1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)

94 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp (Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
Tác giả Mai Văn Sủng
Người hướng dẫn PGS. TS. Trần Quốc Thắng
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Quản lý khoa học và công nghệ
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2015
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 94
Dung lượng 2,17 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do nghiên cứu (8)
  • 2. Lịch sử nghiên cứu (10)
  • 3. Mục tiêu nghiên cứu (13)
  • 4. Phạm vi nghiên cứu (13)
  • 5. Mẫu khảo sát (14)
  • 6. Vấn đề nghiên cứu (14)
  • 7. Giả thuyết nghiên cứu (14)
  • 8. Phương pháp nghiên cứu (14)
  • 9. Kết cấu của luận văn (15)
  • 1. CHƯƠNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG ĐỔI MỚI CỦA CÁC (0)
    • 1.1. Hệ thống đổi mới (16)
      • 1.1.1. Đổi mới (16)
      • 1.1.2. Hệ thống đổi mới quốc gia (NIS) (20)
      • 1.1.3. Hệ thống đổi mới trong doanh nghiệp (23)
    • 1.2. Mô hình về quá trình đổi mới (25)
      • 1.2.1. Thế hệ thứ nhất (25)
      • 1.2.2. Thế hệ thứ hai (26)
      • 1.2.3. Thế hệ thứ ba (28)
      • 1.2.4. Thế hệ thứ tư (29)
    • 1.3. Giới thiệu chung về chính sách đổi mới (32)
    • 1.4. Quá trình phát triển chính sách đổi mới (34)
      • 1.4.1. Quá trình hoạch định chính sách đổi mới (34)
      • 1.4.2. Môi trường cho đổi mới (36)
    • 1.5. Doanh nghiệp sản xuất công nghiệp (38)
      • 1.5.1. Doanh nghiệp (38)
      • 1.5.2. Doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất công nghệ (39)
    • 1.6. Khái niệm công nghệ và quản lý công nghệ (39)
      • 1.6.1. Khái niệm công nghệ (39)
      • 1.6.2. Quản lý công nghệ ở các doanh nghiệp (42)
  • 2. CHƯƠNG THỰC TRẠNG HỆ THỐNG ĐỔI MỚI TRONG CÁC (0)
    • 2.1. Thực trạng chính sách xây dựng và thúc đẩy hệ thống đổi mới ở Việt Nam (45)
      • 2.1.1. Tình hình chính sách đổi mới tại Việt Nam (45)
      • 2.1.2. Nhận xét về chính sách đổi mới của Việt Nam (49)
    • 2.2. Thực trạng hệ thống đổi mới của các doanh nghiệp công nghiệp (50)
      • 2.2.1. Thực trạng hệ thống đổi mới của các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp (50)
      • 2.2.2. Đánh giá chung về hệ thống đổi mới của các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp (55)
    • 2.3. Hệ thống đổi mới trong các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm cho người đi xe mô tô và xe máy (mũ bảo hiểm) tại thành phố Hồ Chí Minh (59)
      • 2.3.1. Tình hình chung về các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm (59)
      • 2.3.2. Các thành tố trong hệ thống đổi mới tại các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm tại thành phố Hồ Chí Minh (61)

Nội dung

Lý do nghiên cứu

Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ (KH&CN) trong sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là trong nền văn minh hiện đại Nhiều nền văn minh cổ đại, như Trung Hoa, đã từng là những cái nôi của các phát minh vĩ đại, góp phần định hình tương lai của nhân loại.

Ai Cập và Ba Tư từng là những nền văn minh hùng mạnh nhưng đã suy tàn do không duy trì được các thiết chế phát triển phù hợp Ngược lại, các nền văn minh mới ở Châu Âu và Bắc Mỹ trong lịch sử cận đại đã phát triển mạnh mẽ nhờ xây dựng những thiết chế thích hợp cho sự phát triển của khoa học và kỹ thuật.

Các nền công nghiệp phát triển tại Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc đã đạt được thành công ấn tượng nhờ vào việc coi khoa học và công nghệ (KH&CN) là quốc sách hàng đầu Trong vòng 50-70 năm qua, các quốc gia này đã tập trung đầu tư mạnh mẽ vào KH&CN, tạo ra những bước tiến vượt bậc trong phát triển kinh tế và công nghiệp.

"Đôi đũa thần" KH&CN đã giúp các nước này không chỉ thoát khỏi nghèo đói và lạc hậu, mà còn đuổi kịp Châu Âu và Bắc Mỹ, nơi có lịch sử phát triển KH&CN hàng trăm năm Hiện nay, họ đang chiếm lĩnh vị trí tiên phong trong một số lĩnh vực KH&CN.

Nhiều quốc gia phát triển mặc dù không được thiên nhiên ưu đãi, trong khi nhiều nước ở châu Phi và Đông Âu, dù sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vẫn nghèo nàn và lạc hậu Điều này cho thấy rằng tài nguyên thiên nhiên chỉ có thể đáp ứng nhu cầu cơ bản và làm giàu cho một bộ phận nhỏ có quyền lực, nhưng không thể là nền tảng cho sự phát triển bền vững Trí tuệ và tài nguyên con người mới chính là yếu tố quyết định, có khả năng biến không thành có và thúc đẩy sự phát triển bền vững cho xã hội.

Nghiên cứu hệ thống khoa học, công nghệ và đổi mới (STI) đang trở thành tiêu điểm quan trọng trong quản lý, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập KH&CN quốc tế Các chuyên gia đã chỉ ra rằng STI là ưu tiên hàng đầu tại nhiều quốc gia, với sự nhấn mạnh vào hoạt động nghiên cứu và phát triển, đổi mới công nghệ và hệ thống đổi mới quốc gia (NIS) Tại Việt Nam, doanh nghiệp là thành tố chính trong nền kinh tế, nhưng hệ thống đổi mới trong các doanh nghiệp vẫn chưa rõ ràng và gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nơi đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng cao Do đó, tác giả đã chọn nghiên cứu về hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm tại thành phố Hồ Chí Minh, nhằm làm rõ những thách thức và cơ hội trong quá trình đổi mới.

Hệ thống lý luận về đổi mới và quản lý đổi mới quốc gia cần được xây dựng một cách chặt chẽ, nhằm cung cấp cơ sở vững chắc cho việc ban hành các chính sách đổi mới hiệu quả Việc này không chỉ góp phần vào sự phát triển bền vững của hệ thống đổi mới, mà còn đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong quá trình triển khai các chính sách liên quan.

Doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm có thể tham khảo kết quả của đề tài này để đánh giá năng lực đổi mới của mình Việc này giúp họ nhận diện thực trạng về điểm mạnh và điểm yếu trong khả năng đổi mới, từ đó xác định các ưu tiên cần thiết Đồng thời, doanh nghiệp cũng có thể kiểm tra tính khả thi của việc đổi mới công nghệ và điều chỉnh kế hoạch thực hiện nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình đổi mới.

Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đổi mới và hiện đại hóa công nghệ sản xuất là một trong những nhiệm vụ quan trọng Đề xuất các chính sách phù hợp sẽ nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống đổi mới Các giải pháp được rút ra từ kết quả nghiên cứu sẽ giúp tối ưu hóa hoạt động này.

Lịch sử nghiên cứu

Nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển đã chú trọng đến việc xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia cùng với các chương trình và kế hoạch đổi mới công nghệ.

Các nghiên cứu của C.Edquist (Trường ĐH Lingkoping, Thụy Điển) năm 1999,

Năm 2001 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách đổi mới, cùng với việc thiết kế và thực hiện các chính sách này trong khuôn khổ của một cách tiếp cận hệ thống đổi mới.

Nghiên cứu của Ủy ban châu Âu (2002) về đổi mới cho ngày mai đã tổng hợp các phương pháp mới trong chính sách đổi mới cho nền kinh tế tri thức Nghiên cứu này xác định và tổng quan các mối liên kết giữa chính sách đổi mới và các chính sách khác, đặc biệt là những chính sách liên quan đến khuôn khổ pháp lý và thể chế cho đổi mới.

