1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG PHI TRUYỀN THỐNG VÀHIỆU QUẢ NGÂN HÀNG: TRƯỜNG HỢP CÁC NGÂNHÀNG THƯƠNG MẠI NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAMGIAI ĐOẠN 2011 - 2019 10598565-2409-012335.htm

246 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hoạt Động Ngân Hàng Phi Truyền Thống Và Hiệu Quả Ngân Hàng: Trường Hợp Các Ngân Hàng Thương Mại Niêm Yết Tại Việt Nam Giai Đoạn 2011 - 2019
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Nhàn
Người hướng dẫn TS. Lê Thẩm Dương, TS. Đào Lê Kiều Oanh
Trường học Trường Đại Học Ngân Hàng Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài Chính - Ngân Hàng
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 246
Dung lượng 4,03 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU (17)
  • CHƯƠNG 2: LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÓ LIÊN QUAN (26)
    • 2.5.1. Các nghiên cứu về tác động của hoạt động ngân hàng phi truyền thống đến hiệu quả ngân hàng (67)
    • 2.5.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố tác động đến hoạt động ngân hàng phi truyền thống (81)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (97)
    • 3.1 Quy trình nghiên cứu (97)
    • 3.2. Mô hình nghiên cứu tác động của hoạt động ngân hàng phi truyền thống đến hiệu quả ngân hàng..................................................................................................................75 1.......................................................................................Mô hình nghiên cứu đề xuất (98)
    • 4.3 Kết quả nghiên cứu thực nghiệm (133)
      • 4.3.1. Kết quả nghiên cứu tác động của hoạt động ngân hàng phi truyền thống đến hiệu quả ngân hàng (133)
      • 4.3.2. Kết quả ước lượng mô hình các yếu tố tác động đến hoạt động ngân hàng phi truyền thống (152)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH (159)
    • 5.2.1. Nội dung của..................................................................các nhóm giải pháp 129 1. Đẩy mạnh phát triển các hoạt động ngân hàng phi truyền thống bằng cách đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ để gia tăng hiệu quả ngân hàng (160)

Nội dung

GIỚI THIỆU

Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, bao gồm 4 ngân hàng Nhà nước, 31 ngân hàng cổ phần trong nước, 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và 2 ngân hàng liên doanh, đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt Các ngân hàng không chỉ tập trung vào hoạt động truyền thống như tăng lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay, mà còn mở rộng sang các dịch vụ phi truyền thống như thanh toán, bảo hiểm, tư vấn, quản lý tài sản và rủi ro đầu tư Để thu hút khách hàng, họ cũng tham gia vào các hoạt động đầu tư, ngoại hối và chứng khoán Sự phát triển này được hỗ trợ bởi hai đề án quan trọng: “Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015” và “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020”.

Giai đoạn 2011-2015, các ngân hàng thương mại đã chuyển dịch mô hình kinh doanh nhằm giảm sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng cường nguồn thu từ dịch vụ phi tín dụng Họ đã đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng, tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống và phát triển nhanh chóng các dịch vụ thanh toán, ngoại hối, đầu tư, quản lý tài sản và quản lý rủi ro cho khách hàng.

Đến năm 2020, mục tiêu là tăng gấp đôi tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các ngân hàng thương mại Để đạt được điều này, các ngân hàng cần chuyển đổi mạnh mẽ mô hình kinh doanh, từ việc chỉ tập trung vào tín dụng sang đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng phi tín dụng.

Chính phủ đã ban hành quyết định số 986/QĐ - TTg phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã cụ thể hoá chiến lược này thành chương trình hành động theo quyết định số 34/QĐ - NHNN ngày 07/01/2019, với nhiều điểm đáng chú ý cho sự phát triển của ngành ngân hàng trong tương lai.

“Đến năm 2020, tỷ lệ thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các NHTM lên khoảng 12 - 13%”

“Đến năm 2025, tỷ lệ thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các NHTM lên khoảng 16-17%”

NHNN đã định hướng rõ ràng cho hệ thống NHTM Việt Nam chuyển đổi từ mô hình phụ thuộc vào tín dụng sang ngân hàng đa năng, nâng cao chất lượng hoạt động truyền thống và phát triển ngân hàng phi truyền thống (NHPTT) Với sự chỉ đạo quyết liệt của chính phủ, NHTM đã có cơ sở pháp lý vững chắc để cải thiện năng lực cạnh tranh và hiệu quả, đồng thời đóng góp cho phát triển kinh tế Tuy nhiên, việc chuyển đổi mô hình và gia tăng hoạt động NHPTT có thể ảnh hưởng đến hiệu quả ngân hàng Do đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa NHPTT và hiệu quả ngân hàng là rất quan trọng cho nhà điều hành, chính sách và nhà đầu tư để đưa ra quyết định đúng đắn.

