Tiểu luận Tài chinh tiền tệ TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT KHOA KINH TẾ QTKD TIỂU LUẬN HỌC PHẦN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ MÃ HỌC PHẦN 7070436 ĐỀ BÀI BẢO HIỂM XÃ HỌI VIỆT NAM HIỆN NAY CÓ BAO NHIÊU CHẾ ĐỘ, HÃY PHÂN TÍCH MỘT CHẾ ĐỘ MÀ EM THÍCH, TẠI SAO LẠI CÓ BẢO HIỂM BẮT BUỘC VÀ ĐÓ LÀ NHỮNG LOẠI NÀO Hà Nội, 202 SINH VIÊN THỰC HIỆN PHẠM THỊ THU HẰNG MÃ SỐ SINH VIÊN 2024012291 NHÓM MÔN HỌC 06 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG ĐỀ TÀI 3 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 3 1 1 Khái niệm 3 1 2 Vị trí 3 1 3.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Khái niệm
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách xã hội quan trọng của Nhà nước, nhằm đảm bảo thay thế hoặc chia sẻ rủi ro cho người lao động và gia đình khi họ mất khả năng làm việc hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già và tử tuất BHXH không chỉ bảo vệ quyền lợi của người lao động mà còn góp phần vào việc đảm bảo an toàn xã hội, trở thành trụ cột chính trong hệ thống an ninh xã hội ở mỗi quốc gia.
Vị trí
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có nhiệm vụ thực hiện chế độ và chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện, cùng với bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện Cơ quan này cũng tổ chức thu, chi chế độ bảo hiểm thất nghiệp và quản lý các quỹ liên quan đến bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam được quản lý bởi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội liên quan đến bảo hiểm xã hội, Bộ Y tế đối với bảo hiểm y tế, và Bộ Tài chính về các chế độ tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế.
Chức năng
Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) khi họ gặp khó khăn do giảm hoặc mất thu nhập, bao gồm tình trạng mất khả năng lao động hoặc thất nghiệp.
Thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH.
Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất; nâng cao năng suất lao động cá nhân và xã hội.
Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động và giữa người lao động với xã hội.
Quyền lợi tham gia bảo hiểm y tế
Khi tham gia BHXH, người tham gia được hưởng những quyền lợi sau: – Được tham gia và hưởng các chế độ theo Luật BHXH;
Người lao động được cấp và quản lý sổ bảo hiểm xã hội (BHXH) và sẽ nhận lại sổ khi chấm dứt hợp đồng lao động Đồng thời, họ cũng sẽ nhận lương hưu và các trợ cấp đầy đủ, kịp thời thông qua các hình thức quy định.
+ Nhận trực tiếp tại cơ quan BHXH hoặc tổ chức dịch vụ được ủy quyền;
+ Nhận thông qua tài khoản tiền gửi của người lao động mở tại ngân hàng;
Người lao động có thể nhận bảo hiểm y tế thông qua công ty, tổ chức hoặc người sử dụng lao động Các trường hợp được hưởng bảo hiểm y tế bao gồm: đang nhận lương hưu, nghỉ việc để hưởng trợ cấp thai sản, nhận con nuôi, gặp tai nạn lao động, mắc bệnh nghề nghiệp hoặc nhận trợ cấp ốm đau.
– Chủ động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động và được thanh toán chi phí giám định y khoa nếu đủ điều kiện hưởng BHXH;
– Ủy quyền nhận lương hưu, trợ cấp BHXH cho người khác;
Người lao động cần được thông tin định kỳ về việc đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) và yêu cầu từ người sử dụng lao động về các thông tin liên quan đến việc đóng BHXH cũng như quyền lợi được hưởng từ các chế độ của BHXH.
– Người tham gia được khiếu nại, tố cáo và khởi kiện BHXH theo quy định pháp luật.
HỆ THỐNG TỔNG CHỨC
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, gồm có
2.1.1 Ở Trung ương là Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.
Cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam ở Trung ương
1 Ban Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.
2 Ban Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế
7 Ban Hợp tác quốc tế.
9 Ban Thi đua - Khen thưởng.
10 Ban Kế hoạch - Tài chính.
11 Ban Tổ chức cán bộ.
13 Viện Khoa học bảo hiểm xã hội.
16 Trường Đào tạo nghiệp vụ bảo hiểm xã hội.
17 Báo Bảo hiểm Xã hội.
18 Tạp chí Bảo hiểm Xã hội.
2.1.2 Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Bảo hiểm Xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Bảo hiểm Xã hội tỉnh) trực thuộc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.
1 Bảo hiểm Xã hội tỉnh có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở riêng; có các phòng chức năng trực thuộc.
2 Tổng Giám đốc quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, biên chế, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc, Phó Giám đốc và quy định kinh phí hoạt động của Bảo hiểm Xã hội tỉnh Số lượng Phó Giám đốc Bảo hiểm
Xã hội tỉnh không quá 03 người.
3 Tổng Giám đốc quyết định thành lập, giải thể Bảo hiểm Xã hội tỉnh trong trường hợp có quyết định sáp nhập, chia tách đơn vị hành chính cấp tỉnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4 Giám đốc Bảo hiểm Xã hội tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng trực thuộc Bảo hiểm Xã hội tỉnh theo tiêu chuẩn chức danh và quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ do Tổng Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam ban hành
5 Giám đốc Bảo hiểm Xã hội tỉnh chịu trách nhiệm quản lý và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, tài chính, tài sản thuộc phạm vi Bảo hiểm Xã hội tỉnh quản lý theo phân cấp của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
Ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là Bảo hiểm Xã hội huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Bảo hiểm Xã hội huyện) trực thuộc Bảo hiểm Xã hội tỉnh
2.2.1 Bảo hiểm Xã hội huyện
1 Bảo hiểm Xã hội huyện có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở riêng.
2 Tổng Giám đốc quy định chức năng, nhiệm vụ, biên chế và quy định kinh phí hoạt động của Bảo hiểm Xã hội huyện; quyết định thành lập, giải thể Bảo hiểm Xã hội huyện trong trường hợp có quyết định sáp nhập, chia tách đơn vị hành chính cấp huyện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Nghị định mới sẽ có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày công bố trên Công báo, thay thế Nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày 06 tháng 12 năm 2002, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cùng với Hội đồng quản lý và Tổng Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam có trách nhiệm thực hiện Nghị định này.
CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CƠ BẢN CỦA BHXH VIỆT NAM
Giai đoạn 1: Thời kỳ trước khi có Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội (trước 1961)
Từ khi thành lập chính quyền nhân dân và trong suốt thời kỳ kháng chiến, Chính phủ đã nỗ lực cải thiện đời sống cho nhân dân lao động, đặc biệt là công nhân và viên chức Nhà nước, mặc dù gặp nhiều khó khăn Chính phủ không chỉ ban hành chế độ tiền lương mà còn áp dụng các chế độ phụ cấp và trợ cấp xã hội, bao gồm bảo hiểm xã hội như trợ cấp ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, và trợ cấp cho người già, cũng như hỗ trợ gia đình công nhân viên chức khi có người qua đời Ngoài ra, Chính phủ còn xây dựng các khu an dưỡng, điều dưỡng, bệnh viện và nhà trẻ để chăm sóc sức khỏe và đời sống cho người lao động Những nỗ lực này được thể hiện rõ ràng trong các văn bản pháp luật liên quan.
- Sắc lệnh số 29/SL ngày 13/3/1947 của Chính phủ.
- Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về quy chế công chức.
Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 của Chính phủ quy định nguyên tắc về bảo hiểm xã hội cho công nhân, nhưng do chiến tranh và khó khăn kinh tế, Nhà nước chưa thể thực hiện đầy đủ quyền lợi này Các chế độ bảo hiểm xã hội mang tính bình quân và chưa phân định rõ giữa khu vực hành chính và sản xuất, cũng như giữa công nhân kháng chiến và công nhân sản xuất dân dụng Bên cạnh đó, các khoản chi bảo hiểm xã hội chưa được tách biệt với tiền lương và chính sách đãi ngộ, vi phạm nguyên tắc phân phối theo lao động Hơn nữa, văn bản pháp lý còn thiếu hoàn thiện, ảnh hưởng đến việc thực hiện Nhiều vấn đề quan trọng như chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, thôi việc và trợ cấp bệnh nghề nghiệp vẫn chưa được quy định rõ ràng.
Trong giai đoạn đầu thành lập nước, các chế độ bảo hiểm xã hội chưa được quy định toàn diện và quỹ bảo hiểm xã hội chưa hình thành Tuy nhiên, các chế độ trợ cấp và phụ cấp đã có tác dụng lớn trong việc giải quyết khó khăn cho công nhân viên chức Nhà nước và gia đình họ Điều này không chỉ củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng và Chính phủ mà còn tạo sự an tâm, phấn khởi cho mọi người, từ đó đẩy mạnh công tác sản xuất và thu hút lực lượng lao động vào khu vực kinh tế Nhà nước.
3.2.Giai đoạn 2: Thời kỳ thực hiện điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời (từ
Từ năm 1961 đến tháng 12 năm 1994, để đáp ứng yêu cầu cải thiện đời sống cho công nhân viên chức Nhà nước trong bối cảnh xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, các chế độ trợ cấp xã hội đã được bổ sung và sửa đổi Điều 32 của Hiến pháp năm 1959 quy định quyền được hỗ trợ vật chất cho người lao động khi già yếu, mất sức lao động hoặc bệnh tật Năm 1960, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết nhấn mạnh cần cải tiến chế độ tiền lương và các chính sách bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức Để thực hiện nghị quyết này, các Bộ Lao động, Nội vụ, Tài chính, Y tế và Tổng Công đoàn Việt Nam đã phối hợp xây dựng Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội, được phê chuẩn bởi Uỷ ban thường vụ Quốc hội vào ngày 14/12/1961 và chính thức ban hành qua Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961.
Đối tượng áp dụng bao gồm công nhân viên chức Nhà nước tại các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, cũng như cán bộ, công nhân trong các đoàn thể nhân dân Ngoài ra, những công nhân viên chức làm việc tại các xí nghiệp công tư hợp doanh với chế độ trả lương tương tự như xí nghiệp quốc doanh và công nhân viên chức trong các xí nghiệp công nghiệp địa phương có kế hoạch lao động, tiền lương theo quy định của Nhà nước cũng nằm trong phạm vi áp dụng.
Điều kiện và mức đãi ngộ được xác định dựa trên sự cống hiến thời gian công tác, điều kiện làm việc, tình trạng mất sức lao động và trợ cấp bảo hiểm xã hội, thường thấp hơn mức lương, với mức thấp nhất bằng mức sinh hoạt phí tối thiểu.
Chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm 6 chế độ chính, bao gồm chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, chế độ mất sức lao động, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất Mỗi chế độ đều có quy định cụ thể về điều kiện hưởng, tuổi đời và mức hưởng tương ứng.
- Về nguồn kinh phí đảm bảo chi trợ cấp: do quỹ bảo hiểm xã hội của Nhà nước đài thọ từ Ngân sách Nhà nước.
Quản lý quỹ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam được Nhà nước thành lập như một quỹ độc lập thuộc Ngân sách Nhà nước, do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý Quỹ này bao gồm 6 chế độ bảo hiểm xã hội, dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động, nhằm khuyến khích kỷ luật lao động và ổn định lực lượng lao động trong các ngành kinh tế Nghị định 218/CP được xem là văn bản gốc của chính sách bảo hiểm xã hội và đã được thực hiện hơn 30 năm Để phù hợp với tình hình đất nước, các quy định trong Điều lệ tạm thời đã trải qua 8 lần sửa đổi với 233 văn bản hướng dẫn, đặc biệt là Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985.