Nghiên cứu năm 2003 của Ủy ban châu Âu đã phân tích các chính sách đổi mới của một số quốc gia châu Âu, tập trung vào hai khía cạnh chính: môi trường thuận lợi cho đổi mới và việc tăng cường nguồn nhân lực phục vụ cho đổi mới.

Trong nghiên cứu của Hiệp hội Charles River (châu Á Thái Bình Dương) năm

Năm 2003, một nghiên cứu tổng quan đã được thực hiện về chính sách đổi mới của Singapore, tập trung vào các khía cạnh quan trọng như đầu tư nước ngoài, vốn mạo hiểm, chính sách nghiên cứu và phát triển (NC&TK), cùng với chính sách chùm và liên kết.

Dự án Monit, được thực hiện bởi OECD vào năm 2004, tập trung vào việc phân tích hệ thống chính sách đổi mới của Na Uy, phát triển hệ thống khoa học và đổi mới, cũng như tổng quan về hệ thống đổi mới hiện tại Dự án này còn tóm tắt các biện pháp chính sách đổi mới và đánh giá việc điều phối cũng như thực hiện các chính sách của Na Uy.

Nghiên cứu năm 2004 của Viện nghiên cứu chính sách tăng trưởng Thụy Điển, phối hợp với đại sứ quán Thụy Điển tại Tokyo, đã tập trung vào việc phân tích các vấn đề hiện tại trong nghiên cứu và chính sách đổi mới ở Nhật Bản Nghiên cứu này cũng xem xét xu hướng tài trợ của chính phủ cho nghiên cứu và công nghệ, nhằm hiểu rõ hơn về sự phát triển và đổi mới trong lĩnh vực này.

Tại Canada, Chương trình Nghiên cứu Trợ giúp Công nghiệp (NRC) được thiết lập nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Chương trình này cung cấp tư vấn công nghệ, hỗ trợ và dịch vụ để giúp DNNVV nâng cao năng lực đổi mới NRC xây dựng mạng lưới các tổ chức, cơ quan dịch vụ và chương trình hỗ trợ nhằm phát triển và khai thác công nghệ trong nền kinh tế tri thức cạnh tranh Hàng năm, chương trình cung cấp giải pháp cho khoảng 12.400 DNNVV liên quan đến nghiên cứu và đổi mới công nghệ công nghiệp.

Ngoài các chương trình đổi mới công nghệ cấp quốc gia, nhiều quốc gia cũng triển khai các chương trình nghiên cứu và đổi mới công nghệ cấp vùng Chương trình RIT của Bỉ khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại vùng Wallonia tham gia vào hoạt động nghiên cứu và công nghệ thông qua việc tuyển dụng các nhà quản lý đổi mới Tương tự, chương trình “Baross Gabor” của Hungary hỗ trợ đổi mới công nghệ tại vùng Del-Alfold, nhằm tăng cường chuyển giao tri thức giữa các viện nghiên cứu và doanh nghiệp, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu thông qua phát triển sản phẩm và công nghệ cho doanh nghiệp nhỏ, tạo điều kiện hợp tác giữa doanh nghiệp và các tổ chức khác trong hoạt động đổi mới, cũng như tăng cường thương mại hóa kết quả đổi mới trong doanh nghiệp.

Theo các nghiên cứu về NIS được Charles Edquist tập hợp trong cuốn sách

Bài viết "Hệ thống Đổi mới - Công nghệ, Tổ chức và Thể chế" (1994) chỉ ra rằng sự khác biệt kinh tế giữa các quốc gia là yếu tố quyết định cho sự khác biệt trong hệ thống đổi mới Điều này đồng thời cũng giải thích cách mà đổi mới công nghệ diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn tại các quốc gia này.

Franco Malerba trong nghiên cứu về “Đổi mới hệ thống ngành ở Châu Âu” đã chỉ ra rằng tri thức, công nghệ, các tác nhân và mạng lưới, cùng với các thể chế là những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến quá trình đổi mới.

Các nghiên cứu lý thuyết về đổi mới và chính sách đổi mới tại Việt Nam chủ yếu dựa trên các công trình nổi tiếng của nước ngoài, như của Nguyễn Mạnh Quân (2002), Hoàng Văn Tuyên (2006), Nguyễn Thị Minh Nga (2004) và Nguyễn Việt Hòa (2004) Những nghiên cứu này không chỉ tổng quan mà còn phân tích thực tế trong nước, từ đó đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện các giải pháp chính sách hiện tại hoặc đề xuất giải pháp mới Tuy nhiên, hệ thống khoa học và công nghệ của Việt Nam vẫn được đánh giá là kém hiệu quả.

Trước đây, cụm từ “hệ thống đổi mới quốc gia” thường bị tránh né trong các văn bản chính thức, khiến các nhà nghiên cứu chính sách phải sử dụng những cách diễn đạt vòng vo như “hệ thống đổi mới quốc gia về KH&CN” hoặc “hệ thống đổi mới quốc gia bằng KH&CN” Nguyên nhân chủ yếu là do sự nhầm lẫn giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế thông qua KH&CN Tuy nhiên, sự nhầm lẫn này đã được khắc phục nhờ vào chủ trương xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia được đề ra trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong các nghiên cứu khác, đổi mới được nhấn mạnh trong hoạt động nghiên cứu và triển khai (NC&TK) cùng với những vấn đề tồn tại trong lĩnh vực này Tác giả Trần Ngọc Ca trong nghiên cứu "Hệ thống đổi mới của Việt Nam: Hướng tới một sản phẩm của hệ thống đổi mới sinh thái" đã chỉ ra tầm quan trọng của hệ thống đổi mới trong bối cảnh phát triển bền vững.

Việt Nam chỉ đầu tư khoảng 0,5% GDP cho nghiên cứu và phát triển (NC&TK) vào năm 2003, trong khi các quốc gia OECD và Trung Quốc chi khoảng 2% GDP cho hoạt động này Hầu hết quỹ tài trợ cho NC&TK tập trung tại các viện nghiên cứu của chính phủ, với số lượng trường đại học có đủ nguồn lực cho NC&TK rất hạn chế Cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế, và các nghiên cứu thường mang tính lý thuyết hoặc bổ sung, không đáp ứng nhu cầu thực tế của các ngành sản xuất.

Mục tiêu nghiên cứu

Nhận diện được hệ thống đổi mới trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp

+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về hệ thống đổi mới của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp;

+ Phân tích các thành tố và các mối liên hệ giữa các thành tố trong hệ thống đổi mới tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.

Mẫu khảo sát

Tại các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (Danh mục xem ở Phụ lục 1)

Vấn đề nghiên cứu

Hệ thống đổi mới trong các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có những thành phần và đặc điểm gì?

Giả thuyết nghiên cứu

Hệ thống đổi mới trong doanh nghiệp bao gồm đổi mới quy trình sản xuất và sản phẩm, với các nguồn lực chủ yếu như nhân lực, tài lực, vật lực và tin lực Tuy nhiên, đầu tư cho hoạt động đổi mới vẫn còn thấp, nhiều doanh nghiệp không có tổ chức R&D, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao và công nghệ sản xuất lạc hậu, dẫn đến khả năng cạnh tranh kém.

Phương pháp nghiên cứu

Cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu công nghệ và đổi mới công nghệ bao gồm việc xem xét các yếu tố liên quan đến đánh giá năng lực công nghệ, vai trò của năng lực công nghệ trong đổi mới, và sự cần thiết phải đổi mới công nghệ để phát triển bền vững.

