Trình độ học vấn, giới tính của chủ hộ, số lượng lao động trong hộ, tuổi tác của chủ hộ, tỷ lệ phụ thuộc, diện tích đất bị thu hồi, số lao động có việc làm trong khu công nghiệp, và khả năng đầu tư sản xuất kinh doanh là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hộ gia đình.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cách tiếp cận nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu này là điều tra và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân sau khi bị thu hồi đất tại dự án đầu tư cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản vùng Vàm Răng – Ba Hòn, xã Hòa Điền, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang Nghiên cứu sẽ cung cấp cơ sở để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho người dân trong khu vực.
Tác giả áp dụng mô hình sinh kế bền vững làm cơ sở lý thuyết trong nghiên cứu, sử dụng các lý thuyết và công trình nghiên cứu trong và ngoài nước Phương pháp suy diễn và định lượng được áp dụng để kiểm định lý thuyết, đồng thời giải thích các vấn đề liên quan thông qua phân tích thống kê với dữ liệu định lượng thu thập được.
Phương pháp chọn mẫu
Theo nghiên cứu của Green (1991) và Tabachnick & Fidell (2007), quy mô mẫu cho mô hình hồi quy được xác định bằng công thức n ≥ 50 + 8k, trong đó k là số biến độc lập Với mô hình hồi quy có 8 biến độc lập, quy mô mẫu tối thiểu cần thiết là n ≥ 114.
Do thời gian nghiên cứu hạn hẹp nên công tác thu thập mẫu gặp nhiều khó khăn Vì vậy tác giả chọn mẫu nghiên cứu là 153 mẫu
Việc thu thập số liệu thứ cấp được thực hiện thông qua các tài liệu liên quan đến kết quả điều tra mức sống của cư dân trong khu vực thu hồi đất Các nguồn thông tin này bao gồm báo cáo thống kê, báo cáo niên giám của huyện, cũng như dữ liệu từ Ban bồi thường giải phóng mặt bằng và phòng Tài nguyên và Môi trường huyện.
Nghiên cứu này thu thập số liệu sơ cấp thông qua khảo sát trực tiếp 153 hộ dân trong khu vực có đất bị thu hồi tại dự án nuôi trồng thủy sản vùng Vàm Răng – Ba Hòn, xã Hòa Điền, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.
3.4 Công cụ phân tích dữ liệu
3.4.1 Phương pháp thống kê mô tả
Sử dụng phần mềm SPSS 20, Excel để xử lý thông tin sơ cấp được thu thập từ phiếu khảo sát
Phương pháp thống kê mô tả được áp dụng để tổng hợp và phân tích thông tin về tình hình hộ dân có đất bị thu hồi trong khu vực giải tỏa Qua đó, bài viết sẽ thống kê các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của các hộ dân này.
3.4.2 Dùng phương pháp kiểm định phương sai một yếu tố One-Way ANOVA
Phương pháp kiểm định phương sai một yếu tố được sử dụng để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố nguyên nhân định tính đến yếu tố kết quả định lượng Qua các giá trị Sig từ bảng Test of Homogeneity of Variances, bảng ANOVA và bảng Robust Tests of Equality of Means, chúng ta có thể xác định xem có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa biến độc lập (định tính) và biến phụ thuộc (định lượng) hay không, từ đó quyết định bác bỏ hoặc chấp nhận giả thuyết.
3.4.3 Dùng phương pháp hồi quy tương quan
Qua khảo sát thực tế, sau khi thực hiện dự án thu hồi đất, người dân nhận được bồi thường bằng tiền và thu nhập của họ có sự gia tăng Tuy nhiên, việc sử dụng tiền bồi thường không đồng đều; một số hộ gia đình đã sử dụng hiệu quả và phát triển kinh tế, trong khi những hộ khác lại không sử dụng hiệu quả, dẫn đến thu nhập giảm sút Vì vậy, học viên đã đề xuất mô hình Binary logistic để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cải thiện thu nhập của người dân sau khi bị thu hồi đất.