Nhiều tài liệu nghiên cứu về hoạt động NHPTT trong ngành ngân hàng chủ yếu tập trung vào việc đánh giá tác động của nó đến hiệu quả ngân hàng thông qua các mô hình đo lường hiệu quả có và không có biến đầu ra là hoạt động NHPTT Chỉ một số ít nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy để phân tích mối quan hệ giữa hoạt động NHPTT và hiệu quả ngân hàng, với hoạt động NHPTT là biến độc lập và hiệu quả ngân hàng là biến phụ thuộc, cùng với các biến kiểm soát khác Kết quả nghiên cứu cho thấy hai quan điểm trái ngược: một bên cho rằng hoạt động NHPTT nâng cao hiệu quả nhờ việc tái sử dụng thông tin và chia sẻ nguồn lực, trong khi bên kia cho rằng nó có thể làm giảm hiệu quả của các ngân hàng hoặc tác động không đáng kể đến hiệu quả ngân hàng Do đó, các nghiên cứu hiện tại chưa đạt được sự đồng thuận về tác động của hoạt động NHPTT đến hiệu quả của các NHTM.

Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng phát triển thương mại (NHPTT) vẫn chưa được làm rõ, với chỉ một số ít nhà nghiên cứu như Rogers & Sinkey (1999), DeYoung & Rice (2004b), Shahimi và các cộng sự (2006), Hahm (2008) quan tâm đến vấn đề này.

Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng phát triển tín dụng (NHPTT) là rất quan trọng để ngân hàng có thể áp dụng các giải pháp hiệu quả, nâng cao hiệu suất hoạt động Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đo lường hiệu quả ngân hàng và phân tích tác động của các yếu tố như cạnh tranh, rủi ro, đa dạng hóa và cải cách quản lý Các tác giả như Hùng (2007), Vu & Turnell (2010), Thành (2010), Vinh (2012) và nhiều nghiên cứu khác đã đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về những yếu tố này và cách chúng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Từ năm 2019, nghiên cứu về tác động của hoạt động ngân hàng phát triển thị trường tài chính (NHPTT) đến hiệu quả ngân hàng vẫn chưa được chú trọng, ngoại trừ các nghiên cứu trước đó như của Sáng & Hoa (2013) về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi của ngân hàng thương mại Việt Nam và nghiên cứu của Hùng (2019) về các yếu tố vĩ mô tác động đến thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng này.

Theo Quyết định số 242 của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/2/2019, đến hết năm 2020, tất cả các ngân hàng thương mại (NHTM) phải niêm yết cổ phiếu trên sàn UPCoM Tuy nhiên, hiện tại chỉ có 13 trong số 31 ngân hàng đang hoạt động niêm yết cổ phiếu, với 10 cổ phiếu trên sàn HOSE và 3 cổ phiếu trên sàn HNX Những ngân hàng này không chỉ có kết quả kinh doanh tốt và thương hiệu mạnh, mà còn chiếm 70% tổng tài sản trong hệ thống NHTM, theo báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2019.

Tác giả nhận thấy rằng hiện chưa có nghiên cứu toàn diện về tác động của hoạt động Ngân hàng Phát triển Tư nhân (NHPTT) đến hiệu quả ngân hàng và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này Điều này tạo ra sự cần thiết cho các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, đặc biệt là các Ngân hàng Thương mại Nhà nước, có cơ sở để đánh giá chính xác về hoạt động NHPTT Hơn nữa, việc nghiên cứu này cũng nhằm tìm ra hướng phát triển cho hoạt động NHPTT, từ đó nâng cao hiệu quả ngân hàng một cách tối ưu.

