PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, bài viết trình bày các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tạm nhập, tái xuất hàng hóa Đồng thời, nó cũng phân tích quản lý nhà nước về hải quan đối với loại hình kinh doanh này, xem xét đối tượng và nội dung nghiên cứu từ góc độ toàn diện, phát triển và hệ thống.
Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ hài lòng về công tác quản lý hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất tại Cục Hải quan tỉnh Hà Giang, học viên đã tham khảo ý kiến từ các chuyên gia, bao gồm lãnh đạo Cục Hải quan phụ trách nghiệp vụ kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, cùng với lãnh đạo Chi cục Hải quan cửa khẩu phụ trách công tác nghiệp vụ hải quan.
Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp phục vụ cho đề tài được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy như Cục Hải quan tỉnh Hà Giang, Tổng cục Hải quan, Cục Thống kê và Bộ Tài chính, với thông tin có sẵn dưới dạng bản cứng và bản điện tử Bên cạnh đó, luận văn cũng tham khảo số liệu từ các công trình nghiên cứu khoa học của nhiều tác giả liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu.
Dữ liệu sơ cấp được thu thập qua phiếu khảo sát đánh giá chuẩn, bao gồm các bước như xây dựng mẫu phiếu, lựa chọn đối tượng khảo sát, tiến hành khảo sát và xử lý dữ liệu bằng phần mềm SPSS để phân tích theo phương pháp thống kê mô tả.
2.3.2.1 Mô tả mẫu Phiếu khảo sát
Phiếu khảo sát là công cụ thiết yếu để đánh giá mức độ hài lòng về công tác quản lý hàng hóa tạm nhập, tái xuất tại Cục Hải quan tỉnh Hà Giang.
Hai mẫu phiếu khảo sát được thiết kế nhằm khảo sát cán bộ, công chức hải quan và doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng hóa tại Cục hải tỉnh Hà Giang Cấu trúc của hai phiếu khảo sát bao gồm bốn phần chính: thông tin chung về đối tượng khảo sát, đánh giá phương pháp quản lý hàng hóa tạm nhập tái xuất, đánh giá chuyên môn và kỹ năng quản lý của CBCC hải quan, cùng với đánh giá công tác phát triển cải cách hiện đại hóa trong quản lý hải quan Phiếu khảo sát được thiết kế để thu thập tối đa thông tin, thuận tiện cho việc ghi chép, tăng tính thống nhất và đảm bảo chất lượng dữ liệu Để thu thập thông tin, học viên sử dụng thang đo Likert (1932) với 5 mức độ, cho phép người khai hải quan và CBCC hải quan lựa chọn mức độ hài lòng từ thấp đến cao.
Rất không Không đồng ý Không có Đồng ý Rất đồng ý đồng ý ý kiến
Trong phiếu khảo sát, người khai hải quan và cán bộ công chức hải quan sẽ đánh dấu "X" vào phương án trả lời mà họ cho là phù hợp nhất với quan điểm của mình, nhằm đánh giá mức độ hài lòng về các nhận định.
Câu hỏi khảo sát được chia thành ba mảng chính để đánh giá mức độ hài lòng Mảng đầu tiên tập trung vào phương pháp quản lý hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất hàng hóa, bao gồm năm tiêu chí: thực thi chính sách quản lý, công cụ thuế, quy trình thủ tục hải quan, điều kiện doanh nghiệp và hồ sơ hải quan Mảng thứ hai đánh giá chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng quản lý của cán bộ công chức hải quan, với ba tiêu chí: kỹ năng, trình độ nghiệp vụ, chất lượng giải quyết công việc và thái độ khi thi hành công vụ Cuối cùng, mảng ba xem xét sự hài lòng về công tác cải cách hiện đại hóa trong quản lý hàng hóa tạm nhập tái xuất, với ba tiêu chí: triển khai hải quan điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ quản lý.
- Về điều tra khảo sát Doanh nghiệp:
+ Thời gian thực hiện: từ tháng 8 năm 2013 đến tháng 12 năm 2013
Mục đích của cuộc điều tra này là thu thập thông tin nhằm nghiên cứu mức độ hài lòng của doanh nghiệp đối với công tác quản lý hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất của Cục Hải quan tỉnh Hà Giang Bên cạnh đó, khảo sát cũng nhằm đánh giá quan điểm của doanh nghiệp về quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu và lắng nghe những đề xuất của doanh nghiệp để tiếp tục cải thiện quy trình quản lý hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất.