Biến Y đại diện cho việc tăng thu nhập của hộ gia đình sau khi thu hồi đất, với giá trị 1 nếu có tăng thu nhập và 0 nếu không Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập được ký hiệu là Xj (j từ 1 đến n), trong khi u là phần dư trong mô hình.
Dạng tổng quát của mô hình hồi quy Binary logistic:
Trong đó P(Y=1) = P0: Xác suất nếu thu nhập hộ gia đình sau thu hồi đất là tăng thu nhập
Xi: là các biến lập
Sử dụng phương pháp tuyến tính hóa biến đổi mô hình trên như sau:
P P Khongcaithienthunhap (là hệ số chênh lệch về cải thiện thu nhập ban đầu, trong đó P0 là xác suất cải thiện thu nhập ban đầu (cho trước)
Hệ số Odds được biểu diễn dưới dạng hàm tuyến tính với các biến độc lập Xi (1,2,…,n) Dựa trên dữ liệu khảo sát từ 153 hộ gia đình bị thu hồi đất cho dự án nuôi trồng thủy sản tại vùng Vàm Răng – Ba Hòn, chúng tôi đã xây dựng hàm hồi quy Binary logistic để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập.
Các giả định kỳ vọng giữa các biến:
Biến X1 (TUOI) được xác định dựa trên độ tuổi của chủ hộ, với giả thuyết rằng tuổi tác càng cao sẽ đi kèm với nhiều kinh nghiệm sống hơn Điều này có thể dẫn đến khả năng kiếm thu nhập cao hơn cho những hộ gia đình có chủ hộ lớn tuổi, từ đó làm tăng xác suất cải thiện thu nhập Do đó, biến TUOI được kỳ vọng có mối quan hệ đồng biến với biến phụ thuộc, tức là tuổi tác của chủ hộ càng lớn thì khả năng tăng thu nhập càng cao.
Biến GIOITINH (Giới tính của chủ hộ) là một yếu tố quan trọng trong phân tích thu nhập hộ gia đình, với GIOITINH = 1 nếu chủ hộ là nam và GIOITINH = 0 nếu chủ hộ là nữ Ở vùng nông thôn, do yêu cầu về sức lao động, các hộ gia đình có chủ hộ nam thường có khả năng thu nhập cao hơn so với hộ gia đình có chủ hộ nữ sau khi thu hồi đất Do đó, giả định rằng nếu chủ hộ là nam, thu nhập sẽ được tăng cường.
Trình độ học vấn của chủ hộ, được đo bằng số năm đi học (biến X3 - HOCVAN), ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng áp dụng khoa học vào sản xuất Những hộ có trình độ học vấn cao thường có khả năng tăng thu nhập nhờ vào việc vận dụng hiệu quả kiến thức đã học vào lao động.
Biến X4 (SOLDONG) đại diện cho số lao động trong hộ gia đình, cho thấy mối liên hệ giữa số lượng người lao động và khả năng tạo ra thu nhập Nghiên cứu cho thấy, khi số người có khả năng lao động trong một gia đình tăng lên, khả năng tạo ra của cải và nguồn thu nhập cho cả gia đình và xã hội cũng sẽ tăng theo Do đó, biến này được kỳ vọng có mối quan hệ đồng biến với biến phụ thuộc.
Biến X5 (LDPHUTHUOC) thể hiện tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ gia đình, được tính bằng tỷ lệ giữa số người không nằm trong độ tuổi lao động và tổng số người trong hộ Tỷ lệ phụ thuộc cao thường dẫn đến thu nhập bình quân đầu người thấp, do những người không lao động không tạo ra nguồn thu nhập để tự nuôi sống bản thân, khiến họ phải phụ thuộc vào người khác Điều này làm giảm khả năng cải thiện thu nhập của hộ gia đình Do đó, giả định rằng nếu chủ hộ có tỷ lệ phụ thuộc cao, thu nhập của họ sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.
Biến X6 (VLAMKCN) thể hiện mối liên hệ giữa số lao động trong hộ gia đình làm việc tại khu công nghiệp và thu nhập của gia đình Khi có nhiều thành viên đi làm, khả năng tăng thu nhập của hộ gia đình cũng cao hơn Do đó, biến này được kỳ vọng sẽ đồng biến với biến phụ thuộc.