Hoạt động ngân hàng phi truyền thống (NHPTT) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại niêm yết tại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2019 Nghiên cứu này không chỉ cung cấp cơ sở lý luận mà còn đưa ra bằng chứng thực nghiệm về tác động của NHPTT đến hiệu quả ngân hàng Đồng thời, nó xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động NHPTT tại các ngân hàng thương mại niêm yết, từ đó giúp các ngân hàng này có cơ sở vững chắc để phát triển hoạt động NHPTT, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trong thị trường ngân hàng Việt Nam.

Mục tiêu nghiên cứu là đánh giá tác động của hoạt động ngân hàng phát triển thương mại (NHPTT) đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, đồng thời xác định các yếu tố ảnh hưởng đến NHPTT Trên cơ sở đó, nghiên cứu sẽ đề xuất những hàm ý chính sách và giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của NHPTT, từ đó nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại nhỏ và vừa (NHTMNY) cũng như toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.

Mục tiêu nghiên cứu cụ thể: Để đạt được mục tiêu tổng quát, nghiên cứu có các mục tiêu cụ thể sau:

Thứ nhất, đánh giá tác động của các hoạt động NHPTT đến hiệu quả ngân hàng tại các NHTMNY Việt Nam

Thứ hai, đánh giá các yếu tố tác động đến hoạt động NHPTT tại các NHTMNY Việt Nam.

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận án sẽ giải đáp câu hỏi về cách mà hoạt động ngân hàng phát triển tài chính tác động đến hiệu quả của các ngân hàng thương mại nhà nước tại Việt Nam.

Hai là, các yếu tố nào tác động đến hoạt động NHPTT tại NHTMNY Việt Nam? Các yếu tố đó tác động theo chiều hướng như thế nào?

1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Tác động của hoạt động NHPTT đến hiệu quả ngân hàng tại

NHTMNY Việt Nam và các yếu tố tác động đến hoạt động NHPTT tại các NHTMNY ViệtNam.

Tính đến ngày 31/12/2019, hệ thống ngân hàng Việt Nam có 13 ngân hàng thương mại (NHTM) niêm yết chính thức tại Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, bao gồm ACB, BID, CTG, EIB, HD, MBB, NCB, SHB, STB, TCB, TPB, VCB, và VPB Những ngân hàng này không chỉ có kết quả kinh doanh tốt và uy tín cao, mà còn dẫn đầu trong phát triển các hoạt động ngân hàng Đặc biệt, tổng tài sản của các ngân hàng này chiếm khoảng 70% tổng tài sản của toàn hệ thống NHTM, theo số liệu từ báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2019.

LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÓ LIÊN QUAN

Các nghiên cứu về tác động của hoạt động ngân hàng phi truyền thống đến hiệu quả ngân hàng

truyền thống đến hiệu quả ngân hàng

Nghiên cứu về tác động của hoạt động ngân hàng phát triển tài chính đến hiệu quả ngân hàng cho thấy kết quả chưa thống nhất do sự khác biệt về đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu Một số nghiên cứu, như của Rogers (1998), Clark & Siems (2002), và Isik & Hassan (2002), chỉ ra tác động tích cực của hoạt động này đến hiệu quả ngân hàng Ngược lại, một số nghiên cứu khác, như Pasiouras (2008) và Akhigbe & Stevenson (2010), cho thấy không có tác động đáng kể hoặc thậm chí tác động tiêu cực đến lợi nhuận và rủi ro.

2.5.1.1 Hoạt động ngân hàng phi truyền thống tác động tích cực đến hiệu quả ngân hàng

Nghiên cứu của Rogers (1998) đã ước tính hiệu quả chi phí, doanh thu và lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Mỹ bằng cách áp dụng các mô hình có và không có đầu ra từ hoạt động ngân hàng phi truyền thống (NHPTT) Tác giả đã sử dụng dữ liệu của các NHTM Mỹ trong giai đoạn 1991 - 1995, với các hàm translog để đo lường lợi nhuận, doanh thu và chi phí, trong đó thu nhập phi lãi ròng được sử dụng làm thước đo cho hoạt động NHPTT Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, khi xem xét hiệu quả trung bình trên mẫu, các ước tính về hiệu quả chi phí và lợi nhuận tăng lên khi các hoạt động phi truyền thống được tính đến.