Trong số hơn 200 doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu qua các đơn vị thuộc Cục hải quan tỉnh Hà Giang, 80 doanh nghiệp đã được chọn khảo sát về hoạt động kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng hóa Cụ thể, trong số này có 30 công ty cổ phần, chiếm 37,5%, 49 công ty trách nhiệm hữu hạn, chiếm 61,3%, và 1 doanh nghiệp thuộc loại hình khác, chiếm 1,3%.
- Về điều tra khảo sát CBCC hải quan:
Thời gian thực hiện khảo sát từ tháng 8 năm 2013 đến tháng 1 năm 2014 nhằm thu thập ý kiến của cán bộ công chức hải quan Mục đích là đánh giá một cách trung thực và khách quan về tình hình quản lý hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất, nhận diện những thuận lợi, khó khăn, nguyên nhân và đưa ra yêu cầu cần thiết để tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả quản lý.
Trong cuộc khảo sát, 102 công chức, viên chức (CBCC) hải quan đã được chọn từ tổng số 134 CBCC của Cục hải quan tỉnh Hà Giang Trong số này, có 24 lãnh đạo, chiếm 23,5%, và 78 nhân viên, bao gồm những công chức trực tiếp thực hiện quy trình thủ tục hải quan, công chức tham mưu, điều tra chống buôn lậu, và kiểm tra sau thông quan, chiếm 76,5%.
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phân tích số liệu là bước quan trọng trong nghiên cứu, với việc áp dụng phương pháp phân tổ để hệ thống hóa thông tin thu thập được Các ý kiến khảo sát được phân loại theo hai nhóm chính: đối tượng thực hiện quản lý, cụ thể là cán bộ công chức hải quan, và đối tượng chịu sự quản lý, là các doanh nghiệp.
Trong quá trình phân tích số liệu, học viên đã áp dụng các phương pháp thống kê kinh tế để xử lý dữ liệu sơ cấp thu thập từ khảo sát đánh giá Dữ liệu này đã được đưa vào phần mềm SPSS để thực hiện phân tích thống kê mô tả, với kết quả được trình bày chi tiết trong phụ lục 3 và phụ lục 4 của Luận văn.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HÀNG HÓA KINH DOANH TẠM NHẬP, TÁI XUẤT TẠI CỤC HẢI QUAN TỈNH HÀ GIANG
Đặc điểm tình hình Cục hải quan tỉnh Hà Giang
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi năm 1954, miền Bắc đã bước vào giai đoạn khôi phục và phát triển kinh tế Ngày 14/12/1954, Bộ Công thương ban hành Nghị định 136/BCT/KB/NĐ thành lập Sở Hải quan Trung ương Tiếp theo, vào ngày 21/02/1955, Bộ trưởng Bộ Công thương Phan Anh đã ký Nghị định số 23/BCT-TCCB để thành lập Chi sở hải quan Lao Cai và Chi sở hải quan Hà Giang Để thực hiện Chỉ thị của Bộ Công thương, ngày 15/6/1955, Uỷ ban hành chính tỉnh Hà Giang đã ra Quyết định số 128/QĐ-UB thành lập Chi sở hải quan Hà Giang, chuyển giao bộ phận thuế xuất nhập khẩu sang Chi sở này Quyết định số 738-BNT/QĐ ngày 07/10/1974 cũng đã được thực hiện để củng cố hệ thống hải quan tại địa phương.
Bộ Ngoại thương đã quy định thống nhất cơ cấu tổ chức và tên gọi các đơn vị thuộc hệ thống Hải quan, trong đó Chi sở Hải quan Hà Giang được đổi tên thành Chi cục Hải quan Hà Giang Đến cuối năm 1975, sau khi tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang sáp nhập thành tỉnh Hà Tuyên, Chi cục Hải quan Hà Giang đã được đổi tên thành Chi cục Hải quan Hà Tuyên Tuy nhiên, vào năm 1979, khi chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc xảy ra, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương đã ký Quyết định số 952-BNT/QĐ vào ngày 11/9/1981 để giải thể Chi cục Hải quan tỉnh Hà Tuyên.