Phương pháp nghiên cứu tài liệu bao gồm việc nghiên cứu cơ sở lý luận từ các lý thuyết liên quan, kế thừa kết quả nghiên cứu trước đó Quá trình này đòi hỏi thu thập, tổng hợp và phân tích thông tin về công nghệ, đổi mới, sáng tạo, cũng như các hệ thống đổi mới quốc gia và doanh nghiệp.

Phương pháp quan sát được áp dụng để nghiên cứu thực tiễn hoạt động sản xuất và đổi mới trong các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm tại thành phố Hồ Chí Minh Việc quan sát này giúp nắm bắt những xu hướng, cải tiến và thách thức mà các doanh nghiệp gặp phải trong quá trình phát triển.

Phương pháp chuyên gia bao gồm việc thu thập ý kiến và nhận định từ các nhà khoa học về thực trạng hệ thống đổi mới của doanh nghiệp hiện nay Điều này liên quan đến nội dung bảng hỏi cho điều tra và phỏng vấn, cũng như các phương pháp đánh giá năng lực đổi mới Ngoài ra, việc đưa ra các khuyến nghị và đề xuất chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng và phát triển hệ thống đổi mới cũng là một phần quan trọng của phương pháp này.

Phương pháp điều tra và phỏng vấn được thực hiện thông qua việc thiết kế bảng hỏi (Phụ lục 2) nhằm thu thập thông tin định lượng cho nghiên cứu Luận văn Các nội dung chính bao gồm chính sách đổi mới của doanh nghiệp, các hoạt động đổi mới, kết quả đạt được, nguồn lực cho đổi mới, và môi trường hỗ trợ đổi mới Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng sẽ thu thập ý kiến để xây dựng và phát triển hệ thống đổi mới trong doanh nghiệp.

Để hỗ trợ quá trình nghiên cứu, tác giả đã thực hiện một số cuộc phỏng vấn với các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm, các nhân sự quản lý trong lĩnh vực quản lý khoa học và công nghệ, cũng như cán bộ liên quan đến hoạch định chính sách khoa học và công nghệ.

Kết cấu của luận văn

Luận văn kết cấu thành 2 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về hệ thống đổi mới trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp

Chương 2: Thực trạng hệ thống đổi mới tại các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Kết luận và khuyến nghị

CHƯƠNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG ĐỔI MỚI CỦA CÁC

Hệ thống đổi mới

1.1.1 Đổi mới Đổi mới có tầm quan trọng đang gia tăng và thay đổi như một nguồn lực của lợi thế cạnh tranh với tầm ảnh hưởng rộng lớn đến chính sách Tuy nhiên, việc đưa ra một định nghĩa thống nhất không phải là đơn giản và đã có nhiều tranh luận về vấn đề này Thuật ngữ đổi mới đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ XX khi nhà kinh tế học Schumpeter (1911) đã phân biệt giữa việc hình thành một ý tưởng cho sản phẩm hoặc qui trình (sáng chế) và việc ứng dụng ý tưởng đó đến quá trình kinh tế (đổi mới)

Khung 1 Phân biệt giữa sáng chế, đổi mới và truyền bá

Sáng chế là quá trình nhận thức và hiểu biết về thiết kế của một sản phẩm hoặc quy trình, cũng như cải tiến chúng Đổi mới liên quan đến việc áp dụng sáng chế vào hoạt động kinh tế, thể hiện giá trị kinh tế thực tiễn của sáng chế đó.

Truyền bá sáng chế và quy trình đổi mới có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, dẫn đến những thay đổi và hình thành các sáng chế mới Schumpeter (1939) đã mở rộng khái niệm đổi mới, nhấn mạnh sự kết hợp các chức năng mới trong sản xuất, bao gồm việc tạo ra hàng hóa mới, hình thức tổ chức mới như sáp nhập, mở ra thị trường mới, và kết hợp các yếu tố theo cách mới Các nhà nghiên cứu như Lundvall (1992) và Elam (1992) cũng chia sẻ quan điểm tương tự về vai trò của đổi mới trong phát triển kinh tế.

Nelson và Rosenberg (1993) cùng Carlsson và Stankiewicz (1995) định nghĩa đổi mới là một khái niệm rộng, bao gồm các quy trình mà doanh nghiệp áp dụng để thiết kế sản phẩm và quy trình sản xuất mới, không phân biệt quy mô quốc tế hay quốc gia Đổi mới không chỉ đơn thuần là việc giới thiệu công nghệ lần đầu, mà còn bao gồm cả việc truyền bá các công nghệ đó.

Edquist (1997) định nghĩa đổi mới là việc phát triển nền kinh tế tri thức mới hoặc sự kết hợp mới của các tri thức hiện có, nhấn mạnh rằng đổi mới chủ yếu là kết quả của quá trình học hỏi tương tác Trong nền kinh tế, các phần tri thức khác nhau được kết hợp theo những cách mới để tạo ra tri thức mới, quy trình, hoặc sản phẩm mới Những tương tác này không chỉ diễn ra trong nghiên cứu và phát triển mà còn liên quan đến các hoạt động kinh tế hàng ngày như mua bán, sản xuất và marketing Tương tác có thể xảy ra trong các doanh nghiệp (giữa cá nhân hoặc phòng ban), giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng, giữa các doanh nghiệp khác nhau, hoặc giữa doanh nghiệp với các tổ chức và cơ quan công quyền.

Ông phân biệt các loại đổi mới thành hai nhóm chính: đổi mới quy trình, bao gồm công nghệ và tổ chức, và đổi mới sản phẩm, bao gồm hàng hóa và dịch vụ.

Hình 1 1 Phân loại đổi mới (theo Edquist, 1997)

Ngược lại với cách tiếp cận tuyến tính trong đổi mới, một số học giả đã áp dụng cách tiếp cận hệ thống, nhấn mạnh tầm quan trọng của các hợp phần và sự tương tác giữa chúng trong quy trình đổi mới Thuật ngữ "đổi mới" không chỉ đơn thuần là "nghiên cứu" hay "tiến trình công nghệ", mà còn bao gồm nhiều hoạt động khác nhau Do đó, đổi mới có thể được định nghĩa là sự kết hợp đa dạng của các hoạt động nhằm phát triển và cải tiến sản phẩm, dịch vụ.

Công nghệ Tổ chức Hàng hoá Dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc đổi mới và mở rộng sản phẩm, dịch vụ cùng với thị trường Nó thúc đẩy sự hình thành các phương pháp sản xuất, cung cấp và phân bổ mới, đồng thời mang lại những thay đổi trong quản lý và tổ chức công việc Bên cạnh đó, công nghệ này cũng cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao kỹ năng cho người lao động.

Đổi mới được định nghĩa là quy trình mà doanh nghiệp tự chủ trong việc thiết kế và sản xuất hàng hóa cũng như dịch vụ mới, bất kể chúng đã từng xuất hiện hay chưa trên thị trường, cả trong nước và quốc tế (EC, 2002).

Trong nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Quân (2006), đổi mới được xác định là hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua việc phát triển sản phẩm và dịch vụ mới Đổi mới bao gồm nhiều hoạt động xã hội phức tạp như nghiên cứu, triển khai công nghệ, thiết kế, tiếp thị và thương mại hoá, liên quan đến nhiều tổ chức như viện nghiên cứu, doanh nghiệp, trường đại học và cơ quan quản lý nhà nước Hệ thống các tác nhân trong hoạt động đổi mới có cấu trúc phức tạp, diễn tiến không tuần tự nhưng có khả năng tự tổ chức và tự tiến hoá, đòi hỏi môi trường và thiết chế quản lý phù hợp để phát triển.