Nghiên cứu của Clark & Siems (2002) bổ sung thêm bằng chứng về tác động của hoạt động ngân hàng phi truyền thống (NHPTT) đến hiệu quả ngân hàng, tương tự như kết quả của Rogers (1998) Ngoài việc áp dụng phương pháp phân tích dữ liệu theo chiều dọc (DFA) như trong nghiên cứu của Rogers, Clark & Siems còn sử dụng phương pháp phân tích hiệu suất Stochastic Frontier Analysis (SFA) để khảo sát ảnh hưởng của các hoạt động ngoại bảng đến việc đo lường hiệu quả ngân hàng.

Nghiên cứu về hiệu quả ngân hàng Mỹ giai đoạn 1992 - 1997 cho thấy hiệu quả chi phí kinh tế và chi phí sản xuất X tăng khi tính đến hoạt động ngoại bảng, trong khi hiệu quả lợi nhuận X không bị ảnh hưởng nhiều Khác với nghiên cứu của Rogers (1998), Clark & Siems (2002) đã phân tích sâu hơn về tác động của các thành phần hoạt động ngoại bảng đến hiệu quả ngân hàng, thông qua việc hồi quy các ước lượng hiệu quả với nhiều yếu tố như năng suất, quy mô và sự kết hợp giữa hoạt động ngoại bảng và nội bảng Kết quả cho thấy không có mối tương quan có ý nghĩa giữa quy mô ngân hàng và hiệu quả chi phí hoặc lợi nhuận X Tuy nhiên, các khoản đảm bảo cho vay, cam kết tín dụng và hạn mức tín dụng lại có mối quan hệ tích cực với cả hiệu quả chi phí và lợi nhuận X, trong khi các hoạt động phái sinh lại có mối quan hệ tiêu cực với các chỉ số hiệu quả X, cho thấy mối tương quan của hoạt động ngoại bảng với hiệu quả chi phí mạnh hơn so với hiệu quả lợi nhuận.

Khác với hai nghiên cứu trước, Isik & Hassan (2002) áp dụng cả phương pháp tham số DEA và phi tham số EFA nhằm đánh giá hiệu quả chi phí và lợi nhuận của các ngân hàng.

Trong giai đoạn 1988-1996, nghiên cứu sử dụng hồi quy GLS để phân tích tác động của các cấu trúc tổ chức và sở hữu đến hiệu quả của ngành ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ Kết quả cho thấy rằng hiệu quả trung bình của toàn ngành và các ngân hàng tư nhân cao hơn so với các chỉ số trong những nghiên cứu trước, chủ yếu do các yếu tố như hoạt động ngoại bảng, giao dịch repo, quỹ liên ngân hàng và cho vay các lĩnh vực đặc biệt chưa được xem xét trong các nghiên cứu trước đó.

Tortosa-Ausina (2003) đã sử dụng phương pháp DEA để phân tích tầm quan trọng của các hoạt động ngân hàng phi tín dụng (NHPTT) đối với hiệu quả chi phí ngân hàng, thông qua cả hai bài kiểm tra vị trí tham số và phi tham số Nghiên cứu so sánh kết quả từ hai mô hình: mô hình giới hạn không tính đến đầu ra từ NHPTT (đại diện bởi thu nhập từ phí) và mô hình không giới hạn có tính đến đầu ra từ NHPTT Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu các tổ chức tài chính Tây Ban Nha, bao gồm ngân hàng thương mại và ngân hàng tiết kiệm, trong giai đoạn 1986 - 1997 Kết quả cho thấy rằng hiệu quả chi phí trung bình được cải thiện khi xem xét một mô hình thay thế bao gồm các hoạt động NHPTT của ngân hàng.

Lieu và cộng sự (2005) đã áp dụng phương pháp SFA để đo lường hiệu quả chi phí của 46 ngân hàng Đài Loan từ 1998 đến 2001, cho thấy việc bỏ qua các hoạt động ngoại bảng dẫn đến đánh giá thấp hiệu quả ngân hàng khoảng 5% Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hồi quy OLS không tìm thấy mối quan hệ nghịch giữa đầu ra hoạt động ngoại bảng và phi hiệu quả chi phí, trong khi các ngân hàng lớn có hiệu quả sử dụng chi phí cao hơn và phát triển hoạt động ngoại bảng tốt hơn Cuối cùng, nghiên cứu xác nhận rằng giá trị kinh tế theo quy mô có đầu ra hoạt động ngoại bảng cao hơn một chút so với không có, đồng thời phát hiện ra phạm vi kinh tế giữa các khoản vay và đầu ra hoạt động ngoại bảng.