Biến X7 (DATBTHOI) đại diện cho tổng diện tích đất bị thu hồi, ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền bồi thường mà hộ gia đình nhận được Khi diện tích đất bị thu hồi lớn, số tiền bồi thường càng cao, giúp tăng thu nhập cho hộ gia đình Điều này không chỉ tạo điều kiện cho họ tái đầu tư vào sản xuất mà còn góp phần nâng cao thu nhập bền vững Do đó, biến này được kỳ vọng sẽ đồng biến với biến phụ thuộc.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng quan về tình hình thu hồi đất
4.1.1 Tình hình thu hồi đất ở Việt Nam
Theo Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia, từ năm 2001-2005, tổng diện tích đất nông nghiệp thu hồi đạt 366,44 nghìn ha, tương đương 3,89% tổng diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng Trong đó, 39,56 nghìn ha được thu hồi để xây dựng khu công nghiệp, 70,32 nghìn ha cho khu đô thị, và 136,17 nghìn ha phục vụ xây dựng kết cấu hạ tầng.
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, từ năm 2001 đến 2007, diện tích đất nông nghiệp chuyển sang đất phi nông nghiệp đạt 500.000ha, trong đó năm 2007 ghi nhận diện tích lúa gieo trồng giảm 125.000ha Các vùng kinh tế trọng điểm là nơi có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi lớn nhất, chiếm khoảng 50% tổng diện tích đất thu hồi của cả nước.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), hàng năm có khoảng 75.000 ha đất nông nghiệp bị thu hồi, ảnh hưởng đến đời sống của khoảng 2,5 triệu người Trung bình, mỗi ha đất thu hồi khiến 10 người mất việc làm.
Theo Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2015, trong năm 2014, 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thực hiện 2.194 công trình, dự án, với Quảng Nam dẫn đầu 294 dự án, theo sau là Lào Cai (211 dự án), Bắc Giang (162 dự án) và Phú Yên (146 dự án) Tổng diện tích đất đã bồi thường, giải phóng mặt bằng lên tới 7.882 ha, bao gồm 6.810 ha đất nông nghiệp, 165 ha đất ở và 930 ha đất khác Số lượng tổ chức và hộ gia đình cá nhân bị thu hồi đất là 80.893 trường hợp, trong đó có 1.155 tổ chức và 79.738 hộ gia đình, cá nhân.
4.1.2 Tình hình thu hồi đất ở tỉnh Kiên Giang
Theo số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường năm 2015, tổng diện tích đất tự nhiên tại tỉnh Kiên Giang là 635.392 ha, bao gồm 563.735 ha đất nông nghiệp, trong đó có 370.568 ha đất trồng lúa, 61.667 ha đất trồng cây lâu năm, 85.361 ha đất trồng rừng, 36.359 ha đất nuôi trồng thủy sản, và 9.780 ha đất nông nghiệp khác Diện tích đất phi nông nghiệp là 68.627 ha, còn đất chưa sử dụng là 3.030 ha Quy hoạch đến năm 2020, diện tích đất nông nghiệp dự kiến giảm còn 559.603 ha, với 365.000 ha đất lúa, 54.968 ha đất trồng cây lâu năm, 85.725 ha đất trồng rừng, 43.378 ha đất nuôi trồng thủy sản và 10.532 ha đất nông nghiệp khác Diện tích đất phi nông nghiệp tăng lên 75.789 ha, trong khi đất chưa sử dụng sẽ không còn.
Theo Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân tỉnh Kiên Giang (2016), có 195 dự án cần thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội, với tổng diện tích quy hoạch 349,13ha Diện tích cần thu hồi là 341,03ha, bao gồm 97,37ha đất trồng lúa, 8,49ha đất rừng phòng hộ, 0,37ha đất rừng đặc dụng và 234,80ha đất khác.