Chính phủ đang tiến hành sửa đổi và bổ sung một số chế độ chính sách liên quan đến thương binh và các vấn đề xã hội nhằm điều chỉnh giá cả, lương và tiền tệ.
Trong giai đoạn này, mặc dù đã trải qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung, bản chất của bảo hiểm xã hội vẫn giữ nguyên những đặc trưng cơ bản của nó.
Trong cơ chế quản lý tập trung và bao cấp, Nhà nước đảm bảo mọi vấn đề kinh tế xã hội, đặc biệt là bảo hiểm xã hội, được quản lý và hỗ trợ đầy đủ.
+ Nhà nước quy định và trực tiếp thực hiện bảo hiểm xã hội bằng bộ máy hành chính từ ngân sách Nhà nước.
+ Mọi người khi đã vào biên chế Nhà nước thì đương nhiên được đảm bảo việc làm, thu nhập và bảo hiểm xã hội.
Ngân sách Nhà nước hiện đang gặp khó khăn và thường xuyên mất cân đối, dẫn đến việc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội chưa được mở rộng Hệ quả là các trợ cấp tính trên lương không đủ để đảm bảo cuộc sống cho người dân và không được cung cấp kịp thời.
Chính sách và chế độ bảo hiểm xã hội hiện nay có sự giao thoa với nhiều chính sách xã hội khác, bao gồm ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, an dưỡng, điều dưỡng và kế hoạch hoá gia đình.
Trong suốt lịch sử từ khi Nhà nước Cộng hoà dân chủ Việt Nam ra đời đến hết năm 1994, chính sách bảo hiểm xã hội đã trải qua nhiều thay đổi để phù hợp với từng giai đoạn, mặc dù vẫn duy trì cơ chế quản lý tập trung và bao cấp Tham gia bảo hiểm xã hội được xác định dựa trên thời gian cống hiến, và các chính sách bảo hiểm xã hội thường được lồng ghép với các chính sách xã hội và kinh tế Chính sách này đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong thời kỳ dài, góp phần ổn định cuộc sống và đảm bảo thu nhập cho hàng triệu cán bộ công nhân viên chức, giúp họ yên tâm công tác và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời hỗ trợ gia đình họ thông qua trợ cấp và lương hưu, góp phần vào sự ổn định và an toàn xã hội.
Trong nhiều năm qua, sự chồng chéo và trùng lặp trong các văn bản pháp quy và hướng dẫn đã gây khó khăn cho việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, dẫn đến mất công bằng xã hội Các văn bản pháp lý chủ yếu ở dạng Nghị định, Điều lệ tạm thời, Quyết định và Thông tư, chưa đủ mạnh để đảm bảo tính hiệu lực Hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện chế độ chưa tách bạch chức năng quản lý Nhà nước khỏi hoạt động sự nghiệp của bảo hiểm xã hội, dẫn đến sự phân tán và kém hiệu quả trong công tác phối hợp giải quyết vướng mắc Quỹ bảo hiểm xã hội không đảm bảo đủ chi, khiến việc chi trả lương hưu và các khoản trợ cấp thường xuyên bị chậm trễ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người hưởng chế độ.
Giai đoạn 3: Thời kỳ từ 1/1995 đến nay
Sau Đại hội Đảng lần thứ 6, Việt Nam đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN Điều này đã dẫn đến việc xem xét và nghiên cứu lại chính sách bảo hiểm xã hội, nhằm đảm bảo phù hợp với tình hình đổi mới kinh tế trong nước và hòa nhập với các quy định, nguyên tắc bảo hiểm xã hội toàn cầu, đặc biệt là từ các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi.