Nghiên cứu của Huang và cộng sự (2006) về các ngân hàng Đài Loan sử dụng mô hình DEA định hướng đầu vào BCC để phân tích tác động của thu nhập phi lãi đến hiệu quả hoạt động của các NHTM từ năm 1992 đến 2004 Kết quả cho thấy các ngân hàng có tỷ lệ thu nhập lãi và phi lãi lớn hoặc nhỏ vượt trội hơn so với ngân hàng có tỷ lệ trung bình Mặc dù thu nhập phi lãi chỉ chiếm 0,4% - 5% tổng thu nhập hoạt động, nhưng nó lại có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả chi phí, với tỷ lệ thu nhập ngoài phí cao hơn dẫn đến hiệu quả sử dụng chi phí tốt hơn Nghiên cứu cũng chỉ ra xu hướng gia tăng tỷ lệ thu nhập ngoài lãi so với thu nhập hoạt động trong ngành ngân hàng Đài Loan, nhấn mạnh tầm quan trọng của thu nhập ngoài lãi đối với hoạt động ngân hàng.

Nghiên cứu của Budd (2009) sử dụng phương pháp DEA để điều tra ảnh hưởng của các khoản mục ngoại bảng đến năng suất ngân hàng, thông qua chỉ số Malmquist, tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) Kết quả cho thấy hầu hết các ngân hàng đều ghi nhận sự gia tăng trong các chỉ số hiệu quả phân bổ, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả chi phí và chỉ số Malmquist Điều này củng cố quan điểm rằng việc loại trừ các hoạt động phi truyền thống có thể dẫn đến sai sót trong đánh giá đầu ra của ngân hàng.

Sufian & Habibullah (2009) đã sử dụng phương pháp DEA để phân tích tác động của các hoạt động phi truyền thống, đại diện bởi các hoạt động ngoại bảng, đến hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả quy mô của ngành ngân hàng Trung Quốc trong giai đoạn 2000-2005 Hai mô hình được áp dụng để so sánh sự thay đổi trong điểm hiệu quả với và không có các khoản mục ngoại bảng Kết quả cho thấy việc bao gồm các hoạt động phi truyền thống có ảnh hưởng hỗn hợp đến ước tính hiệu quả của các ngân hàng Cụ thể, hiệu quả kỹ thuật của ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) được cải thiện nhờ vào hiệu quả quy mô, trong khi hiệu quả kỹ thuật của ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tăng lên do cải thiện trong hiệu quả kỹ thuật thuần tuý Các phân tích hồi quy đa biến cho thấy ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn thường phải chịu chi phí cao hơn, và mặc dù thị phần và vốn hóa có dấu hiệu tích cực trong mô hình hồi quy, nhưng không có ý nghĩa thống kê rõ ràng Cuối cùng, các điều kiện kinh tế thuận lợi trong giai đoạn nghiên cứu đã góp phần giải thích mức hiệu quả cao hơn của các ngân hàng Trung Quốc.

Lozano-Vivas và Pasiouras (2010) đã áp dụng hai thước đo hoạt động của ngân hàng thương mại, bao gồm các khoản mục ngoại bảng và thu nhập phi lãi, để ước tính hiệu quả chi phí và hiệu quả lợi nhuận Nghiên cứu này sử dụng phương pháp SFA trên mẫu gồm 4.960 quan sát.

Nghiên cứu 752 ngân hàng tại 87 quốc gia từ năm 1999 đến 2006 cho thấy hiệu quả chi phí trung bình tăng bất chấp việc sử dụng các khoản mục ngoại bảng và thu nhập phi lãi Tuy nhiên, hiệu quả lợi nhuận lại có kết quả khác nhau; việc bao gồm các khoản mục ngoại bảng không ảnh hưởng đến hiệu quả lợi nhuận, trong khi thu nhập phi lãi tạo ra điểm hiệu quả lợi nhuận cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc không bao gồm đầu ra phi truyền thống không ảnh hưởng đến các yếu tố quyết định sự kém hiệu quả chi phí và lợi nhuận Cuối cùng, việc kiểm soát các quy định liên quan đến ba trụ cột của Basel II cho thấy rằng những quy định này giúp các ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn, cải thiện cả hiệu quả chi phí và lợi nhuận.