4.1.3 Tình hình thu hồi đất ở huyện Kiên Lương
Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện Kiên Lương (2017), từ 01/07/2004 đến 01/07/2014, tổng diện tích đất thu hồi để thực hiện 54 dự án là 846,36ha Trong đó, 754,93ha đất nông nghiệp đã được thu hồi để giao cho các nhà đầu tư phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, và 80,86ha đất được thu hồi nhằm mục đích quốc phòng, an ninh.
Trong quá trình thu hồi đất để thực hiện dự án, có 1.668 hộ và 18 tổ chức bị ảnh hưởng Trong số đó, 48 hộ được hỗ trợ tái định cư, tổng cộng 198 hộ được bố trí tái định cư bằng đất ở, với diện tích 19.750m² Hiện tại, trên địa bàn huyện có 54 dự án đang được triển khai trong giai đoạn này.
Từ ngày 01/7/2014 đến 01/7/2016, trong hai năm thực hiện Luật Đất đai năm 2013, tổng diện tích đất thu hồi để triển khai 26 dự án đạt 73,66ha Trong đó, 48,02ha là đất nông nghiệp được giao cho các nhà đầu tư để phát triển kinh tế xã hội, và 0,21ha thu hồi phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh Quá trình thu hồi đất đã ảnh hưởng đến 300 hộ dân, trong đó có 198 hộ bị thu hồi đất và 13 hộ được hỗ trợ tái định cư.
Trong những năm qua, tình hình thu hồi đất trên toàn quốc và các địa phương diễn ra mạnh mẽ nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thu hồi đất vẫn gặp nhiều bất cập cần được cải cách Nhà nước cần chú trọng hơn đến thu nhập và đời sống của người dân tại các khu vực có dự án thu hồi đất.
4.1.4 Tình hình triển khai dự án
Xã Hòa Điền, thuộc huyện Kiên Lương, nằm trong vùng tứ giác Long Xuyên, có hệ thống giao thông thủy lợi thuận tiện Đường bộ kéo dài giáp sông Rạch Giá - Hà Tiên và cầu Hòa Điền nối Quốc Lộ 80 với đường bộ Hòa Điền tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa Địa hình xã có nhiều kênh như Kênh 5, kênh 6, kênh 7, kênh 8, kênh 9 và kênh Nông trường, rất thuận lợi cho việc lấy nước nuôi trồng thủy sản.
Mặc dù Tuy thuận lợi về nguồn nước cho nuôi trồng thủy sản, nhưng các hộ dân vẫn gặp khó khăn do việc nuôi trồng nhỏ lẻ, phân tán, chất lượng và hiệu quả chưa cao Thị trường tiêu thụ không ổn định và khả năng cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế Hơn nữa, chưa có sự đầu tư vào nhà máy chế biến tại chỗ để hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
Vấn đề nguồn nước chưa được điều tiết kịp thời, cùng với tình trạng xâm ngập mặn hàng năm vào mùa khô, vẫn chưa được giải quyết triệt để, gây ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động sản xuất và đời sống của người dân.
Quá trình triển khai dự án
Dự án thu hồi đất phục vụ nuôi trồng thủy sản tại vùng Vàm Răng - Ba Hòn, xã Hòa Điền, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, là một phần của dự án đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi cho khu vực này Dự án được triển khai từ ngày 27/04/2015 đến ngày 06/11/2016, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất thủy sản tại tỉnh Kiên Giang.
Dự án thu hồi đất phục vụ nuôi trồng thủy sản tại vùng Vàm Răng – Ba Hòn, xã Hòa Điền, huyện Kiên Lương, do Ban quản lý dự án Đầu tư xây dựng thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Kiên Giang làm chủ đầu tư Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng và hỗ trợ tái định cư huyện Kiên Lương là đơn vị lập phương án thực hiện dự án Việc đền bù và hỗ trợ cho người dân sẽ được thực hiện theo Nghị định số 197/NĐ-CP.
Kết quả nghiên cứu
4.2.1 Thống kê mô tả các đặc điểm cơ bản của các nhân tố có ảnh hưởng đến thu nhập của hộ bị thu hồi đất qua mẫu khảo sát
Qua kết quả tổng hợp từ phiếu khảo sát của 153 hộ bị thu hồi đất ta chia thành bốn nhóm tuổi như sau:
Nhóm 1, gồm những người trong độ tuổi từ 18 đến 30, được xác định là nhóm có ít kinh nghiệm Trong cuộc khảo sát, có 28 hộ gia đình thuộc nhóm này, chiếm 18,3% tổng số hộ được điều tra.
