1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

256 giải pháp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cho ngành thủy sản việt nam

102 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 102
Dung lượng 1,48 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU (18)
    • 1.1. CHUỖI GIÁ TRỊ (18)
      • 1.1.1. Khái niệm chuỗi giá trị (18)
      • 1.1.2. Các cách tiếp cận (19)
    • 1.2. CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU (23)
      • 1.2.1. Khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu (23)
      • 1.2.2. Phân loại chuỗi giá trị toàn cầu (24)
      • 1.2.3. Đặc điểm chuỗi giá trị toàn cầu (26)
    • 1.3. CHUỖI GIÁ TRỊ NGÀNH THỦY SẢN (27)
      • 1.3.1. Khái quát ngành thủy sản (27)
      • 1.3.2. Chuỗi giá trị toàn cầu ngành thủy sản (32)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM (42)
    • 2.1. THỰC TRẠNG NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM (42)
      • 2.1.1. Tiềm năng phát triển ngành thủy sản (42)
      • 2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của ngành thủy sản Việt Nam (44)
    • 2.2. THỰC TRẠNG THAM GIA VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM (48)
      • 2.2.1. Thực trạng hoạt động tạo giống, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản (48)
      • 2.2.2. Thực trạng hoạt động thu mua, nhập khẩu thủy sản (53)
      • 2.2.3 Thực trạng hoạt động sản xuất, chế biến thủy sản (53)
      • 2.2.4. Thực trạng hoạt động xuất khẩu, phân phối, tiêu thụ (55)
    • 2.3. MỘT SỐ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TÁC ĐỘNG ĐẾN CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM46 1. Luật thủy sản Việt Nam 2017 (59)
      • 2.3.3. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) (62)
      • 2.3.4. Một số hiệp định khác (64)
    • 2.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM (65)
      • 2.4.1. Thành quả đạt được (65)
      • 2.4.2. Những hạn chế trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ngành thủy sản Việt Nam (67)
  • CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THAM GIA VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM (71)
    • 3.1. ĐỊNH HƯỚNG CỦA VIỆT NAM VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU (71)
      • 3.1.1. Xu hướng phát triển chuỗi giá trị toàn cầu đối với ngành thủy sản trên thế giới (71)
      • 3.1.2. Định hướng phát triển của ngành thủy sản Việt Nam (71)
      • 3.1.3. Cơ hội và thách thức (73)
    • 3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM (78)
      • 3.2.1. Nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường (78)
      • 3.2.2. Phát triển công nghệ, kỹ thuật cao (80)
      • 3.2.3. Nâng cao liên kết chuỗi giá trị (82)
      • 3.2.4. Nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn của quốc gia nhập khẩu (83)
      • 3.2.5. Nâng cao hình ảnh thương hiệu (84)
    • 3.3. KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH NÂNG CAO KHẢ NĂNG GIA NHẬP CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU NGÀNH THỦYSẢNVIỆT NAM (85)
      • 3.3.1. Kiến nghị đối với chính phủ (85)
      • 3.3.2. Kiến nghị đối với bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (88)
      • 3.3.3. Kiến nghị đối với các Hiệp hội (92)
  • KẾT LUẬN (94)

Nội dung

TỔNG QUAN VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU

CHUỖI GIÁ TRỊ

1.1.1 Khái niệm chuỗi giá trị

1.1.1.1 Chuỗi giá trị đơn giản

Chuỗi giá trị là tập hợp các hoạt động cần thiết để biến một sản phẩm hoặc dịch vụ từ ý tưởng thành hiện thực, bao gồm các giai đoạn sản xuất khác nhau Quá trình này liên quan đến việc kết hợp chuyển hóa nguyên liệu đầu vào với các dịch vụ sản xuất, nhằm mang sản phẩm đến tay người tiêu dùng và đảm bảo khả năng tái chế sau khi sử dụng.

Sản xuất là một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị, bao gồm nhiều khâu và công đoạn khác nhau.