Gulati & Kumar (2011) đã áp dụng phương pháp DEA để nghiên cứu ảnh hưởng của các hoạt động ngân hàng phi tài chính (NHPTT) đến hiệu quả chi phí, kỹ thuật và phân bổ của các ngân hàng ở Ấn Độ từ năm 1992 đến 2008 Nghiên cứu được thực hiện theo hai bước: đầu tiên, so sánh hiệu quả giữa các mô hình có và không có thu nhập phi lãi; sau đó, phân tích sự khác biệt về xếp hạng của các ngân hàng khi bao gồm hoặc loại trừ NHPTT Kết quả cho thấy việc loại trừ NHPTT không chỉ làm giảm hiệu quả của từng ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến thứ hạng của các nhóm sở hữu, với các ngân hàng nước ngoài thể hiện hiệu quả cao hơn so với ngân hàng khu vực công và tư nhân Nghiên cứu nhấn mạnh rằng việc không xem xét NHPTT có thể dẫn đến sai lệch trong ước tính hiệu quả ngân hàng.

2.5.1.2 Hoạt động ngân hàng phi truyền thống tác động tiêu cực đến hiệu quả ngân hàng

Pasiouras (2008) đã áp dụng phương pháp DEA để nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động ngoại bảng, rủi ro tín dụng và hoạt động quốc tế đến hiệu quả kỹ thuật và quy mô của ngành ngân hàng thương mại Hy Lạp trong giai đoạn 2000 - 2004 Kết quả cho thấy việc đưa các khoản dự phòng tổn thất cho vay vào đầu vào đã làm tăng điểm hiệu quả, trong khi các mục ngoại bảng không có ảnh hưởng đáng kể Ngoài ra, sự khác biệt giữa các điểm hiệu quả thu được qua các phương pháp định hướng lợi nhuận và trung gian là khá nhỏ.

Các nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố tác động đến hoạt động ngân hàng phi truyền thống

Mặc dù hoạt động ngân hàng phát triển truyền thống (NHPTT) đang gia tăng trên toàn cầu, nhưng vẫn còn thiếu nhiều nghiên cứu về các yếu tố tác động đến hoạt động này.

Rogers & Sinkey (1999) đã nghiên cứu các đặc điểm chung của các ngân hàng tham gia nhiều vào lĩnh vực phi truyền thống, sử dụng phương pháp ước lượng GLS với cả mô hình tác động cố định (FEM) và tác động ngẫu nhiên (REM) Kết quả cho thấy các ngân hàng này thường lớn hơn, có biên lãi ròng nhỏ hơn, ít tiền gửi cốt lõi hơn và ít rủi ro hơn Điều này có thể giải thích rằng các ngân hàng lớn hơn phải đối mặt với điều kiện lãi suất cạnh tranh hơn, dẫn đến việc họ cần đa dạng hóa nguồn thu và tăng cường khả năng tiếp cận thị trường tài chính, từ đó giúp giảm thiểu rủi ro.

Sử dụng phương pháp GLS và ước lượng bằng FEM và REM, nghiên cứu của Rogers & Sinkey (1999) và DeYoung & Rice (2004b) đã khám phá mối liên hệ thực nghiệm giữa thu nhập phi lãi của ngân hàng với chiến lược kinh doanh, điều kiện thị trường, thay đổi công nghệ và hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại tại Hoa Kỳ từ năm 1989.

Nghiên cứu năm 2001 cho thấy các ngân hàng lớn tạo ra nhiều thu nhập phi lãi hơn, trong khi các ngân hàng được quản lý tốt ít phụ thuộc vào nguồn thu này Một số tiến bộ công nghệ như giao dịch không dùng tiền mặt và quỹ tương hỗ đã thúc đẩy tăng trưởng thu nhập phi lãi, ngược lại, công nghệ như chứng khoán hóa khoản vay lại làm giảm nguồn thu này Thu nhập phi lãi tăng cận biên liên quan đến lợi nhuận cao hơn và biến động lợi nhuận lớn hơn, đồng thời làm xấu đi sự đánh đổi rủi ro của các ngân hàng thương mại Mặc dù việc mở rộng sang thu nhập phi lãi đã cải thiện sự đánh đổi rủi ro hoàn vốn trong giai đoạn đầu, nhưng lại làm giảm hiệu quả này trong những năm sau.