Nhóm 2, với độ tuổi từ 31 đến 45, được đánh giá là nhóm có kinh nghiệm trung bình, bao gồm 34 hộ gia đình, chiếm 22,2% tổng số hộ được khảo sát.
Nhóm tuổi từ 46 đến 55 tuổi, với 55 hộ gia đình tham gia khảo sát, chiếm 35,9% tổng số hộ được điều tra, được xem là nhóm có mức độ kinh nghiệm khá.
Nhóm 4, bao gồm những người trên 56 tuổi, được đánh giá là có kinh nghiệm cao, với 36 hộ gia đình thuộc nhóm này, chiếm 23,5% tổng số hộ được khảo sát.
Bảng 4.1 Kết quả thống kê mô tả nhóm tuổi của chủ hộ
Nhóm tuổi chủ hộ Số hộ
Tỷ lệ (%) Ít kinh nghiệm (18-30 tuổi) 28 18,3
Kinh nghiệm trung bình (31-45 tuổi) 34 22,2
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp từ chương trình SPSS, Excel của 153 mẫu
Hình 4.1 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ các nhóm tuổi của chủ hộ
4.2.1.2 Giới tính của chủ hộ
Qua kết quả thống kê từ phiếu khảo sát cho thấy số chủ hộ nữ 72 người, chiếm tỷ lệ 47,1%, chủ hộ là nam 81 người, chiếm tỷ lệ 52,9%
Bảng 4.2 Kết quả mô tả giới tính của chủ hộ Giới tính chủ hộ Số hộ (người) Tỷ lệ (%)
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp từ chương trình SPSS, Excel của 153 mẫu
Hình 4.2 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ giới tính của chủ hộ 4.2.1.3 Học vấn của chủ hộ
Từ kết quả tổng hợp các phiếu khảo sát cho thấy học vấn của 153 hộ như sau:
Chia thành bốn nhóm để đánh giá
- Nhóm 1: Không được đi học Có 35 hộ, chiếm 22,9%
- Nhóm 2: Học xong chương trình tiểu học Có 58 hộ, chiếm 37,9%
- Nhóm 3: Học xong chương trình trung học cơ sở Có 40 hộ, chiếm 26,1%
- Nhóm 4: Học xong chương trình phổ thông trung học trở lên Có 20 hộ, chiếm 13,1%
Bảng 4.3 Kết quả mô tả nhóm trình độ học vấn của chủ hộ
Trình độ học vấn Số hộ
Học xong chương trình tiểu học 58 37,9
Học xong chương trình trung học cơ sở 40 26,1 Học xong chương trình phổ thông trung học trở lên 20 13,1
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp từ chương trình SPSS, Excel của 153 mẫu
Hình 4.3 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ các nhóm học vấn của chủ hộ 4.2.1.4 Số lao động của chủ hộ
Tổng số lao động của 153 hộ bị thu hồi đất là 361 người, trong đó có 248 lao động nam (chiếm 68,7%) và 113 lao động nữ (chiếm 31,3%) Lao động được phân chia thành bốn nhóm để tiến hành đánh giá.
- Nhóm số hộ có lao động ít: có 5 hộ, chiếm 3,3% trên 153 hộ
- Nhóm số hộ có lao động trung bình: có 103 hộ, chiếm 67,3% trên 153 hộ
- Nhóm số hộ có lao động khá: có 32 hộ, chiếm 20,9% trên 153 hộ
- Nhóm có số lao động cao: có 13 hộ, chiếm 8,5% trên 153 hộ
Bảng 4.4 Kết quả mô tả nhóm số lao động của chủ hộ
Số lao động trong hộ Số hộ (người) Tỷ lệ (%)
Nhóm số hộ có lao động ít 5 3,3
Nhóm số hộ có lao động trung bình 103 67,3
Nhóm số hộ có lao động khá 32 20,9
Nhóm có số lao động cao 13 8,5
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp bằng chương trình SPSS,
Hình 4.4 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ lao động của chủ hộ 4.2.1.5 Tỷ lệ lao động phụ thuộc trong hộ gia đình
Theo kết quả tổng hợp từ phiếu khảo sát cho thấy trong 602 nhân khẩu có
Trong số 241 người, có 40,03% thuộc nhóm lao động phụ thuộc, bao gồm trẻ em, người cao tuổi và những người mất khả năng lao động Nhóm này được chia thành bốn mức độ phụ thuộc khác nhau.