Các mắt xích trong chuỗi cung ứng có sự tác động qua lại lẫn nhau, đặc biệt là giữa khâu thiết kế và phát triển sản phẩm với các khâu khác trong chuỗi Sự tương tác này ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng của toàn bộ quy trình cung ứng.

Sơ đồ 1 1 Chuỗi giá trị đơn giản

Chuỗi giá trị thực tế phức tạp hơn nhiều so với hình thức đơn giản, với số lượng mắt xích gia tăng làm cho nó trở nên khó khăn hơn để quản lý Chuỗi giá trị mở rộng bao gồm nhiều hoạt động từ các bên tham gia khác nhau như nhà cung cấp đầu vào, nhà sản xuất và nhà phân phối, nhằm sản xuất sản phẩm và cung cấp đến tay người tiêu dùng Sự khác biệt cơ bản giữa chuỗi giá trị mở rộng và chuỗi giá trị đơn giản là tính đa dạng và sự tham gia của nhiều đối tác trong quá trình sản xuất và phân phối.

7 vi nội bộ một DN còn chuỗi giá trị mở rộng thì có sự xuất hiện của nhiều thành phần tham gia.

Trong chuỗi giá trị ngành dệt may, có nhiều thành phần tham gia như công ty dệt may, nhà sản xuất hàng may mặc và nhà bán lẻ, mỗi thành phần đảm nhận các chức năng riêng Các yếu tố như mạng lưới nguyên liệu thô và mạng lưới phụ liệu ảnh hưởng đến hoạt động của công ty dệt may Tất cả các yếu tố này kết hợp với nhau nhằm mục tiêu đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng.

Sơ đồ 1 2 Chuỗi giá trị ngành hàng may mặc

1.1.3 Phương pháp tiếp cận “Filière” (phân tích ngành hàng-

Từ những năm 1960, các quốc gia đang phát triển trong hệ thống thuộc địa của Pháp đã tìm cách tổ chức lại hệ thống sản xuất, dẫn đến sự ra đời của thuật ngữ chuỗi giá trị Phương pháp Filière nhấn mạnh sự kết nối giữa các hệ thống sản xuất địa phương với công nghiệp chế biến, xuất khẩu, thương mại và tiêu dùng Phân tích chuỗi giá trị bao gồm tất cả các hoạt động liên quan đến sản phẩm cuối cùng, cả sản phẩm và dịch vụ Có hai cách tiếp cận chính trong phân tích chuỗi giá trị: đầu tiên là đánh giá kinh tế và tài chính qua việc phân tích thu nhập và vai trò của ngành hàng trong nền kinh tế; thứ hai là phân tích mối quan hệ giữa vật chất và kỹ thuật định lượng để sơ đồ hóa dòng chuyển động hàng hóa và xác định vai trò của các tác nhân như nhà cung ứng, nhà sản xuất, nhà phân phối và người tiêu dùng Phương pháp Filière có ba đặc điểm chính.

-Tập trung vào những vấn đề của các mối định lượng và vật chất trong chuỗi -Sơ đồ hóa các dòng chảy của hàng hóa vật chất

-Sơ đồ hóa các quan hệ chuyển dạng sản phẩm

Phương pháp Filière có nhược điểm là tính chất tĩnh, chỉ phản ánh mối quan hệ đầu vào và đầu ra tại một thời điểm, do đó không thể hiện được sự di chuyển hay tăng trưởng của các mắt xích trong chuỗi cung ứng Hơn nữa, phương pháp này chỉ áp dụng được trong phạm vi nội bộ của một quốc gia, không phù hợp với xu thế toàn cầu hóa hiện nay khi nhiều thành phần từ các quốc gia khác nhau cùng tham gia vào chuỗi cung ứng.

Khái niệm chuỗi giá trị được giới thiệu bởi Michael Porter trong cuốn sách “Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior Performance” năm 1985 Theo ông, chuỗi giá trị là tập hợp các hoạt động mà doanh nghiệp thực hiện nhằm tạo ra giá trị cho khách hàng Cụ thể, chuỗi giá trị bao gồm tất cả các hoạt động từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng trong quá trình sản xuất và cung cấp sản phẩm.