Shahimi và cộng sự (2006) đã thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm về sự tham gia của các ngân hàng Hồi giáo trong các hoạt động thu phí, sử dụng mô hình FEM và REM với dữ liệu từ các ngân hàng thương mại Hồi giáo Malaysia trong giai đoạn 1994-2004 Nghiên cứu đánh giá tác động của quy mô tài sản, khả năng sinh lời, tiền gửi chính, rủi ro vốn và rủi ro tín dụng đến mức thu nhập từ hoạt động phí của ngân hàng Kết quả cho thấy các ngân hàng có mức thu phí cao hơn thường có tài sản và tiền gửi chính lớn hơn, đồng thời ít rủi ro hơn Những phát hiện này chỉ ra rằng các ngân hàng tham gia vào hoạt động ngân hàng phi tín dụng có nguồn vốn đa dạng hơn và khả năng tiếp cận thị trường tài chính tốt hơn, từ đó giúp giảm thiểu rủi ro.

Nghiên cứu của Hahm (2008) phân tích các yếu tố quyết định và hậu quả của sự thay đổi cơ cấu thu nhập tại các ngân hàng thương mại (NHTM) trong thời đại tập đoàn tài chính Bằng cách sử dụng phương pháp OLS tổng hợp và ước lượng REM trên dữ liệu của 662 NHTM tại 29 quốc gia OECD từ năm 1992 đến 2006, nghiên cứu chỉ ra rằng các ngân hàng có quy mô tài sản lớn, biên lãi ròng thấp, tỷ lệ cho vay suy giảm cao và tỷ lệ chi phí thu nhập cao thường không đạt được lãi cổ phần cao Về mặt kinh tế vĩ mô, các ngân hàng ở những quốc gia có tốc độ tăng trưởng chậm, lạm phát ổn định và thị trường chứng khoán phát triển tốt có xu hướng có tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cao hơn.

Nghiên cứu của Sáng & Hoa (2013) về thu nhập ngoài lãi của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2006 - 2012 sử dụng dữ liệu từ 29 ngân hàng và áp dụng cả mô hình tác động cố định (FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) Biến phụ thuộc là phần trăm thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản, trong khi các biến độc lập bao gồm tỷ lệ nhân viên toàn thời gian, tỷ lệ cho vay, tỷ lệ vốn chủ sở hữu, tỷ lệ tổng tiền gửi, quy mô ngân hàng, và các chỉ số lợi nhuận Kết quả cho thấy thu nhập phi lãi chỉ phụ thuộc vào 5 yếu tố: cho vay trên tổng tài sản, vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, tỷ lệ tổng tiền gửi, quy mô ngân hàng và lợi nhuận trên tổng tài sản Đáng chú ý, cho vay trên tổng tài sản và quy mô ngân hàng có tác động ngược chiều đến thu nhập phi lãi, trong khi các yếu tố còn lại có tác động cùng chiều.

Firth và cộng sự (2016) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ thu nhập phi truyền thống của các ngân hàng thương mại Trung Quốc và các đặc điểm hoạt động, tài chính của ngân hàng trong giai đoạn 1998-2007, sử dụng dữ liệu bảng và mô hình hồi quy FEM Nghiên cứu cũng xem xét ảnh hưởng của loại hình sở hữu, sự thay đổi chính sách của chính phủ và khác biệt về môi trường thể chế giữa các khu vực Kết quả chỉ ra rằng các ngân hàng có biên lãi ròng hẹp có xu hướng phát triển mạnh mẽ các hoạt động phi truyền thống hơn.

Nghiên cứu cho thấy loại hình sở hữu ngân hàng ảnh hưởng đến việc thực hiện các hoạt động phi truyền thống Cụ thể, việc Trung Quốc gia nhập WTO và cắt giảm lãi suất của ngân hàng trung ương đã góp phần thúc đẩy các hoạt động này Tuy nhiên, hoạt động ngân hàng phi truyền thống lại có mối liên hệ ngược chiều với rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản, mặc dù mức độ ảnh hưởng không đáng kể.