Khi quan hệ Việt Nam - Trung Quốc được bình thường hóa, vào ngày 19/5/1989, Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan đã ký Quyết định số 127 TCHQ-TCCB thành lập Hải quan tỉnh Hà Tuyên Đến năm 1991, tỉnh Hà Giang được tái lập từ tỉnh Hà Tuyên, dẫn đến việc Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan ban hành Quyết định số 285/TCHQ-TCCB vào ngày 27/11/1991, đổi tên Hải quan tỉnh Hà Tuyên thành Hải quan Hà Giang, hiện nay là Cục Hải quan tỉnh Hà Giang.
Cục Hải quan tỉnh Hà Giang thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hàng hóa và phương tiện vận tải, đồng thời phòng, chống buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới Cục cũng tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, thống kê các mặt hàng này, và kiến nghị các biện pháp quản lý nhà nước liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu và chính sách thuế tại khu vực biên giới với Trung Quốc, dài 277 km, với 04 cặp cửa khẩu thông thương Ngày 10/02/2013, Cục Hải quan tỉnh Hà Giang được giao thêm nhiệm vụ quản lý nhà nước về hải quan tại tỉnh Tuyên Quang theo Quyết định số 313/QĐ-BTC.
Cục hải quan tỉnh Hà Giang đã phát triển mạnh mẽ với đội ngũ công chức được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ và quản lý Nhà nước Cơ sở vật chất ngày càng được cải thiện, cùng với việc trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo, đảm bảo thực hiện nhiệm vụ một cách chuyên nghiệp và hiệu quả.
Bảng 3.1: Tình hình CBCC Cục hải quan tỉnh Hà giang năm 2013
1 Phân theo trình độ chuyên môn đào tạo 134 100,00
(Nguồn: Cục Hải quan tỉnh Hà Giang)
Theo Bảng 3.1, Cục hải quan tỉnh Hà Giang có tổng quân số 134 người, bao gồm 115 cán bộ công chức (CBCC) và 19 lao động theo Nghị định 68 Về trình độ đào tạo, có 3 người có trình độ trên đại học (2,24%), 93 người có trình độ đại học và cao đẳng (69,4%), và 38 người có trình độ trung cấp (28,36%), với trên 80% có khả năng ngoại ngữ và tin học Cơ cấu tổ chức của Cục ngày càng hoàn thiện, hiện có 9 đơn vị trực thuộc, bao gồm 2 phòng tham mưu, 1 Đội kiểm soát hải quan, 4 Chi cục hải quan cửa khẩu và 1 Chi cục kiểm tra sau thông quan.
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Cục hải quan tỉnh Hà Giang
(Nguồn: Cục hải quan tỉnh Hà Giang)
Giai đoạn 2009-2013, Cục Hải quan tỉnh Hà Giang đã thực hiện thủ tục thông quan nhanh chóng và an toàn cho hàng hóa xuất nhập khẩu, đạt kim ngạch 1.203 triệu USD Trong thời gian này, có hơn 774.000 lượt hành khách và hơn 45.700 lượt phương tiện xuất nhập cảnh Đồng thời, Cục Hải quan cũng đã thu thuế xuất nhập khẩu nộp ngân sách nhà nước trên 1.665 tỷ đồng.
Phòng Nghiệp vụ Đội kiểm soát Hải quan
Chi cục Hải quan Tuyên Quang Chi cục Kiểm tra sau thông quan
Bảng 3.2: Tình hình hoạt động của Cục hải quan tỉnh Hà Giang giai đoạn 2009-2013
Chỉ tiêu Năm So sánh (%) Tốc độ tăng giảm bình quân (%)
Kim ngạch XNK (Triệu USD) 120 181,1 252,8 306,1 343 +50,9 +39,6 +21,1 +12 +30,9
3 Phương tiên vận tải xuất nhập cảnh (Lƣợt chiếc) 6.000 9.174 8.119 10.947 11.490 +52,9 -11,5 +34,8 +4,9 +20,2
4 Khách xuất nhập cảnh (Lƣợt người) 132.800 172.756 155.900 153.000 161.000 +30 -9,8 -1,9 +5,5 +23,8
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác các năm 2009,2010,2011,2012,2013, Cục hải quan tỉnh Hà Giang)
Công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại, cũng như vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và phòng, chống ma túy, đã được triển khai quyết liệt theo chỉ đạo của Chính phủ và các cơ quan chức năng Tình hình vi phạm pháp luật hải quan trong những năm gần đây diễn biến ổn định, không có điểm nóng về buôn lậu Từ 2009-2013, Cục hải quan tỉnh Hà Giang đã phát hiện và xử lý 899 vụ vi phạm, thu nộp ngân sách Nhà nước 3.827,784 triệu đồng Các tang vật vi phạm bao gồm tiền giả, ma túy, thuốc nổ, và văn hóa phẩm đồi trụy Hợp tác chặt chẽ với Bộ đội Biên phòng đã giúp phát hiện và xử lý 18 vụ liên quan đến ma túy.