Kể từ năm 1995, Chính phủ Việt Nam đã triển khai các quy định trong Bộ Luật lao động về bảo hiểm xã hội thông qua việc ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội theo Nghị định số 12/CP và Nghị định số 45/CP, áp dụng cho công chức, viên chức Nhà nước, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, cùng với sỹ quan và quân nhân chuyên nghiệp Điều lệ này đã được cải tiến đáng kể nhằm khắc phục những hạn chế của Điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời trước đó.
Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không chỉ giới hạn ở lao động trong khu vực Nhà nước, mà còn mở rộng cho người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên, tạo cơ hội cho nhiều người được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an sinh cho người lao động Việc tham gia đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội không chỉ là trách nhiệm của người sử dụng lao động mà còn của chính người lao động Sự hình thành và phát triển của Quỹ bảo hiểm xã hội phụ thuộc vào sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan, nhằm tạo ra một hệ thống an sinh vững mạnh và bền vững cho mọi người.
Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý một cách thống nhất và tập trung trên toàn quốc, hoàn toàn độc lập với ngân sách Nhà nước Nhà nước bảo trợ cho quỹ này, và cơ chế quản lý tài chính của quỹ được thực hiện theo các quy định của pháp luật.
Bảo hiểm xã hội hiện nay bao gồm 5 chế độ chính: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất Chế độ trợ cấp mất sức lao động đã được thay thế, và những người mất khả năng lao động sẽ được quy định chung trong chế độ hưu trí với mức lương hưu thấp hơn Mỗi chế độ đều có quy định cụ thể về điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia.
Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội sẽ được cấp sổ bảo hiểm xã hội, trong đó ghi chép quá trình tham gia, mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm và các chế độ bảo hiểm xã hội đã được hưởng Đối với lực lượng vũ trang, có quy định riêng về bảo hiểm xã hội theo Nghị định số 45/CP của Chính phủ.
- Tài chính bảo hiểm xã hội được đổi mới cơ bản, tập trung ở những nội dung chủ yếu sau:
Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ sự đóng góp của người tham gia, với mức đóng góp hàng tháng được quy định bắt buộc cho cả người lao động và người sử dụng lao động Điều này giúp cả hai bên nhận thức rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc đóng góp vào quỹ, từ đó đảm bảo sự công bằng và trách nhiệm trong hệ thống bảo hiểm xã hội.
Quỹ bảo hiểm xã hội đã được tách biệt khỏi ngân sách Nhà nước và hoạt động độc lập, với mục tiêu bảo tồn và tăng trưởng Quỹ này cam kết đảm bảo thu đủ để chi trả và có phần kết dư, phản ánh tính chất đoàn kết và tương trợ giữa người lao động và các thế hệ Kể từ năm 1995, chính sách bảo hiểm xã hội đã liên kết quyền lợi hưởng bảo hiểm với trách nhiệm đóng góp của người lao động, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động, tạo ra một quỹ bảo hiểm xã hội độc lập và bền vững.
Mức chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội được quy định hợp lý, tương xứng với mức đóng góp của người lao động, với lương hưu khởi điểm là 45% lương bậc cho 15 năm tham gia, và tăng 2% mỗi năm, tối đa 75% cho 30 năm Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội từ năm thứ 31 trở lên sẽ nhận thêm trợ cấp một lần bằng 1/2 tháng lương, tối đa 5 tháng Quy định này giúp cân đối thu-chi bảo hiểm xã hội Để thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ theo luật định, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/CP vào ngày 16/02/1995, thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập theo điều 150 Bộ luật Lao động năm 1992, dựa trên đề nghị của Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức-Cán bộ Chính phủ Tổ chức này hợp nhất các cơ quan Bảo hiểm xã hội hiện có ở Trung ương và địa phương, thuộc hệ thống lao động- Thương binh và Xã hội cùng với Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, nhằm hỗ trợ Chính phủ trong quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội và thực hiện các chính sách theo quy định của pháp luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, được Nhà nước bảo hộ, sở hữu con dấu và tài khoản riêng, với trụ sở chính đặt tại thành phố Hà Nội Quỹ Bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước.