Đổi mới được định nghĩa là việc giới thiệu sản phẩm và quy trình mới mang lại lợi ích trên thị trường Theo định nghĩa của OECD (2005), đổi mới sản phẩm và quy trình công nghệ bao gồm các sản phẩm và quy trình mới được thực hiện và cải tiến công nghệ đáng kể Đổi mới chỉ được coi là thành công khi sản phẩm mới được đưa ra thị trường hoặc quy trình mới được áp dụng trong sản xuất Các hoạt động liên quan đến đổi mới bao gồm khoa học, công nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại Doanh nghiệp thực hiện đổi mới là những đơn vị đã áp dụng sản phẩm hoặc quy trình công nghệ mới hoặc cải tiến đáng kể trong một khoảng thời gian nhất định Để đạt được thành công trong đổi mới, doanh nghiệp cần thực hiện nhiều hoạt động khác nhau tùy thuộc vào bản chất của sự đổi mới đó.

(i) Tiếp nhận và tạo tri thức mới phù hợp đối với doanh nghiệp:

- Nghiên cứu và triển khai;

Tiếp nhận công nghệ và bí quyết tách rời bao gồm các hình thức như sáng chế, giấy phép, bí quyết được công bố, thương hiệu, thiết kế, khuôn mẫu, dịch vụ máy tính và các dịch vụ khoa học và công nghệ khác, tất cả đều liên quan đến việc thực hiện đổi mới.

Tiếp nhận công nghệ mới thông qua máy móc và thiết bị cải tiến, bao gồm cả phần mềm tích hợp, là yếu tố quan trọng trong quá trình đổi mới.

(ii) Các khâu chuẩn bị sản xuất:

Trang bị máy móc và xây dựng công nghiệp đang trải qua những thay đổi đáng kể trong thủ tục, phương pháp và tiêu chuẩn sản xuất cũng như kiểm soát chất lượng Việc áp dụng các phần mềm cần thiết giúp tạo ra sản phẩm mới hoặc cải tiến công nghệ, đồng thời hỗ trợ cho việc sử dụng quy trình mới hoặc nâng cấp công nghệ hiện có.

Thiết kế công nghiệp bao gồm việc tạo ra các sơ đồ và bản vẽ để xác định các quy trình, tính năng kỹ thuật và đặc điểm vận hành cần thiết cho việc sản xuất sản phẩm công nghệ mới và thực hiện các quy trình mới.

Mô hình về quá trình đổi mới

Thế hệ thứ nhất của các mô hình công nghệ đẩy, phát triển trong những năm 1950 và 1960, nhấn mạnh rằng đổi mới là một chuỗi hoạt động tuyến tính Trong giai đoạn này, hoạt động nghiên cứu và phát triển (NC&TK) được ưu tiên, trong khi thị trường chỉ đóng vai trò là nơi tiếp nhận những sản phẩm và thành tựu từ công nghệ của các doanh nghiệp.

Mô hình giai đoạn hoạt động do Utterback phát triển vào năm 1971 cho rằng quá trình đổi mới bao gồm ba giai đoạn chính: tạo ý tưởng, giải quyết vấn đề, và thực hiện cùng phổ biến Cùng năm đó, Mansfield và các nhà nghiên cứu khác đã xây dựng một mô hình đổi mới sản phẩm với năm giai đoạn, bao gồm cả hoạt động nghiên cứu, khởi đầu sản xuất, đồng thời nhấn mạnh hai yếu tố quan trọng là chi phí và thời gian.

Mô hình tám giai đoạn của Bright bao gồm giai đoạn tiền đổi mới, khi sự đổi mới bắt đầu hình thành, và giai đoạn hậu đổi mới, khi sự đổi mới được tiếp nhận và mở rộng Nhiều học giả khác cũng mô tả quá trình đổi mới qua các mô hình ống nối tuần tự, trong đó các hoạt động của từng phòng ban như Nghiên cứu & Thiết kế, kỹ thuật, sản xuất và marketing diễn ra tách biệt Tuy nhiên, thực tế cho thấy các hoạt động đổi mới diễn ra đồng thời, thường xuyên chồng chéo giữa các phòng ban và bao gồm cả phản hồi và quy trình quay vòng.

Mô hình thị trường/nhu cầu kéo (market/need – pull model) thuộc thế hệ thứ hai, được phát triển từ cuối những năm 1970, nhấn mạnh vào sự quan trọng của thị trường trong quá trình nghiên cứu và phát triển (NC&TK) Mặc dù vẫn đề cập đến quy trình tuyến tính, mô hình này cho thấy vai trò chủ động cao hơn của hoạt động NC&TK, phản ánh nhu cầu và xu hướng từ thị trường.

Trong mô hình thị trường kéo của Twiss, các công ty nghiên cứu thị trường để hiểu rõ nhu cầu khách hàng Họ phát triển sản phẩm đáp ứng nhu cầu này bằng cách áp dụng kiến thức công nghệ Qua đó, sự tương tác giữa phòng Nghiên cứu & Phát triển và phòng Marketing được hình thành.

Mô hình 1 1.Mô hình thị trường kéo của Twiss

Nguồn: Brian Twiss (1980): Managing Technological Innovation, trang 4

Mô hình chuyển dịch của Walker nhấn mạnh việc chuyển đổi đầu vào, bao gồm kiến thức, chi phí và nhân sự, thành các kết quả như sản phẩm mới hoặc cải tiến Những sản phẩm này sau đó lại tạo ra động lực thúc đẩy đổi mới từ góc độ thị trường Đáng chú ý, Walker không xem công nghệ là yếu tố dẫn dắt chính trong quá trình này.

Kiến thức khoa học Đầu vào

Nhu cầu và sự thỏa mãn của khách hàng

Thiết kế sản phẩm Ý tưởng công nghệ Đầu ra

Các sản phẩm Sản xuất

Mô hình 1 2 Mô hình chuyển dịch của Walker

Nguồn: Walker (1979): Industrial Innovation and international Trading

Thế hệ thứ ba, bắt đầu từ những năm 1980, bao gồm các mô hình gắn kết (coupling models) kết hợp các mô hình trước đó, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc liên kết năng lực công nghệ với nhu cầu của người sử dụng.

Mô hình tương tác của Rothwell và Zegveld (1985) nhấn mạnh tầm quan trọng của nhu cầu xã hội mới và năng lực công nghệ, bao gồm cả công nghệ và kỹ thuật sản xuất hàng đầu Quá trình đổi mới được chia thành các giai đoạn chức năng khác nhau, nhưng chúng tương tác và độc lập với nhau Hình mẫu chung của quá trình này là một mạng lưới phức tạp các kênh thông tin, liên kết cả bên trong và bên ngoài tổ chức, gắn liền với các chức năng khác nhau.

Quá trình đổi mới: NC&TK

Sản phẩm và quy trình đã được phát triển từ trước có liên quan đên đổi mới

Kết quả: sản phẩm mới hoặc được cải tiến Tài chính

Chi phí sản xuất và việc kết nối các hãng với cộng đồng khoa học và công nghệ là rất quan trọng Mô hình này nhấn mạnh rằng sự phát triển sản phẩm mới cần sự tham gia của cả phòng marketing và R&D trong quá trình sản xuất, đánh giá dự án, và thống nhất khái niệm từ đầu Các tổ chức thành công thường chú trọng vào việc xây dựng các nhóm liên ngành để tối ưu hóa việc chia sẻ thông tin giữa các bộ phận Điều này đảm bảo rằng nhu cầu khách hàng được đáp ứng qua sự tập trung của hoạt động R&D, giúp sản phẩm phát triển được đưa vào sản xuất một cách đáng tin cậy.

Mô hình 1 3 Mô hình gắn kết (coupling models)

Nguồn: Rothwell and Zegveld (1985), trang 50

Thế hệ thứ tư của các mô hình liên kết, được phát triển từ giữa những năm 1980, tập trung vào sự phát triển đồng thời với các nhóm liên kết Những mô hình này nhấn mạnh tầm quan trọng của các mối quan hệ bên ngoài theo cả chiều ngang và chiều dọc.