Nghiên cứu của Hùng (2019) đã phân tích dữ liệu từ 27 ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2017 bằng mô hình hồi quy FEM, nhằm xác định các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng này Kết quả cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát, lãi suất bình quân liên ngân hàng và chỉ số quản trị cấp quốc gia (WGI) đều có tác động tiêu cực đến thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam.

Nghiên cứu trước đây về các yếu tố tác động đến hoạt động ngân hàng phát triển tín dụng (NHPTT) chủ yếu tập trung vào các quốc gia nước ngoài, với các yếu tố như quy mô ngân hàng, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM), tỷ lệ vốn chủ sở hữu, tỷ lệ tiền gửi chính, dự phòng rủi ro cho vay, tỷ lệ tài sản thanh khoản, rủi ro lãi suất, tỷ lệ cho vay và tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản Kết quả cho thấy các yếu tố này ảnh hưởng khác nhau đến hoạt động NHPTT tùy thuộc vào mô hình và phạm vi nghiên cứu Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào xem xét tác động của số lượng chi nhánh ngân hàng đến hoạt động NHPTT Tại Việt Nam, nghiên cứu của Sáng & Hoa (2013) và Hùng (2019) đã chỉ ra các yếu tố tác động đến thu nhập phi lãi của các ngân hàng thương mại Nghiên cứu này nhằm bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm và cơ sở lý thuyết về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động NHPTT của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

NTA = Tỷ lệ NII điều chỉnh/ tổng thu nhập (với tỷ lệ NII điều chỉnh

= tổng NII - phí dịch vụ và phí trên tiền gửi _

Quy mô ngân hàng ảnh hưởng đến NIM (biên lãi ròng) và tỷ lệ tiền gửi, trong khi tỷ lệ vốn chủ sở hữu và tỷ lệ tài sản thanh khoản đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý rủi ro lãi suất Để đảm bảo an toàn tài chính, các ngân hàng cần có dự phòng rủi ro cho vay hợp lý.

- NII ratio = tỷ lệ NII/tài sản

- NII ratiol = tổng NII/tài sản

- NII ratio2 = NII từ phí dịch vụ trên tài khoản tiền gửi/tài sản

- NII ratio3 = (tổng NII - phí dịch vụ)/tài sản

- NII ratio4 = (tổng NII - phí dịch

Tỷ lệ thu nhập phi lãi (NII ratio) đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả tài chính của ngân hàng, cùng với các chỉ số như tỷ lệ cho vay, tỷ lệ cho vay bất động sản, tỷ lệ cho vay công nghiệp và thương mại, cũng như tỷ lệ tiền gửi chính Số lượng nhân viên toàn thời gian và quy mô ngân hàng cũng ảnh hưởng đến hiệu suất hoạt động Chỉ số trọng số thị trường Herfindahl giúp phân tích mức độ tập trung của thị trường, trong khi tốc độ tăng trưởng hàng năm về việc làm tại tiểu bang phản ánh tình hình kinh tế địa phương Ngoài ra, các yếu tố khoa học công nghệ như số lượng máy ATM, giao dịch không dùng tiền mặt trên đầu người, lượng đô la tài sản quỹ tương hỗ và chứng khoán được bảo đảm bằng thế chấp trên đầu người cũng đóng góp vào sự phát triển của ngành ngân hàng.

Thu nhập từ phí được tính bằng tỷ lệ giữa thu nhập phí từ đầu tư của các cổ đông hoặc quỹ ngân hàng Hồi giáo và thu nhập phí từ đầu tư của quỹ người gửi tiền so với tổng tài sản.

FEE = thu nhập từ phí/tổng tài sản

Quy mô ngân hàng; lợi nhuận ngân hàng (NIM); tiền gửi chính; rủi ro ngân hàng (rủi ro vấn và rủi ro tín dụng)

OLS, REM thu nhập phi lãi ròng = doanh thu hoa hồng ròng + thu nhập phí ròng + thu nhập kinh doanh ròng + thu nhập hoạt động khác.

NIIR = thu nhập phi lãi ròng/doanh thu hoạt động ròng

Các yếu tố quan trọng liên quan đến ngân hàng bao gồm tài sản, tỷ lệ vốn tự có trên tài sản, tỷ lệ cho vay suy giảm, ROA, tỷ lệ cho vay, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) và các tỷ lệ khác Những biến này đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động và tình hình tài chính của ngân hàng.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 06/05/2022, 22:58

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w