9 nên lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm và khi đi qua từng hoạt động trong chuỗi thì sản phẩm lại được nhận thêm một số giá trị.

Michael Porter đã phân chia hoạt động của doanh nghiệp thành các phần nhỏ hơn để dễ dàng nghiên cứu và xác định lợi thế cạnh tranh Ông chia chuỗi giá trị thành hai phần chính: hoạt động chính và hoạt động bổ trợ Năm hoạt động chính bao gồm cung ứng đầu vào, sản xuất, phân phối, marketing và bán hàng, dịch vụ, tất cả đều có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, từ đó tác động đến kết quả kinh doanh Ngược lại, các hoạt động bổ trợ như quản trị nguồn nhân lực, quản lý tổng quát, phát triển công nghệ và thu mua có ảnh hưởng gián tiếp đến sản phẩm thông qua các hoạt động chính, làm cho các hoạt động chính chịu nhiều tác động từ các hoạt động bổ trợ.

Sơ đồ 1 3 Chuỗi giá trị của Poster

Mô hình chuỗi giá trị của Porter bắt đầu từ các giá trị đầu vào và trải qua quá trình kết nối, chuyển đổi để tạo ra giá trị cuối cùng cho khách hàng Mô hình này chủ yếu áp dụng cho quy mô doanh nghiệp (DN), giúp DN phân tích và xác định lợi thế cạnh tranh Từ đó, DN có thể đánh giá vị trí của mình trên thị trường cũng như mối quan hệ với khách hàng, nhà cung cấp và đối thủ cạnh tranh.

10 b) Phương pháp tiếp cận toàn cầu

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng, các phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị theo ngành hàng và của Porter đã trở nên không còn phù hợp Điều này bởi vì chúng chỉ tập trung vào chuỗi giá trị nội bộ của doanh nghiệp, trong khi thực tế chuỗi giá trị lại phức tạp hơn với sự tham gia của nhiều thành phần khác nhau.

Năm 2001, trong cuốn sách “A Handbook for Value Chain Research”, Raphael Kaplinsky và Mike Morris đã giới thiệu một phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu Theo các tác giả, chuỗi giá trị được định nghĩa là một hệ thống các hoạt động liên kết với nhau, từ sản xuất đến tiêu thụ, nhằm tối ưu hóa giá trị và lợi ích cho tất cả các bên liên quan.

Chuỗi giá trị là tổng hợp các hoạt động cần thiết để chuyển đổi một sản phẩm hoặc dịch vụ từ ý tưởng đến tay người tiêu dùng, bao gồm nhiều giai đoạn sản xuất và sự kết hợp giữa chuyển hóa vật chất và các dịch vụ sản xuất khác Có hai cách tiếp cận chính đối với khái niệm chuỗi giá trị: một là theo nghĩa rộng, hai là theo nghĩa hẹp.

Chuỗi giá trị đơn giản chỉ tập trung vào bốn hoạt động chính trong vòng đời sản phẩm: thiết kế, sản xuất, marketing và tiêu thụ, với tất cả hoạt động diễn ra trong một doanh nghiệp Ngược lại, chuỗi giá trị mở rộng xem xét các liên kết ngành dọc, trong đó sản phẩm được tạo ra và đến tay khách hàng cuối cùng nhờ sự tương tác phức tạp giữa nhiều thành phần trong chuỗi giá trị như nhà cung cấp đầu vào, nhà sản xuất và nhà phân phối, cho thấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các yếu tố này.

Cách tiếp cận chuỗi giá trị mở rộng không chỉ giới hạn trong một doanh nghiệp mà còn xem xét sự tham gia của nhiều đối tượng khác nhau trong chuỗi cung ứng để sản xuất sản phẩm và dịch vụ Phương pháp này phù hợp với xu thế kinh tế hiện nay, khi một sản phẩm được hình thành từ nhiều hoạt động và công đoạn của các doanh nghiệp khác nhau, trải dài trên nhiều lãnh thổ.

CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU

1.2.1 Khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu

Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của ngành giao thông vận tải, đặc biệt là tàu thủy tải trọng lớn, đã thúc đẩy thương mại toàn cầu đạt nhiều thành tựu lớn, biến thương mại thành ngành nghề chủ lực của nhiều quốc gia Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng ngày càng trở nên phổ biến, dẫn đến sự hình thành khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu như một hệ quả tất yếu của nền kinh tế hiện đại, nhấn mạnh vào chuyên môn hóa Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau được đưa ra để mô tả chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo cách tiếp cận của Kaplinsky và Morris trong bài nghiên cứu “A manual for value chain research” (1999) và nghiên cứu của Gereffi và Memodovic (2003),

Chuỗi giá trị toàn cầu là một mô hình sản xuất kinh doanh toàn cầu hóa, trong đó nhiều quốc gia và doanh nghiệp tham gia vào các giai đoạn từ thiết kế, chế tạo, tiếp thị đến phân phối sản phẩm Dựa trên lý thuyết chuỗi giá trị của Porter, cách tiếp cận này mang lại cái nhìn toàn diện hơn về phân công lao động quốc tế, cho thấy mọi doanh nghiệp tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm quốc tế đều là một phần của chuỗi giá trị toàn cầu Các hoạt động tạo ra sản phẩm và dịch vụ đều diễn ra tại nhiều doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau, không có doanh nghiệp nào có thể kiểm soát toàn bộ chuỗi giá trị Ví dụ, các doanh nghiệp lớn ở các quốc gia phát triển thường nắm giữ các bằng sáng chế và công nghệ tiên tiến, nhưng do nguồn tài nguyên và lao động hạn chế, họ có xu hướng thuê ngoài các hoạt động không mang lại giá trị cao Điều này cho phép doanh nghiệp tập trung vào chuyên môn hóa, tối ưu hóa chi phí và tối đa hóa lợi nhuận, như trường hợp của Apple, nơi công ty mẹ tại Mỹ nghiên cứu sản phẩm mới trong khi sản xuất diễn ra tại các quốc gia có chi phí lao động thấp như Trung Quốc và Ấn Độ.

Khác với các tác giả khác, Coe và Hass (2007) định nghĩa chuỗi giá trị toàn cầu là trình tự các hoạt động sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm cho người tiêu dùng, chú trọng vào mối quan hệ giữa các doanh nghiệp Họ nhấn mạnh tầm quan trọng của các mối quan hệ trong chuỗi cung ứng, bao gồm nhà cung cấp trong nước và quốc tế, công ty mẹ, chi nhánh và các đại lý nước ngoài, thay vì chỉ tập trung vào phân công lao động.

Theo định nghĩa của Tổ chức hợp tác phát triển và kinh tế (OECD) vào năm 2013, chuỗi giá trị toàn cầu bao gồm toàn bộ quá trình sản xuất hàng hóa, từ nguyên liệu thô đến thành phẩm, diễn ra ở bất kỳ đâu có kỹ năng và nguyên liệu cần thiết để sản xuất với giá cả cạnh tranh và đảm bảo chất lượng OECD nhấn mạnh rằng thương mại thế giới đóng vai trò quan trọng trong việc liên kết các mắt xích trong chuỗi giá trị, giúp chuỗi hoạt động liên tục và đạt hiệu quả cao nhất.

Chuỗi giá trị toàn cầu là tập hợp các hoạt động từ nguyên liệu thô đến sản phẩm cuối cùng cho người tiêu dùng Các doanh nghiệp trên khắp các quốc gia có thể tham gia vào chuỗi giá trị này, miễn là họ đóng góp vào việc tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ Trong bối cảnh chuỗi giá trị toàn cầu, doanh nghiệp thường có lợi thế cạnh tranh trong một số lĩnh vực cụ thể và tạo ra sự liên kết chặt chẽ để tối ưu hóa hoạt động kinh doanh.