Nghiên cứu, thiết kế và phát triển Đầu bảng về công nghệ và sản xuất

Thị trường Những nhu cầu của xã hội và thị trường

Vào năm 1975, Utterback và Abernathy đã phát triển mô hình quá trình liên kết và đổi mới sản phẩm, mô tả sự thay đổi trong quá trình đổi mới của các doanh nghiệp khi trưởng thành Mô hình này tập trung vào các ngành công nghệ cao, nơi các sáng chế công nghệ được liên tục phát triển Nó chỉ ra rằng quá trình đổi mới diễn ra lặp đi lặp lại khi một doanh nghiệp nhỏ phát triển thành một nhà sản xuất lớn Đặc điểm nổi bật của quá trình này là sự thay đổi năng động theo thời gian, với hoạt động nghiên cứu và phát triển (NC&TK) ban đầu tập trung vào việc phát triển sản phẩm mới, nhằm tối ưu hóa quy trình và giảm chi phí.

Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, đặc tính nổi bật là sự liên kết và phát triển song song, được Rothwell gọi là Mô hình liên kết vào năm 1994 Các công ty hiện nay tích cực kết nối các nhà cung cấp và người tiêu dùng trong việc phát triển sản phẩm mới Bên trong tổ chức, các phòng ban khác nhau hợp tác chặt chẽ trong các dự án, thay vì hoạt động theo trình tự tuần tự Một ví dụ điển hình là công ty Ô tô Nissan của Nhật Bản, đã áp dụng mô hình này để nâng cao quy trình đổi mới sản phẩm của mình.

Mô hình hệ thống đổi mới công nghệ do Brown và Karagozoglu phát triển vào năm 1989 cung cấp một khuôn khổ phân tích các nghiên cứu trước đó liên quan đến quá trình đổi mới Mô hình này nhấn mạnh rằng hệ thống đổi mới bao gồm nhiều yếu tố tổ chức, hoạt động như các đầu vào năng động cho quá trình đổi mới Dựa trên lý thuyết hệ thống tổng quan, các đầu vào này có tác động kiểm soát và chi phối hành vi trong suốt các giai đoạn của quá trình đổi mới.

Mô hình 1 4 Mô hình hệ thống về đổi mới công nghệ

Mô hình hệ thống về đổi mới công nghệ tổng kết từ thực tiễn đổi mới trong các tổ chức, liên kết các khía cạnh của quá trình đổi mới với mục tiêu, yếu tố đầu vào và các lực lượng hỗ trợ, cản trở Qua việc phân tích và dự báo các yếu tố này, quá trình đổi mới sẽ được định hướng theo đúng mục tiêu của nhà quản lý.

Những đầu vào quyết định:

1 Chiến lược tổng thể của công ty

3 Chất lượng của quản lý cấp cao

Các mục tiêu đổi mới của công ty:

1 Các sản phẩm mới thực thụ

2 Các sản phẩm mới nhanh chóng

3 Đổi mới quá trình và kết quả

Các đầu vào thực hiện:

4 Những vai trò chủ chốt

Các lực lượng cản trở sự đổi mới

Các giai đoạn của quá trình đổi mới

Các lực đẩy hỗ trợ sự đổi mới

Giới thiệu chung về chính sách đổi mới

Chính sách đổi mới có nhiều khía cạnh đa dạng, và có thể được hiểu rõ hơn thông qua các quan điểm của nhiều tác giả khác nhau.

Theo Stoneman (1987), chính sách đổi mới được hiểu là những biện pháp mà chính phủ áp dụng nhằm can thiệp vào nền kinh tế, với mục tiêu thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ.

Theo Mowery (1992), chính sách đổi mới được định nghĩa là những chính sách tác động đến quyết định của doanh nghiệp trong việc phát triển, thương mại hóa và triển khai các công nghệ mới.

Haukness và Wicken (1999) định nghĩa chính sách đổi mới theo cách rộng hơn, không chỉ giới hạn ở những chính sách đã công bố mà còn bao gồm các chính sách công nghiệp, tài chính, thương mại, biện pháp điều chỉnh, luật pháp và nhiều lĩnh vực chính sách khác Theo họ, chính sách đổi mới bao gồm cả các chính sách công khai và ngầm định, liên quan đến thẩm quyền của bộ về đổi mới cũng như các bộ không có chương trình hành động đổi mới riêng Điều này có nghĩa là chính sách ngầm định sẽ tạo ra môi trường và điều kiện cần thiết cho các chính sách đổi mới công bố (Hauknes and Wicken, 1999).

Theo Edquist (2001), chính sách đổi mới được hiểu là sự can thiệp của nhà nước nhằm thúc đẩy sự thay đổi về kỹ thuật và các hình thức đổi mới khác Các chính sách này bao gồm chính sách nghiên cứu và công nghệ, chính sách công nghệ, chính sách cơ sở hạ tầng, chính sách vùng và chính sách giáo dục Điều này cho thấy rằng chính sách đổi mới không chỉ giới hạn trong lĩnh vực khoa học và công nghệ mà còn mở rộng ra các hoạt động ảnh hưởng đến đổi mới từ phía cầu.

Chính sách đổi mới trong nền kinh tế tri thức được hiểu là tập hợp các hoạt động nhằm gia tăng số lượng và hiệu quả của các hoạt động đổi mới Định nghĩa chính sách đổi mới có thể tóm gọn là những can thiệp của nhà nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự thay đổi kinh tế, khuyến khích phát triển nguồn nhân lực và hiện thực hóa các ý tưởng mới thành sản phẩm, quy trình và dịch vụ Đánh giá về chính sách đổi mới thay đổi theo từng thời điểm, phụ thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế - xã hội và kết quả mang lại từ những chính sách đó, thể hiện qua những chuyển biến tích cực trong xã hội Một chính sách đổi mới hiệu quả sẽ mang lại những biểu hiện rõ rệt trong sự phát triển kinh tế và xã hội.

- Tăng cường khả năng truyền bá trí thức và công nghệ

- Đảm bảo tiến trình chuyển tri thức và công nghệ thành những lợi ích kinh tế và xã hội lớn nhất

- Tăng cường năng lực đổi mới, duy trì một nền tảng tri thức mạnh mẽ

- Khuyến khích đầu tư và đổi mới, tối ưu hóa chi tiêu khu vực công cho Nghiên cứu và triển khai

- Giảm thiểu những rào cản trong việc hình thành và phát triển doanh nghiệp dựa trên công nghệ mới, doanh nghiệp đổi mới

Chính sách đổi mới đóng vai trò quan trọng trong nhiều khía cạnh của xã hội, nhưng để thấy rõ nhất, chúng ta cần xem xét sự phát triển của nền kinh tế, bao gồm các vấn đề như thất bại thị trường và thất bại hệ thống.

- Nguyên nhân dẫn đến thất bại thị trường đó là:

Trong hoạt động nghiên cứu và triển khai, tính không chắc chắn và rủi ro là những yếu tố quan trọng cần xem xét Việc thất bại trong việc thực hiện đổi mới và áp dụng tri thức mới một cách hiệu quả có thể dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng cho tổ chức Do đó, việc quản lý rủi ro và phát triển chiến lược đổi mới là cần thiết để tối ưu hóa kết quả nghiên cứu và triển khai.

+ Những sai lệch thông tin trong nền kinh tế

+ Sự thất bại trong việc hiện thực hoá giá trị của tri thức đối với tăng trưởng kinh tế

+ Sự đánh giá không đúng mức về hàng hoá công nghệ trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp

Chính phủ các nước có thể áp dụng nhiều biện pháp chính sách và cơ chế khuyến khích nhằm sản xuất và sử dụng tri thức, từ đó tăng cường lợi ích kinh tế và phúc lợi xã hội Việc hình thành hệ thống sở hữu trí tuệ phù hợp sẽ công nhận những người sản xuất tri thức và hỗ trợ họ trong việc khám phá cũng như phổ biến tri thức, góp phần vào kho tàng tri thức toàn nhân loại Ngoài ra, cần hỗ trợ đầu tư vào nghiên cứu và triển khai thông qua các công cụ tài chính hoặc hỗ trợ trực tiếp Hình thành các tổ chức nghiên cứu và triển khai đặc biệt cũng sẽ giúp tăng cường khả năng tiếp cận tri thức mới cho doanh nghiệp, trong khi việc hỗ trợ các trường đại học và viện nghiên cứu sẽ thúc đẩy việc khám phá tri thức khoa học mới.