- Nhóm có mức phụ thuộc ít : có 27 hộ, tỷ lệ chiếm 17,6%
- Nhóm có mức phụ thuộc trung bình : có 42 hộ, tỷ lệ chiếm 27,5%
- Nhóm có mức phụ thuộc tương đối nhiều : có 46 hộ, tỷ lệ chiếm 30,1%
- Nhóm có mức phụ thuộc cao : có 38 hộ, tỷ lệ chiếm 24,8%
Bảng 4.5 Kết quả mô tả tỷ lệ lao động phụ thuộc của chủ hộ
Tỷ lệ lao động phụ thuộc trong hộ Số hộ
Nhóm có mức phụ thuộc ít 27 17,6
Nhóm có mức phụ thuộc trung bình 42 27,5
Nhóm có mức phụ thuộc tương đối nhiều 46 30,1
Nhóm có mức phụ thuộc cao 38 24,8
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp bằng chương trình SPSS,
Hình 4.5 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ lao động phụ thuộc của chủ hộ 4.2.1.6 Việc làm khu công nghiệp trong hộ gia đình
Kết quả khảo sát cho thấy trong tổng số 153 hộ được hỏi, có 212 người có cơ hội tìm kiếm việc làm tại các khu công nghiệp Những cơ hội này được phân loại thành bốn cấp độ khác nhau trong việc tìm kiếm việc làm tại các công ty, xí nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh địa phương.
Chỉ có 5 hộ, tương đương 3,3%, có ít cơ hội tìm kiếm việc làm với thu nhập trong các khu công nghiệp, công ty, xí nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh.
Nhóm trung bình có 55 hộ tìm kiếm việc làm tại các khu công nghiệp, công ty, xí nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh, chiếm tỷ lệ 35,9%.
Trong số các hộ gia đình, có 82 hộ, tương đương 53,6%, có cơ hội tìm kiếm việc làm với thu nhập ổn định tại các khu công nghiệp, công ty, xí nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh.
Trong các khu công nghiệp, công ty, xí nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh, nhóm có cơ hội tìm kiếm việc làm với thu nhập cao nhất là 11 hộ, chiếm 7,2% tổng số.
Bảng 4.6 Kết quả mô tả việc làm khu công nghiệp của chủ hộ Việc làm khu công nghiệp Số hộ (người) Tỷ lệ (%)
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp bằng chương trình SPSS,
Hình 4.6 Biểu đồ tỷ lệ có việc làm khu công nghiệp của hộ 4.2.1.7 Diện tích đất bị thu hồi trong hộ gia đình
Theo số liệu tổng hợp từ các cơ quan chuyên môn, 153 hộ dân bị thu hồi đất với tổng diện tích 375.959,21m² Diện tích thu hồi ít nhất là 572,17m², trong khi hộ bị thu hồi nhiều nhất lên tới 7.230m² Trung bình, mỗi hộ dân bị thu hồi 2.457,25m² và được phân loại thành bốn nhóm đánh giá khác nhau.