1.2.2 Phân loại chuỗi giá trị toàn cầu

Chuỗi giá trị có tính chất khác nhau tùy thuộc vào ngành nghề, quy mô sản xuất, vốn, công nghệ và lao động, thể hiện qua mối liên kết và quan hệ giữa các yếu tố trong chuỗi Hiện nay, nhiều công ty tham gia vào quá trình toàn cầu hóa bằng cách thiết lập hai mạng lưới: chuỗi giá trị do người sản xuất chi phối (Producer driven) và chuỗi giá trị do người mua chi phối (Buyer driven).

Chuỗi giá trị do người sản xuất chi phối đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nơi các tập đoàn lớn (MNCs) và công ty xuyên quốc gia (TNCs) giữ vị trí chủ chốt trong việc kết nối và điều phối mạng lưới sản xuất Họ không chỉ tìm kiếm lợi nhuận mà còn kiểm soát các mối liên kết với nhà cung cấp nguyên liệu và nhà phân phối, góp phần tạo nên sự phát triển bền vững trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Chuỗi giá trị do người sản xuất chi phối có ba đặc điểm chính Đầu tiên, nó sở hữu một mạng lưới sản xuất rộng lớn với nhiều công xưởng và nhà máy trên toàn cầu, cùng với hệ thống phân phối và nghiên cứu thị trường đa dạng Thứ hai, mô hình này phổ biến tại các quốc gia công nghiệp lớn, tập trung vào xuất khẩu, với các ngành điển hình như sản xuất ô tô, máy bay, chất bán dẫn và chế tạo máy móc hạng nặng Cuối cùng, lợi nhuận của các công ty áp dụng mô hình này phụ thuộc vào quy mô sản xuất, doanh số và việc sử dụng công nghệ hiện đại để tạo ra giá trị dịch vụ và lợi nhuận lớn.

Chuỗi giá trị do người tiêu dùng chi phối bao gồm các nhà đại lý, nhà bán lẻ, nhà marketing và nhà sản xuất thương hiệu toàn cầu, những người đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối hàng hóa đến tay người tiêu dùng Những nhà phân phối này thiết lập mạng lưới sản xuất rộng rãi tại các quốc gia phát triển và đang phát triển, tạo ra mối liên kết chặt chẽ với các nhà sản xuất và công xưởng toàn cầu Mô hình này đặc biệt phổ biến trong các ngành công nghiệp tiêu dùng và ngành công nghiệp thâm dụng lao động như dệt may, thủ công và lắp ráp thiết bị điện tử Những người chi phối chuỗi giá trị không tham gia trực tiếp vào sản xuất, nhưng giá trị họ tạo ra rất lớn trong việc kết nối và tối ưu hóa quy trình cung ứng.

Lợi nhuận không chỉ đến từ quy mô sản xuất lớn, công nghệ tiên tiến hay khối lượng hàng hóa khổng lồ, mà chủ yếu xuất phát từ 14 dịch vụ đi kèm sản phẩm, bao gồm thiết kế, marketing, bán hàng và các dịch vụ hỗ trợ khác.

1.2.3 Đặc điểm chuỗi giá trị toàn cầu

Mặc dù có nhiều nghiên cứu về cấu trúc chuỗi giá trị toàn cầu, nghiên cứu nổi bật nhất vẫn là của Stan Shih (1992) Nghiên cứu này giới thiệu mô hình đường cong nụ cười, thể hiện các giai đoạn cơ bản của chuỗi giá trị.

Sơ đồ 1 4 Mô hình đường cong nụ cười

Gi á tộ gi a lă ng

Trong mô hình chuỗi cung ứng, trục tung thể hiện giá trị gia tăng mà mỗi hoạt động mang lại, trong khi trục hoành mô tả các hoạt động cơ bản như lên ý tưởng, nghiên cứu và phát triển, xây dựng thương hiệu, thiết kế, sản xuất, phân phối sản phẩm, marketing và dịch vụ hậu mãi Đường cong uốn xuống cho thấy rằng giá trị gia tăng giảm dần khi các hoạt động gần với khâu sản xuất, với các giai đoạn như lên ý tưởng và nghiên cứu phát triển có giá trị gia tăng cao hơn.