Thất bại hệ thống xảy ra khi các nhân tố tương tác trong hệ thống không còn hiệu quả, dẫn đến việc ngăn cản tiếp cận tri thức cần thiết Sự thất bại này có thể phát sinh do tổ chức sản xuất tri thức không thành công hoặc do các liên kết thông tin giữa các tổ chức bị mất mát hoặc hoạt động kém hiệu quả.

Quá trình phát triển chính sách đổi mới

Khi phân tích quá trình phát triển chính sách đổi mới của mỗi quốc gia, các khía cạnh sau đây cần được nhìn nhận xem xét:

1.4.1 Quá trình hoạch định chính sách đổi mới

Quá trình phát triển của một chính sách, đặc biệt là chính sách đổi mới, bắt đầu từ giai đoạn hoạch định chính sách, nơi vai trò của các nhà hoạch định và chuyên gia là rất quan trọng Giai đoạn này không chỉ tập trung vào việc đầu tư cho nghiên cứu và triển khai mà còn tạo ra một môi trường thuận lợi cho đổi mới Để hoạch định chính sách đổi mới hiệu quả, cần chú ý đến các điều kiện khung như nhu cầu đổi mới, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, cạnh tranh hiệu quả, liên kết khoa học - công nghiệp mạnh mẽ, và khả năng tiếp cận nguồn vốn mạo hiểm Tất cả những yếu tố này cần được tích hợp trong một môi trường thể chế thuận lợi để thúc đẩy sự phát triển của đổi mới.

Trong quá trình hoạch định chính sách đổi mới, việc điều phối các chính sách là rất quan trọng để tránh tình trạng triệt tiêu lẫn nhau và đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu đã đề ra Chính sách thường tác động đến nhiều cấp độ xã hội, từ quốc gia đến địa phương và các tổ chức cụ thể, do đó cần có sự kết nối và thống nhất trong thực hiện Mặc dù nhiều quốc gia đã thành lập các cơ quan chuyên trách để điều phối chính sách đổi mới, Việt Nam hiện chưa có cơ quan nào đảm nhận nhiệm vụ này Một yếu tố then chốt trong quá trình điều phối là công tác tư vấn, giúp các cấp, cơ quan và cá nhân hiểu rõ về chính sách đổi mới để đạt hiệu quả Việc sử dụng các phương pháp như đề xuất nghiên cứu, tổ chức hội thảo và hội nghị sẽ góp phần hoàn thiện quá trình hoạch định chính sách.

Việc điều phối chính sách ở cấp địa phương gặp nhiều thách thức do nhận thức hạn chế, vì vậy cần chú trọng hơn để tránh tình trạng hành chính cồng kềnh Ba vấn đề chính cần xem xét bao gồm: xây dựng thủ tục phù hợp cho điều phối chính sách nghiên cứu vùng, xác định rõ năng lực của các vùng và xây dựng liên minh giữa các địa phương, cũng như phát triển hợp tác giữa trung ương và vùng để thúc đẩy điều phối chính sách đổi mới Đánh giá là công cụ quan trọng cho việc cải tiến liên tục chính sách và cần được thực hiện thường xuyên để có những điều chỉnh kịp thời.

1.4.2 Môi trường cho đổi mới Để tạo một môi trường thông thoáng cho quá trình đổi mới có những vấn đề rất cần được quan tâm thực hiện để chính sách đổi mới có thể dễ dàng đi sâu và có hiệu quả Những vấn đề cần quan tâm bao gồm:

 Đơn giản hoá các thủ tục hành chính

Bệnh hành chính hóa đang là thách thức lớn đối với nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, khi bộ máy hành chính cồng kềnh cản trở quá trình đổi mới Do đó, đơn giản hóa thủ tục hành chính trở thành nhiệm vụ quan trọng để cải thiện chất lượng quy định pháp luật và loại bỏ những gánh nặng không cần thiết Nhiều quốc gia đã tìm kiếm giải pháp để khắc phục vấn đề này, trong đó việc sử dụng dịch vụ hỗ trợ hợp lý được cho là có thể nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp Các biện pháp phổ biến bao gồm dịch vụ thông tin chuyên nghiệp, thông tin pháp luật, đào tạo, dịch vụ thị trường chứng khoán, cùng với các hình thức vay vốn và bảo lãnh vốn vay.

Xã hội phát triển kéo theo sự gia tăng các sáng chế và sản phẩm mới, dẫn đến việc sở hữu trí tuệ và sử dụng sáng chế trở thành mối quan tâm lớn Sáng chế không chỉ khuyến khích đổi mới mà còn giúp công khai thông tin chi tiết, giảm thiểu lãng phí trong nghiên cứu trùng lặp Điều này cho phép khai thác hiệu quả các sáng chế và tập trung vào việc khám phá những ý tưởng mới Mỗi quyền công nghệ được xác lập đồng nghĩa với việc tri thức công nghệ của xã hội được làm mới, tiết kiệm thời gian và chi phí cho việc tìm kiếm công nghệ đã có, từ đó tạo điều kiện cho các nghiên cứu mới phát triển từ các giải pháp kỹ thuật đã được công bố.

Trong nền kinh tế đổi mới, việc nâng cao công nghệ để cạnh tranh và gia tăng lợi nhuận đang trở nên cấp thiết Điều này yêu cầu một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả và chặt chẽ nhằm ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh và khuyến khích phát triển năng lực công nghệ nội địa.

 Các biện pháp tài chính cho đổi mới

Vấn đề tài chính luôn là mối quan tâm hàng đầu trong quá trình đổi mới, đặc biệt đối với các doanh nghiệp công nghệ cao và doanh nghiệp khoa học công nghệ Trong hai thập niên qua, nhiều quốc gia đã triển khai các chính sách nhằm thu hút nguồn tài chính từ khu vực tư nhân, bao gồm vốn đầu tư mạo hiểm và nhà bảo trợ kinh doanh Vai trò của vốn đầu tư mạo hiểm trong việc hỗ trợ đổi mới sáng tạo là rất quan trọng.

Để phát triển, các quốc gia và doanh nghiệp cần đầu tư vào nghiên cứu và công nghệ (NC&TK), mặc dù chi phí cho quá trình này rất tốn kém và không đảm bảo kết quả như mong muốn Tuy nhiên, việc phát triển công nghệ mới là cần thiết và có thể mang lại lợi ích lớn nếu thành công Quá trình nghiên cứu, sáng tạo và thử nghiệm yêu cầu đầu tư lớn và rủi ro cao, trong khi các ngân hàng thường không thể cung cấp vốn mạo hiểm Do đó, quỹ đầu tư mạo hiểm từ khu vực tư nhân đóng vai trò quan trọng, nhưng hiện tại, quỹ này vẫn chưa được hình thành tại Việt Nam Nguồn vốn từ quỹ đầu tư này rất cần thiết cho các doanh nghiệp KH&CN và các khu công nghệ cao, nơi có nhu cầu lớn về NC&TK.

Đầu tư mạo hiểm không chỉ cung cấp vốn mà còn hỗ trợ các ý tưởng công nghệ hiện thực hóa thông qua tư vấn về quản lý và thị trường Những nhà quản lý có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh thường là người sáng lập quỹ đầu tư mạo hiểm, giúp họ chia sẻ kiến thức quý giá với các nhà khoa học và nhà nghiên cứu, những người thường thiếu kinh nghiệm thương mại Do đó, sự hỗ trợ và tư vấn từ các nhà sáng lập quỹ đầu tư mạo hiểm là rất quan trọng và có ý nghĩa trong việc phát triển các ý tưởng công nghệ.