- Nhóm 1: Bị thu hồi ít (< 1.000m 2 ) có 13 hộ, chiếm tỷ lệ 8,5%
- Nhóm 2: Bị thu hồi mức trung bình (từ 1001 đến 2000m 2 ) có 74 hộ, chiếm tỷ lệ 48,4%
- Nhóm 3: Bị thu hồi tương đối khá (từ 2001 đến 4000m 2 ) có 43 hộ, chiếm tỷ lệ 28,1%
- Nhóm 4: Bị thu hồi nhiều (> 4000m 2 ) có 23 hộ, chiếm tỷ lệ 15%
Bảng 4.7 Kết quả mô tả diện tích đất bị thu hồi
Diện tích đất bị thu hồi Số hộ
Bị thu hồi mức trung bình (từ 1001 đến 2000m 2 ) 74 48,4
Bị thu hồi tương đối khá (từ 2001 đến 4000m 2 ) 43 28,1
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp bằng chương trình SPSS,
Hình 4.7 Biểu đồ tỷ lệ diện tích đất bị thu hồi 4.2.1.8 Khả năng đầu tư sản xuất kinh doanh trong hộ gia đình
Theo khảo sát về khả năng đầu tư sản xuất kinh doanh nhằm tăng thu nhập cho 153 hộ gia đình bị thu hồi đất sau khi nhận tiền đền bù, kết quả được phân thành bốn mức đánh giá cho bốn nhóm khác nhau.
- Nhóm 1: Khả năng sử dụng tiền đền bù để đầu tư sản xuất kinh doanh ít có
- Nhóm 2: Khả năng sử dụng tiền đền bù để đầu tư sản xuất kinh doanh trung bình có 70 hộ, chiếm tỷ lệ 45,8%
- Nhóm 3: Khả năng sử dụng tiền đền bù để đầu tư sản xuất kinh doanh khá có 74 hộ, chiếm tỷ lệ 48,4%
- Nhóm 4: Khả năng sử dụng tiền đền bù để đầu tư sản xuất kinh doanh cao có 3 hộ, chiếm tỷ lệ 2%
Bảng 4.8 Kết quả mô tả khả năng đầu tư sản xuất kinh của chủ hộ
Khả năng đầu tư sản xuất kinh doanh
Số hộ (người) Tỷ lệ (%)
Hộ có đầu tư SXKD nhưng đầu tư ít 6 3,9
Hộ đầu tư SXKD mức trung bình 70 45,8
Hộ có đầu tư SXKD khá 74 48,4
Hộ có đầu tư SXKD cao 3 2,0
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp bằng chương trình SPSS,
Hình 4.8 Biểu đồ tỷ lệ khả năng đầu tư sản xuất kinh doanh của chủ hộ
4.2.1.9 Mức thu nhập sau khi bị thu hồi đất
Theo khảo sát về thu nhập trung bình hàng tháng của các hộ gia đình trước và sau khi bị thu hồi đất, có sự biến động rõ rệt: một số hộ có mức thu nhập giảm, một số không đổi, trong khi một số khác lại tăng Do đó, tác giả đã phân loại thành hai mức đánh giá khác nhau.
- Nhóm 1: Thu nhập giảm hoặc không đổi ít có 54 hộ, chiếm tỷ lệ 35,3%
- Nhóm 2: Thu nhập tăng có 99 hộ, chiếm tỷ lệ 64,7%
Bảng 4.9 Kết quả mô tả tổng thu nhập trong hộ của người bị thu hồi đất
STT Mức thu nhập Số hộ
1 Thu nhập giảm hoặc không đổi 54 35,3
Nguồn: Khảo sát và tính toán tổng hợp bằng chương trình SPSS,
Hình 4.9 Biểu đồ tỷ lệ mức thu nhập sau khi bị thu hồi đất
4.2.2 Kiểm định sự khác biệt về các nhân tố có ảnh hưởng đến thu nhập của hộ bị thu hồi đất
Bài viết này sử dụng phương pháp phân tích phương sai một yếu tố One Way ANOVA trong SPSS để khảo sát sự khác biệt giữa các nhân tố như tuổi, giới tính, học vấn, số lao động, số người phụ thuộc, tình trạng việc làm trong khu công nghiệp, diện tích đất bị thu hồi, và khả năng đầu tư sản xuất kinh doanh từ tiền đền bù, với biến phụ thuộc là thu nhập (Y = THUNHAP) Kết quả từ các số liệu thống kê tại mục 4.2.1 sẽ giúp xác định mối liên hệ giữa các yếu tố này và thu nhập.