Các hoạt động chính của doanh nghiệp (DN) thường mang lại lợi nhuận cao nhất được thực hiện tại các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là tại công ty mẹ Ngược lại, các khâu như thiết kế, phân phối và sản xuất thường ít lợi nhuận hơn, dẫn đến việc nhiều DN chọn thuê ngoài (outsourcing) những khâu này Những hoạt động thuê ngoài thường diễn ra ở các quốc gia kém phát triển, nơi có nguồn nhân công và nguyên liệu giá rẻ, tạo ra lợi thế cạnh tranh trong sản xuất Nhờ vậy, các công ty mẹ có thể tập trung nguồn lực vào những hoạt động giá trị cao hơn như phát triển ý tưởng và dịch vụ hậu mãi.

CHUỖI GIÁ TRỊ NGÀNH THỦY SẢN

1.3.1 Khái quát ngành thủy sản

1.3.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển ngành thủy sản thế giới

Từ những trang đầu của lịch sử nhân loại, con người đã sử dụng mỏ chim làm mũi lao và cành cây làm thân gậy để đánh bắt Các hình ảnh trong các hang động được phát hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Hoa Kỳ, chứng minh cho sự phát triển của kỹ thuật săn bắn trong thời kỳ nguyên thủy.

Kỳ, Trung Quốc, Đan Mạch đã ghi nhận hình ảnh người tiền sử sử dụng lao để săn bắt cá Khi dân số gia tăng, con người di cư đến các khu vực ven sông hồ với nguồn thủy sản phong phú hơn Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, họ cải tiến công cụ lao động, giúp tăng sản lượng và hiệu quả đánh bắt Hệ quả là từ những chiếc thuyền nhỏ, các làng chài lớn hình thành, cùng với các tuyến đường biển được khai thác, tạo điều kiện cho con người khám phá những vùng đất mới và phát triển các con đường thương mại lớn nhất thế giới.

Trước năm 1500, ngành công nghiệp thủy sản đã phát triển mạnh mẽ tại bờ biển Bắc Đại Tây Dương của Bắc Mỹ, với hơn 300 tàu đánh cá từ Châu Âu hoạt động vào những năm 1580 Tại Newfoundland, việc chế biến cá trở thành ngành kinh tế chủ chốt, với cá được ướp muối và hun khói, không chỉ là nguồn thực phẩm chính mà còn là tài sản để trao đổi với các lái thương từ các vùng khác Tuy nhiên, vào năm 1815, sản lượng hải sản sơ chế giảm đáng kể, dẫn đến sự phát triển của ngành thực phẩm.

Thực phẩm đóng hộp, với thời gian bảo quản lâu dài và tính tiện lợi khi di chuyển, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển mạnh mẽ của thương mại và hệ thống giao thương đường biển.

Từ thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã nhận thức được tác động tiêu cực của khai thác thủy sản không bền vững đến hệ sinh thái và tài nguyên biển Các phương pháp như cài mìn và dùng lưới điện đã dẫn đến sự tuyệt chủng của nhiều loài thủy sản, trong khi việc khai thác quá mức gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển Do đó, nhiều quốc gia đã chuyển đổi mô hình khai thác thủy sản sang nuôi trồng thủy sản, giúp cung cấp nguồn thực phẩm ổn định và chất lượng Mô hình này không chỉ mang lại lợi ích cho các quốc gia có biển mà còn giúp các quốc gia không có lợi thế về biển có nguồn cung thủy sản phong phú mà không phụ thuộc vào nước khác.

1.3.1.2 Tình hình ngành thủy sản thế giới hiện nay

Ngành thủy sản ngày càng trở nên quan trọng trong cuộc sống con người, không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng mà còn tạo ra hàng triệu việc làm Đây là một ngành thực phẩm triệu đô, đóng góp lớn vào nền kinh tế và thương mại của nhiều quốc gia, được xem là ngành mũi nhọn trong phát triển kinh tế.

Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO), năm 2017, ngành thủy sản đã tạo ra hơn 60 triệu việc làm và có hơn 4,5 triệu tàu đánh cá hoạt động toàn cầu Đến năm 2019, tổng sản lượng hải sản thế giới đạt 177,8 triệu tấn, với ngành nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh chóng, tăng trưởng 3,9% Các loài cá nuôi chủ lực như cá Rô Phi, cá Tra và cá Hồi đều đạt sản lượng cao Tuy nhiên, do tác động tiêu cực của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và ảnh hưởng của Brexit, sản lượng hải sản thương mại toàn cầu đã giảm sút đáng kể.

Năm 2020, đại dịch COVID-19 đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng trên toàn cầu, ảnh hưởng đến hàng nghìn ngành nghề và làm gián đoạn chuỗi cung ứng Ngành thủy sản cũng chịu tác động nặng nề, với nhiều đơn đặt hàng bị hủy bỏ.

17 hàng giảm từ 35-50% do lượng tiêu thụ thủy sản giảm mạnh và thay đổi thói quen của người tiêu dùng.

Bảng 1 1 Sản lượng nuôi trồng thủy sản thế giới theo châu lục và một số nước đứng đầu ngành 1995-2018

18 Đơn vị tính: Sản lượng: 1.000 tấn

Trong những thập kỷ qua, ngành thủy sản đã chuyển mình mạnh mẽ, với sự chú trọng ngày càng cao vào nuôi trồng thủy sản thay vì đánh bắt tự nhiên Hiện nay, sản lượng hải sản nuôi trồng chiếm 46% tổng sản lượng hải sản toàn cầu và 52% tổng lượng thủy sản phục vụ thực phẩm cho con người Kể từ những năm 2000, Châu Á đã trở thành khu vực dẫn đầu thế giới về nuôi trồng thủy sản, nắm giữ gần 89% thị phần toàn cầu, trong đó Trung Quốc đứng đầu với sản lượng lên tới 47 triệu tấn.

Năm 2018, Ản Độ dẫn đầu khu vực về sản lượng nuôi trồng thủy sản với 7 triệu tấn, tiếp theo là Indonesia với 5,4 triệu tấn, Việt Nam đạt 4,1 triệu tấn, và Bănglađét với 2,4 triệu tấn.

Theo số liệu của FAO, tình trạng phân bố nuôi trồng thủy sản trên thế giới hiện chưa đồng đều, với phần lớn sản lượng tập trung ở khu vực Châu Á Nuôi trồng thủy sản ngày càng được chú trọng tại các quốc gia đang phát triển, nơi có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào với chi phí thấp.

1.3.2 Chuỗi giá trị toàn cầu ngành thủy sản

1.3.2.1 Tổng quan chuỗi giá trị toàn cầu ngành thủy sản

Chuỗi giá trị ngành thủy sản bao gồm các hoạt động từ đánh bắt, nuôi trồng đến chế biến và phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng Khác với nhiều ngành khác, trong ngành thủy sản, các công ty thường thực hiện nhiều hoạt động giá trị cao như chế biến và sản xuất, thay vì chỉ tập trung vào thiết kế và phân phối Điều này dẫn đến sự phân bổ hoạt động trong chuỗi giá trị thủy sản có những đặc điểm riêng biệt Chuỗi giá trị toàn cầu ngành thủy sản có thể được phân chia theo hai hướng chính.

Chuỗi giá trị do nhà sản xuất điều hành

Trong mô hình chuỗi giá trị thủy sản, các nhà sản xuất tự liên kết để thu hút sự tham gia của bên cung ứng giống nuôi, nguyên vật liệu, trang thiết bị, cùng với các bên chế biến, vận chuyển và phân phối Tuy nhiên, rất ít doanh nghiệp có đủ năng lực để điều hành chuỗi giá trị này do yêu cầu về quy mô lớn và sự kết hợp chặt chẽ giữa các bên Do đó, những người đứng đầu mô hình thường là các hiệp hội, liên minh hoặc tổ chức có năng lực tài chính, nhân lực và thông tin thị trường tốt.