Nhiều quốc gia châu Âu sử dụng các công cụ tài chính như khuyến khích thuế, tín dụng và hỗ trợ tài chính trực tiếp qua các chương trình để thúc đẩy việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp đổi mới và doanh nghiệp khoa học công nghệ.

Doanh nghiệp sản xuất công nghiệp

Theo Luật Doanh nghiệp (2005), doanh nghiệp được định nghĩa là tổ chức kinh tế có tên riêng, tài sản và trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh Kinh doanh được hiểu là quá trình liên tục thực hiện các công đoạn đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường với mục đích sinh lợi.

Như vậy, một tổ chức kinh tế sẽ được coi là doanh nghiệp khi hội tụ đủ những dấu hiệu sau:

Tiến hành các hoạt động kinh doanh bao gồm việc thực hiện liên tục các công đoạn trong quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng trên thị trường, nhằm mục đích tối ưu hóa lợi nhuận.

Tài sản là yếu tố cơ bản và thiết yếu cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh Thiếu tài sản, doanh nghiệp sẽ không thể tham gia độc lập vào các quan hệ kinh tế.

Tên gọi riêng của doanh nghiệp cần tuân thủ các quy định pháp luật, đảm bảo không trùng lặp hoặc gây nhầm lẫn với tên gọi của doanh nghiệp khác Đồng thời, tên gọi cũng không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục.

- Có trụ sở giao dịch ổn định trên lãnh thổ Việt Nam, có địa chỉ được xác định; số điện thoại, số fax và thư điện tử (nếu có);

Đăng ký kinh doanh là thủ tục hành chính-tư pháp bắt buộc, giúp xác lập tư cách pháp lý cho doanh nghiệp trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Doanh nghiệp có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, bao gồm sự hiện diện của vốn nhà nước, mức độ xã hội hóa trong tư liệu sản xuất, cơ cấu sở hữu vốn, và các đặc điểm kinh tế, kỹ nghệ, cũng như tổ chức sản xuất kinh doanh.

1.5.2 Doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất công nghệ

Hiện tại, chưa có định nghĩa chính thức nào về doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất công nghệ Tác giả đề xuất rằng doanh nghiệp trong lĩnh vực này là những đơn vị sản xuất sản phẩm công nghệ, cung cấp dịch vụ công nghệ và tham gia vào hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ.

Khái niệm công nghệ và quản lý công nghệ

Công nghệ, xuất phát từ từ Hy Lạp "Technologia" (Tεχνολογία), bao gồm "Techne" (Tέχνη) có nghĩa là "kỹ năng, kỹ thuật" và "logia" (λογία) nghĩa là "sự học, sự tìm hiểu, sự nghiên cứu" Hiện nay, có nhiều định nghĩa về công nghệ, nhưng chủ yếu được phân loại theo hai quan điểm chính.

Công nghệ được hiểu là "kiến thức" hay "phần mềm", bao gồm việc áp dụng khoa học cùng với các giải pháp, phương pháp, quy trình kỹ thuật, bí quyết và cách thức thực hiện.

Công nghệ bao gồm cả "kiến thức" và "thiết bị", trong đó "phần mềm" đại diện cho kiến thức và "phần cứng" bao gồm máy móc, phương tiện, thiết bị, công cụ và tư liệu sản xuất.

Quy trình sinh khối tế bào sâm Ngọc Linh, dây chuyền sản xuất trà thảo dược Tanaka, hệ thống phần mềm thi trắc nghiệm phiên bản 2.0 và máy chụp cộng hưởng từ MRI đều là những công nghệ tiên tiến, đóng góp quan trọng cho ngành y tế và nông nghiệp.

Công nghệ được tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia, bao gồm các nước phát triển và các nước đang phát triển.

 Hướng tiếp cận khái niệm công nghệ ở các nước có nền kinh tế phát triển

Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và chuyển đổi sang nền kinh tế công nghệ cao đã tạo ra sự khác biệt trong quan niệm về công nghệ giữa các nước phát triển và đang phát triển Nhiều nhà khoa học như F.R Rool, R Jones, và J Dunning đã nghiên cứu và tiếp cận công nghệ dưới góc độ “tri thức, kiến thức”, cho thấy tầm quan trọng của công nghệ trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

Một số định nghĩa về công nghệ theo xu hướng này được một số nhà khoa học nghiên cứu và đề cập tới như F.R Root, R Jones, J.R.Dunning…

Theo F.R Root, công nghệ được định nghĩa là kiến thức có thể áp dụng để sản xuất và sáng tạo ra sản phẩm mới Tác giả nhấn mạnh rằng công nghệ không chỉ là lý thuyết mà còn là những kiến thức thực tiễn được ứng dụng để phát triển các sản phẩm đổi mới.

Theo R Jones, công nghệ được định nghĩa là phương thức chuyển đổi nguồn lực thành hàng hóa, một khái niệm được đưa ra vào năm 1970 Ông nhấn mạnh rằng bản chất của công nghệ không chỉ là phương thức mà còn là kiến thức, và mục tiêu chính của công nghệ là biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm hữu hình.

Theo J.R Dunning, công nghệ là nguồn lực bao gồm kiến thức áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và tiếp thị cho sản phẩm và dịch vụ hiện có, đồng thời tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới Định nghĩa này, được đưa ra vào năm 1982, nhấn mạnh rằng công nghệ là kiến thức vô hình, không thể phân chia và mang lại lợi ích kinh tế khi được sử dụng trong sản xuất.

Theo định nghĩa của Theo J Baranson vào năm 1776, công nghệ được hiểu là tập hợp các kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến, nhằm mục đích sản xuất ra vật liệu, cấu kiện và sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh Như vậy, công nghệ không chỉ đơn thuần là kỹ thuật, mà còn là sự tích lũy kiến thức phục vụ cho sản xuất.

Theo P Strunk, công nghệ được định nghĩa là việc áp dụng khoa học vào thực tiễn thông qua việc sử dụng nghiên cứu và phương pháp hệ thống Định nghĩa này, được đưa ra vào năm 1986, nhấn mạnh rằng công nghệ chủ yếu dựa trên kiến thức khoa học và có ứng dụng trong lĩnh vực công nghiệp.

Các tác giả định nghĩa công nghệ như một dạng "kiến thức" và coi nó chủ yếu là "phần mềm", phản ánh thực tiễn tại các nước phát triển, nơi giao dịch công nghệ qua việc mua bán sáng chế diễn ra phổ biến Những định nghĩa này thể hiện rõ ràng rằng công nghệ được xem như một hình thức tri thức.

Dù hình thức này chưa được điển hình ở các nước đang phát triển nhưng đây sẽ trở thành một xu hướng mà các nước đang phát triển hướng tới

 Hướng tiếp cận khái niệm công nghệ ở các nước có nền kinh tế đang phát triển

Năm 1985, Ngân hàng Thế giới định nghĩa công nghệ là phương pháp chuyển hóa các nguồn lực thành sản phẩm, bao gồm ba yếu tố chính.

- Thông tin về phương pháp;

- Phương tiện công cụ sử dụng phương pháp để thực hiện việc chuyển hóa;

- Sự hiểu biết về phương pháp hoạt động như thế nào và tại sao ?

Theo định nghĩa này, công nghệ được hiểu là thông tin, công cụ và tri thức, với mục tiêu chính là chuyển đổi các yếu tố đầu vào thành sản phẩm.

Tại diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc (UNCATAD) diễn ra năm

Vào năm 1972, công nghệ được xác định là một yếu tố đầu vào thiết yếu cho quá trình sản xuất, do đó, nó đã trở thành một hàng hóa được giao dịch trên thị trường dưới nhiều hình thức khác nhau.