292 khúc gỗ nghiến và 56,8 kg pháo nổ do Trung Quốc sản xuất
Công tác kiểm tra sau thông quan đã được kiện toàn và hoạt động hiệu quả, đặc biệt trong giai đoạn 2009-2013 Qua các cuộc kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp và cơ quan hải quan, đã phát hiện và xử lý hành vi gian lận thương mại của 45 doanh nghiệp, góp phần truy thu hơn 5,64 tỷ đồng vào ngân sách Nhà nước.
Trong những năm qua, Cục Hải quan tỉnh Hà Giang đã nỗ lực thực hiện công tác quản lý hải quan chặt chẽ và đúng quy định pháp luật, đồng thời thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu Cục đã mở các cặp cửa khẩu phụ và lối mở như mốc 238 Lao Chải - Vị Xuyên và Nà La thuộc khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, đồng thời nâng cấp cửa khẩu Thanh Thủy (Việt Nam) - Thiên Bảo (Trung Quốc) thành cửa khẩu quốc tế Ngoài việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của ngành, Cục Hải quan tỉnh còn tích cực hỗ trợ địa phương trong việc xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh cho các xã biên giới đặc biệt khó khăn.
Trước áp lực gia tăng công việc và biên chế hạn chế, Cục Hải quan tỉnh Hà Giang đã chủ động cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hải quan và ứng dụng công nghệ thông tin trong quy trình Cục tập trung đào tạo đội ngũ công chức, kiện toàn tổ chức bộ máy và bố trí cán bộ có phẩm chất tốt, năng lực cao cho các nghiệp vụ như kiểm tra hồ sơ và quản lý thuế Từ tháng 5 năm 2014, Cục đã triển khai hệ thống thông quan tự động VINACCS/VCIS, dựa trên mô hình Nhật Bản, giúp rút ngắn thời gian thông quan và nâng cao tính minh bạch Hệ thống này giảm thiểu hồ sơ giấy và áp dụng chữ ký điện tử, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại địa bàn.
Thực trạng quản lý hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất tại Cục hải
3.2 Thực trạng quản lý hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất tại Cục hải quan tỉnh Hà Giang
3.2.1 Tình hình thực hiện quản lý hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất trong thời gian qua của Cục hải quan tỉnh Hà Giang
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu (XNK), đặc biệt là kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng hóa, ngày càng quan trọng để nâng cao lợi thế cạnh tranh quốc gia Cục hải quan tỉnh Hà Giang đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia XNK, thúc đẩy thương mại, đầu tư và du lịch phát triển thông qua áp dụng công nghệ tiên tiến và quản lý hải quan hiện đại, giúp rút ngắn thời gian thông quan và giảm chi phí cho doanh nghiệp Kết quả là, số lượng doanh nghiệp tham gia kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng hóa đã tăng đáng kể, từ 08 doanh nghiệp năm 2009 lên gần 100 doanh nghiệp hiện nay.
Từ năm 2009, hoạt động kinh doanh tạm nhập, tái xuất qua các cửa khẩu thuộc Cục Hải quan tỉnh Hà Giang đã gia tăng đáng kể về số lượng doanh nghiệp, mặt hàng và kim ngạch xuất nhập khẩu Cửa khẩu Thanh Thủy, khu vực Mốc 238-Lao Chải và cửa khẩu Phó Bảng là những địa điểm trọng điểm Hàng hóa chủ yếu được tạm nhập vào Việt Nam qua cảng Hải Phòng và một số cửa khẩu biên giới với Lào, Campuchia, sau đó được tái xuất sang Trung Quốc.