Tổ chức thống nhất trong quản lý, bảo tồn và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội đã đảm bảo việc chi trả đầy đủ, kịp thời cho các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm Điều này giúp khắc phục những tồn tại trước đây, nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội.
Tuy nhiên, với các quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội thực hiện từ năm
1995 còn một số điểm tồn tại cần được nghiên cứu hoàn thiện như:
Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội hiện nay còn hạn hẹp, khi Nhà nước chỉ quy định lao động tại các doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên mới bắt buộc tham gia Mặc dù đã có sự mở rộng so với trước đây, tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội chỉ đạt khoảng 14% trong tổng số người trong độ tuổi lao động Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động và hạn chế quy mô quỹ bảo hiểm xã hội.
- Chế độ chính sách bảo hiểm xã hội vẫn còn đan xem một số chính sách xã hội.
Từ năm 1995 đến nay, chính sách bảo hiểm xã hội đã trải qua nhiều sửa đổi và bổ sung quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn và cải thiện quyền lợi cho người tham gia.
Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội được mở rộng bao gồm cán bộ xã, phường, thị trấn theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP có hiệu lực từ tháng 1 năm 1998 Ngoài ra, những người lao động trong các tổ chức thực hiện xã hội hóa thuộc ngành giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao cũng sẽ được bảo hiểm theo Nghị định số 73/1999/NĐ-CP của Chính phủ.
BẢO HIỂM XÃ HỌI VIỆT NAM HIỆN NAY CÓ BAO NHIÊU CHẾ ĐỘ, HÃY PHÂN TÍCH MỘT CHẾ ĐỘ MÀ EM THÍCH
Các chế độ bảo hiểm xã hội hiện nay
Các chế độ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam hiện nay bao gồm:
– Chế độ bảo hiểm ốm đau;
– Chế độ bảo hiểm xã hội tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;
– Chế độ bảo hiểm thai sản;
– Chế độ bảo hiểm thất nghiệp;
– Chế độ bảo hiểm y tế;
4.1.1 quát về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Khái niệm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Theo pháp luật hiện hành, thuật ngữ tai nạn lao động được hiểu như sau:
Tai nạn lao động là sự cố gây ra tổn thương cho cơ thể hoặc dẫn đến tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình thực hiện công việc và nhiệm vụ lao động.
Khái niệm này cũng được pháp luật hiện hành đề cập đến như sau:
“Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động đối với người lao động Danh mục các loại
Thương binh và Xã hội ban hành sau khi lấy ý kiến của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và tổ chức đại diện người sử dụng lao động.
– Người bị bệnh nghề nghiệp phải được điều trị chu đáo, khám sức khoẻ định kỳ, có hồ sơ sức khỏe riêng biệt”
4.1.2 Đặc điểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Thuật ngữ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đã đượcc quy định trong hành lang pháp lý hiện hành có những điểm sau:
Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp thường xảy ra khi người lao động thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong mối quan hệ lao động.
Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có thể gây ra suy giảm hoặc mất khả năng lao động, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập của người lao động.
Thứ ba, đối tượng tác động trực tiếp quá trình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chính là người lao động.
4.1.3.Vai trò của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
* Đối với người lao động
Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nhằm bảo đảm thu nhập cho người lao động và gia đình khi gặp phải tai nạn hoặc bệnh tật, gây khó khăn trong cuộc sống do giảm hoặc mất thu nhập Vai trò của chế độ này rất quan trọng, đặc biệt trong các trường hợp người lao động bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động, dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của họ.