- Tư liệu sản xuất đôi khi là các sản phẩm trung gian, được mua và bán trên thị trường đặc biệt là gắn với các quyết định đầu tư;

CHƯƠNG THỰC TRẠNG HỆ THỐNG ĐỔI MỚI TRONG CÁC

Ngày đăng: 02/07/2022, 14:46

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Trần Ngọc Ca, Nguyễn Võ Hưng (2012), Hướng tới một hệ thống đổi mới trong lĩnh vực nông nghiệp, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hướng tới một hệ thống đổi mới trong lĩnh vực nông nghiệp
Tác giả: Trần Ngọc Ca, Nguyễn Võ Hưng
Nhà XB: NXB Khoa học kỹ thuật
Năm: 2012
2. Vũ Cao Đàm (2009), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Tác giả: Vũ Cao Đàm
Nhà XB: NXB Giáo Dục
Năm: 2009
3. Vũ Cao Đàm (2011), Một số vấn đề về quản lý Khoa học và công nghệ ở nước ta, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về quản lý Khoa học và công nghệ ở nước ta
Tác giả: Vũ Cao Đàm
Nhà XB: NXB Khoa học kỹ thuật
Năm: 2011
4. Hoàng Văn Hoa, Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động Khoa học-công nghệ trong các trường đại học, tạp chí Kinh tế và Phát triển (t46-48) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động Khoa học-công nghệ trong các trường đại học
5. Nguyễn Công Mỹ, Phạm Lê Hậu (2010), Nguồn lực vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, Tạp chí kinh tế và dự báo, Số 8 (t41-43) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguồn lực vốn đầu tư cho phát triển kinh tế
Tác giả: Nguyễn Công Mỹ, Phạm Lê Hậu
Năm: 2010
6. Nguyễn Mạnh Quân (2006), Đổi mới tư duy hoạt động và quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta sau hội nhập WTO theo tiếp cận hệ thống đổi mới quốc gia về khoa học và công nghệ, Tạp chí nghiên cứu chính sách khoa học và công nghệ, Số 13 (14-17) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đổi mới tư duy hoạt động và quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta sau hội nhập WTO theo tiếp cận hệ thống đổi mới quốc gia về khoa học và công nghệ
Tác giả: Nguyễn Mạnh Quân
Năm: 2006
7. Nguyễn Trọng Thản (2010), Hoạt động khoa học và công nghệ dưới tác động của các công cụ tài chính, tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán, Số 2(79), (t19-23) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoạt động khoa học và công nghệ dưới tác động của các công cụ tài chính
Tác giả: Nguyễn Trọng Thản
Năm: 2010
8. Bùi Sĩ Tiếu (2007), Phát triển Khoa học, công nghệ, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Cộng sản Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển Khoa học, công nghệ, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Tác giả: Bùi Sĩ Tiếu
Năm: 2007
12. Đề tài “Xây dựng mô hình tổ chức hoạt động KH&CN trong doanh nghiêp” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng mô hình tổ chức hoạt động KH&CN trong doanh nghiêp
13. Edquist, C. (ed.). 1997. Systems of innovation: technologies, institutions and organisations. Pinter, London Sách, tạp chí
Tiêu đề: Systems of innovation: technologies, institutions and organisations
14. Edquist, C. 1999. Innovation policy – a systemic approach, Lingkửping Univ., Sweden Sách, tạp chí
Tiêu đề: Innovation policy – a systemic approach
15. Edquist, C. 2001. The system of innovation approach and innovation policy: an account of the state of the art. Presented at the conference, Aalborg Univ.Denmark „National Systems of Innovation, Institutions and Public Policies‟ Sách, tạp chí
Tiêu đề: The system of innovation approach and innovation policy: "an account of the state of the art. Presented at the conference
9. Tổ chức sở hữu trí tệ thế giới (WIPO), Bảng xếp hạng hàng năm về đổi mới sáng tạo Khác
10. Sở KH&CN TP. Hồ Chí Minh (2010), Báo cáo Đề án đổi mới công nghệ tại TP Hồ Chí Minh Khác
11. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) (2013), Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1. Phân loại đổi mới (theo Edquist, 1997) - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
Hình 1.1. Phân loại đổi mới (theo Edquist, 1997) (Trang 17)
E bảng cân đối số phát sinh - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
b ảng cân đối số phát sinh (Trang 20)
Mô hình 1. 1.Mô hình thị trƣờng kéo của Twiss - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
h ình 1. 1.Mô hình thị trƣờng kéo của Twiss (Trang 27)
Mô hình 1.2. Mô hình chuyển dịch của Walker - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
h ình 1.2. Mô hình chuyển dịch của Walker (Trang 28)
trong và kết nối hãng với cộng đồng khoa học và công nghệ với thị trường. Mô hình này  chỉ  ra  rằng:  cho  dù  lực  đẩy  cho  sự  phát  triển  sản  phẩm  mới  đến  từ  phòng  marketing hay R&D thì điều quan trọng hơn là cà hai phòng ban này cũng tham - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
trong và kết nối hãng với cộng đồng khoa học và công nghệ với thị trường. Mô hình này chỉ ra rằng: cho dù lực đẩy cho sự phát triển sản phẩm mới đến từ phòng marketing hay R&D thì điều quan trọng hơn là cà hai phòng ban này cũng tham (Trang 29)
Mô hình 1.4. Mô hình hệ thống về đổi mới công nghệ - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
h ình 1.4. Mô hình hệ thống về đổi mới công nghệ (Trang 31)
Bảng 1.1: Các giai đoạn của quản lý công nghệ (Gaynor, 1996) - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
Bảng 1.1 Các giai đoạn của quản lý công nghệ (Gaynor, 1996) (Trang 43)
Sau khi hoàn thiện việc tạo hình thì vỏ mũ sẽ được sơn trang trí với các mầu sắc và  hoa  văn  khác  nhau  đáp  ứng  thị  hiếu  của  người  tiêu  dùng  theo  lứa  tuổi,  giới  tính  khác nhau - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
au khi hoàn thiện việc tạo hình thì vỏ mũ sẽ được sơn trang trí với các mầu sắc và hoa văn khác nhau đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng theo lứa tuổi, giới tính khác nhau (Trang 62)
Hình 2.1. Hệ thống đổi mới quốc gia tại các nƣớc NIC châu - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
Hình 2.1. Hệ thống đổi mới quốc gia tại các nƣớc NIC châu (Trang 66)
Biểu đồ 2.1. Loại hình hoạt động của các doanh nghiệp đƣợc khảo sát - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
i ểu đồ 2.1. Loại hình hoạt động của các doanh nghiệp đƣợc khảo sát (Trang 68)
Bảng 2.1 Số năm hoạt động trong lĩnh vực sản xuất mũ bảo hiểm của các doanh nghiệp đƣợc khảo sát - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
Bảng 2.1 Số năm hoạt động trong lĩnh vực sản xuất mũ bảo hiểm của các doanh nghiệp đƣợc khảo sát (Trang 68)
Bảng 2.3. Quy mô doanh nghiệp - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
Bảng 2.3. Quy mô doanh nghiệp (Trang 69)
Bảng 2.2. Thị trƣờng sản xuất của các doanh nghiệp đƣợc khảo sát - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
Bảng 2.2. Thị trƣờng sản xuất của các doanh nghiệp đƣợc khảo sát (Trang 69)
Bảng 2.5 Tình hình đầu tƣ thiết bị thử nghiệm chất lƣợng MBH của DN - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
Bảng 2.5 Tình hình đầu tƣ thiết bị thử nghiệm chất lƣợng MBH của DN (Trang 70)
Bảng 2.6 Tình hình đổi mới công nghệ của DN - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nhận diện hệ thống đổi mới trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ( Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh)
Bảng 2.6 Tình hình đổi mới công nghệ của DN (Trang 71)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w