Trong giai đoạn 2009-2013, kim ngạch hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất qua Cục hải quan tỉnh Hà Giang đã tăng trưởng liên tục qua các năm, với tốc độ tăng bình quân đạt 232,1% Sự gia tăng này đặc biệt rõ rệt trong những năm gần đây, như thể hiện qua số liệu trong bảng 3.3.
Bảng 3.3 Kim ngạch hàng kinh doanh tạm nhập, tái xuất năm 2009-2013
Năm Kim ngạch (Triệu USD) So sánh với năm trước
(Nguồn: Cục Hải quan tinh Hà Giang)
Mặt hàng tạm nhập, tái xuất chủ yếu bao gồm nông sản như bột cây vàng đắng, bột cây ba kim, hạt điều, quả phỉ, quả hồ trăn, quả hồ đào; cây cảnh; hàng điện tử; phụ tùng ô tô; sản phẩm công nghệ thông tin đã qua sử dụng; thực phẩm đông lạnh và hàng tạp hóa.
Thực hiện “Chiến lƣợc phát triển hải quan đến năm 2020” theo Quyết định số 448/QĐ-TTg ngày 22/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ, Cục hải quan tỉnh Hà Giang đã triển khai hiệu quả các hoạt động hải quan, đặc biệt trong quản lý hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất, đạt được nhiều kết quả tích cực Tuyên ngôn phục vụ khách hàng của ngành hải quan nhấn mạnh tính “Chuyên nghiệp- Minh bạch- Hiệu quả”, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của người dân.
Để thực thi hiệu quả các biện pháp và công cụ quản lý, cần đảm bảo thực hiện đúng chế độ, chính sách và cơ chế điều hành của Chính phủ, Bộ, Ngành và địa phương đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất Điều này nhằm ngăn chặn các điểm nóng về buôn lậu và gian lận thương mại trong hoạt động này Chính sách quản lý, chính sách mặt hàng và chính sách thuế đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất cần được thực hiện đúng quy định để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả.
Thực hiện đầy đủ quy trình thủ tục hải quan và nâng cao chất lượng kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu nhằm chống buôn lậu và gian lận thương mại Đẩy mạnh kiểm tra sau thông quan tại cơ quan hải quan và doanh nghiệp, đồng thời tăng cường phối hợp xác minh hoạt động thanh toán Hợp tác chặt chẽ với các ngành, chính quyền địa phương và lực lượng chức năng như Công an, Biên phòng, và các cơ quan kiểm dịch trong công tác phòng chống buôn lậu Xây dựng hệ thống thông tin tình báo hải quan, thực hiện điều tra và sưu tra đối tượng nghi vấn để phục vụ đấu tranh chống buôn lậu hiệu quả.
Để đảm bảo tuân thủ quy định về hồ sơ hải quan cho từng loại hình xuất nhập khẩu, doanh nghiệp cần chuẩn bị đầy đủ, đồng bộ và hợp pháp các loại giấy tờ liên quan Trong quá trình làm thủ tục hải quan cho hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất, cần tiến hành kiểm tra điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm đăng ký kinh doanh, điều kiện thành lập doanh nghiệp, và sự tuân thủ pháp luật Ngoài ra, việc kiểm tra kho chứa hàng hóa, bãi tập kết và các chứng từ xác nhận tiền ký quỹ hoặc đặt cọc tại Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng cũng là những yêu cầu quan trọng.
Cải cách và hiện đại hóa công tác quản lý hải quan bao gồm việc tin học hóa quy trình quản lý và điều hành từ Cục hải quan tỉnh đến các đơn vị trực thuộc, nhằm giảm thiểu giấy tờ và tạo điều kiện tra cứu thông tin nhanh chóng trên mạng nội bộ Đồng thời, áp dụng hiệu quả Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 tại văn phòng cục và các chi cục hải quan Ngoài ra, triển khai thủ tục hải quan điện tử và thông quan tự động cũng như kết nối hệ thống thu nộp thuế với Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại là những bước quan trọng trong quá trình hiện đại hóa này.