* Đối với người sử dụng lao động
Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định hoạt động của các tổ chức và doanh nghiệp bằng cách phân phối chi phí hợp lý cho người lao động Nếu không có chế độ này, khi người lao động gặp tai nạn hoặc bệnh nghề nghiệp, họ sẽ không có nguồn thu nhập và chi phí thuốc men, dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của họ Điều này sẽ tác động xấu đến quan hệ lao động cũng như chất lượng và hiệu quả làm việc trong doanh nghiệp Chế độ này không chỉ giúp lực lượng lao động ổn định mà còn đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh diễn ra liên tục và hiệu quả, đồng thời gắn kết các bên trong quan hệ lao động.
Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phản ánh quan điểm và chính sách của Đảng cùng với pháp luật Nhà nước, giúp người lao động có cuộc sống ổn định và tin tưởng vào các chính sách này Việc thực hiện hiệu quả chế độ này không chỉ góp phần vào an sinh xã hội mà còn là yếu tố quan trọng để đánh giá tốc độ phát triển văn minh của một quốc gia.
4.1.4 Khái niệm chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:
Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp bao gồm các quy định pháp luật về bảo hiểm và biện pháp xử lý sự cố liên quan đến tai nạn lao động Chế độ này nhằm bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải tai nạn hoặc mắc bệnh do điều kiện làm việc không an toàn, dẫn đến suy giảm hoặc mất khả năng lao động và thu nhập.
4.1.5.Nội dung cơ bản của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Thứ nhất, Nhà nước thống nhất quản lý chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Thứ hai, chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành chủ yếu mang tính bắt buộc
Mức hưởng chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được xác định dựa trên mức đóng và thời gian tham gia bảo hiểm xã hội, đồng thời có sự chia sẻ giữa các thành viên trong hệ thống bảo hiểm xã hội.
Quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được quản lý một cách thống nhất, dân chủ và công khai, đảm bảo tính minh bạch trong việc sử dụng Quỹ này được sử dụng đúng mục đích và thực hiện hạch toán độc lập.
Vào thứ năm, việc triển khai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cần phải được thực hiện một cách đơn giản, dễ dàng và thuận tiện Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động được đáp ứng kịp thời và đầy đủ.
4.1.6 Điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động khi bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc;
+ Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động;
+ Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý.
+ Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên.
4.1.7 Điều kiện hưởng chế độ bệnh nghề nghiệp như sau:
Bệnh nghề nghiệp được xác định bởi Bộ Y tế và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, liên quan đến những người làm việc trong môi trường hoặc ngành nghề có yếu tố độc hại.
+ Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị bệnh quy định tại khoản
Người lao động bị tai nạn lao động sẽ được hưởng quyền lợi theo quy định tại Điều 42 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014, nếu đáp ứng đủ điều kiện được nêu trong các điều khoản liên quan.
Theo Điều 44 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014, người lao động sẽ nhận trợ cấp một lần hoặc trợ cấp hàng tháng dựa trên mức độ suy giảm khả năng lao động và thời gian tham gia bảo hiểm xã hội.
Người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp không chỉ nhận trợ cấp một lần và trợ cấp hàng tháng mà còn có thể được cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình, cũng như hưởng trợ cấp phục vụ hàng tháng Ngoài ra, họ còn nhận trợ cấp một lần khi qua đời do tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và có thời gian dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau điều trị Khi tham gia Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm tai nạn lao động, người lao động có quyền nghỉ việc để hưởng chế độ bảo hiểm, với số ngày nghỉ do người sử dụng lao động và Ban chấp hành công đoàn cơ sở quyết định Trong trường hợp chưa có công đoàn cơ sở, quyền quyết định thuộc về người sử dụng lao động.
– Tối đa 10 ngày đối với trường hợp bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp có mức suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên.
– Tối đa 07 ngày đối với trường hợp bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp có mức suy giảm khả năng lao động từ 31% đến 50%.
– Tối đa 05 ngày đối với trường hợp bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp có mức suy giảm khả năng lao động từ 15% đến 30%.
4.1.8.Các yếu tố tác động đến việc thực thi chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Sự hoàn thiện của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Các quy định về chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả thực thi chế độ này Tất cả các hành vi trong xã hội đều được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật, tạo ra khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc bảo vệ quyền lợi của người lao động.
- Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền
TẠI SAO LẠI CÓ BẢO HIỂM BẮT BUỘC VÀ ĐÓ LÀ NHỮNG LOẠI NÀO
Khái niệm
Theo Khoản 2 Điều 3 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, bảo hiểm xã hội bắt buộc là hình thức bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, yêu cầu sự tham gia của cả người lao động và người sử dụng lao động.
Tại sao lại có bảo hiểm xã hội và đó là nhưng loại nào
BHXH bắt buộc đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tài chính cho người lao động và gia đình họ khi gặp phải rủi ro như tai nạn hay ốm đau Hệ thống này không chỉ giúp bù đắp sự thiếu hụt tài chính mà còn phân phối lại thu nhập, cho phép người lao động san sẻ thu nhập theo thời gian Thông qua việc đóng BHXH bắt buộc, người lao động có thể đảm bảo quyền lợi nhận trợ cấp khi gặp phải những tình huống khó khăn.
Đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc mang lại nhiều lợi ích cho người lao động, bao gồm việc được chi trả chi phí khám chữa bệnh khi ốm đau, nhận trợ cấp ốm đau và nghỉ chăm sóc con khi con bị ốm Ngoài ra, người lao động còn được khám thai, nghỉ sinh và nuôi con, cũng như nhận các trợ cấp khi gặp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp.
- Theo Điều 8 của Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000, các loại bảo hiểm bắt buộc bao gồm:
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và người vận chuyển hàng không đối với hành khách là rất quan trọng Ngoài ra, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động tư vấn pháp luật và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm cũng cần được chú trọng Cuối cùng, bảo hiểm cháy nổ là một phần không thể thiếu trong việc đảm bảo an toàn tài sản.
Bảo hiểm bắt buộc xe cơ giới
Bảo hiểm bắt buộc xe cơ giới là gói bảo hiểm trách nhiệm dân sự mà chủ xe phải có, nhằm bồi thường cho thiệt hại về người và tài sản của bên thứ ba, cũng như bảo vệ sức khỏe và tính mạng của hành khách theo hợp đồng vận chuyển Đây là loại bảo hiểm bắt buộc cho tất cả những người điều khiển phương tiện xe cơ giới, và cảnh sát giao thông sẽ kiểm tra, xử phạt hành chính nếu không có giấy tờ này.
Bảo hiểm bồi thường tai nạn người lao động
Bảo hiểm bồi thường cho người lao động, hay gói bảo hiểm tai nạn con người, giúp chi trả chi phí liên quan đến bệnh tật và tai nạn trong công việc Loại bảo hiểm này là yêu cầu bắt buộc đối với các công ty, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng và công trình, nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là giải pháp bảo vệ cho các chuyên gia trong lĩnh vực như luật sư, kế toán và bác sĩ trước các khiếu nại từ khách hàng liên quan đến sai sót trong công việc Hầu hết các hợp đồng bảo hiểm thông thường không đủ khả năng bảo vệ họ khỏi các rủi ro và khiếu nại phát sinh từ hoạt động nghề nghiệp, do đó, gói bảo hiểm này trở nên cần thiết để đảm bảo an toàn cho người lao động chuyên môn.
Bảo hiểm cháy nổ bắt buộc là gói bảo hiểm bồi thường cho những thiệt hại và tổn thất bất ngờ đối với tài sản do sét đánh hoặc cháy nổ Theo quy định pháp luật, các cơ sở cá nhân và doanh nghiệp có nguy cơ cháy nổ cao, cũng như các khu tập thể và chung cư, phải mua bảo hiểm cháy nổ để đảm bảo an toàn và giảm thiểu thiệt hại trong trường hợp xảy ra sự cố Ngoài bảo hiểm cháy nổ, còn có các loại bảo hiểm bắt buộc khác như bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tai nạn lao động và bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.