Trong bối cảnh biến động phức tạp, Cục Hải quan tỉnh Hà Giang đã luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quản lý nhà nước về hải quan, nhờ vào truyền thống, quyết tâm và sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương Sự chỉ đạo kịp thời của Tổng cục Hải quan đã giúp Cục tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, thu hút đầu tư, du lịch, đồng thời góp phần bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.
3.2.2 Đánh giá của doanh nghiệp và cán bộ công chức hải quan về thực trạng quản lý hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất tại Cục hải quan tỉnh Hà Giang Để đánh giá trung thực, khách quan về thực trạng quản lý hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất, những thuận lợi, khó khăn, nguyên nhân và yêu cầu đặt ra cần tiếp tục hoàn thiện để nâng cao hiệu quả quản lý, học viên đã tiến hành khảo sát ý kiến của 102 cán bộ công chức hải quan và 80 doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng hóa tại Cục Hải quan tỉnh Hà Giang Kết quả khảo sát đành giá được đưa vào chương trinf phần mềm SPSS phân tích theo phương pháp thống kê mô tả
3.2.2.1 Đánh giá của CBCC hải quan về phương pháp quản lý hoạt động kinh doanh tạm nhập- tái xuất
Kết quả khảo sát ý kiến từ doanh nghiệp và công chức hải quan về phương pháp quản lý hoạt động kinh doanh tạm nhập, tái xuất của Cục Hải quan tỉnh Hà Giang được trình bày trong bảng 3.4 dưới đây.
Bảng 3.4 trình bày ý kiến đánh giá của doanh nghiệp và cán bộ công chức hải quan về phương pháp quản lý hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất tại Cục Hải quan tỉnh Hà Giang, phản ánh những nhận định và đề xuất cải tiến trong quy trình quản lý này.
Doanh nghiệp đánh giá (%) CBCC hải quan đánh giá (%) Rất không đồng ý
Về thực thi chính sách quản lý 0 0 6,3 46,3 47,5 0 2 8,8 30,4 58,8
Về thực hiện quản lý bằng công cụ thuế 0 2,5 16,3 36,3 45 0 0 5,9 37,3 56,9
Về quy trình thủ tục hải quan 0 0 11,3 33,8 55 0 0 8,8 29,4 61,8
Về quy định điều kiện doanh nghiệp 0 0 8,8 37,5 53,8 0 0 6,9 38,2 54,9
Về hồ sơ hải quan 0 0 16,3 30 53,8 0 0 9,8 35,3 54,9
(Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của học viên năm 2013)
Theo số liệu bảng 3.4 cho thấy, ý kiến đánh giá của doanh nghiệp và CBCC hải quan nhƣ sau:
Theo khảo sát về thực thi chính sách quản lý hoạt động kinh doanh tạm nhập-tái xuất, 46,3% doanh nghiệp và 47,5% rất đồng ý với các chính sách hiện hành, trong khi 30,4% CBCC hải quan đồng ý và 58,8% rất đồng ý Kết quả cho thấy cơ chế quản lý đã được ban hành tương đối thông thoáng và thuận lợi Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế cần rà soát, thể hiện qua 2% CBCC hải quan không đồng ý Ngoài ra, một bộ phận doanh nghiệp (6,3%) và CBCC hải quan (8,8%) không có ý kiến, cho thấy sự e ngại hoặc thiếu quan điểm trong đánh giá chính sách.
Chính sách thuế và quy định về thời hạn nộp thuế đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất quá hạn tại Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý hoạt động này Theo khảo sát, 36,3% doanh nghiệp và 37,3% cán bộ công chức hải quan đồng ý, trong khi 45% doanh nghiệp và 56,9% cán bộ công chức hải quan rất đồng ý với nội dung này Để ngăn chặn gian lận thuế và trốn thuế qua việc lợi dụng hình thức tạm nhập, tái xuất, cần có biện pháp đấu tranh phù hợp Tuy nhiên, một bộ phận doanh nghiệp (16,3%) và cán bộ công chức hải quan (5,9%) vẫn chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của thuế trong quản lý hoạt động này Ngoài ra, 2,5% doanh nghiệp không đồng ý với việc sử dụng công cụ thuế do lo ngại ảnh hưởng đến lợi ích của họ.