Chuỗi do người tiêu dùng (đại lý, nhà bán lẻ) chi phối

Mô hình chuỗi giá trị trong ngành thủy sản được quản lý bởi các nhà bán lẻ lớn như siêu thị và tập đoàn bán lẻ Các sản phẩm thủy sản tham gia chủ yếu là hàng hóa đã qua chế biến, như thực phẩm đóng hộp và chế biến sẵn, trong khi sản phẩm tươi sống chiếm tỷ lệ rất nhỏ Hầu hết các mặt hàng này đều mang thương hiệu của doanh nghiệp sản xuất, kết hợp với thương hiệu của nhà bán lẻ, mặc dù có trường hợp nhà bán lẻ yêu cầu sản phẩm chỉ mang thương hiệu của họ.

Để tham gia vào chuỗi giá trị của nhà bán lẻ, quy trình sản xuất và chất lượng nông sản cần tuân thủ các quy định nghiêm ngặt Những sản phẩm không có tên thương hiệu thường mang lại ít giá trị cho nhà sản xuất, vì họ chỉ thực hiện công việc sản xuất, trong khi các hoạt động giá trị cao như phân phối và tiếp thị do nhà bán lẻ đảm nhiệm.

Chuỗi do các bên cung ứng quản lý

THỰC TRẠNG THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM

THỰC TRẠNG NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM

2.1.1 Tiềm năng phát triển ngành thủy sản

2.1.1.1 Tiềm năng về vị trí địa lý

Việt Nam sở hữu nhiều lợi thế để phát triển ngành thủy sản, với đường bờ biển dài hơn 3.260 km kéo dài từ Móng Cái, Quảng Ninh Theo cuốn “Tài liệu hỏi - đáp về biển, đảo Việt Nam” của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục thành phố Hồ Chí Minh, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác và phát triển nguồn lợi thủy sản.

Hà Tiên, Kiên Giang, nằm ở vị trí giáp biển Đông với ba phía Đông, Nam và Tây Nam, là điểm giao thông quan trọng kết nối nhiều đại dương và lục địa lớn như Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Trung Đông, Châu Á, và Châu Âu Việt Nam sở hữu hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, tạo thành một vòng cung từ Vịnh Bắc Bộ đến ba quần đảo lớn Hoàng Sa, Trường Sa và khu vực phía Nam, Tây Nam Với vị trí gần xích đạo, khí hậu nóng ẩm và lượng mưa dồi dào, Việt Nam có mạng lưới sông ngòi phong phú với tổng chiều dài hơn 41.900 km, bao gồm 2.360 con sông và kênh lớn nhỏ, chủ yếu bắt nguồn từ các quốc gia khác và chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam ra biển Đông Những lợi thế về địa lý biển và sông ngòi giúp Việt Nam trở thành một trong những khu vực có nguồn lợi hải sản phong phú nhất thế giới.

Vì vậy nhiều ngư trường đã được hình thành và trải dài trên khắp vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

2.1.1.2 Tiềm năng về nguồn lợi thủy sản

Việt Nam, với vị trí địa lý biển và hệ thống sông ngòi phong phú, sở hữu nguồn lợi thủy sản dồi dào Theo Viện nghiên cứu thủy sản, biển Việt Nam có hơn 2.000 loài cá, trong đó khoảng 130 loài mang lại giá trị kinh tế cao Ngoài cá, còn có gần 2.000 loài giáp xác, với sản lượng khai thác ước tính khoảng 60.000 tấn/năm, bao gồm các loài như tôm hùm, tôm biển, tôm mũ ni, ghẹ và cua, đều có giá trị kinh tế lớn Thêm vào đó, có hơn 2.500 loài động vật biển thân mềm, đóng góp đáng kể vào ngành thủy sản của Việt Nam.

Mực và bạch tuộc là hai loại thủy sản được ưa chuộng trên thị trường quốc tế, với sản lượng khai thác gần 70 nghìn tấn mỗi năm Ngoài ra, các vùng biển Việt Nam còn có khả năng khai thác khoảng 50 nghìn tấn rong biển và nhiều loài thủy sản quý hiếm như bào ngư, đồi mồi, và ngọc trai, cho thấy nguồn lợi thủy sản phong phú và có giá trị kinh tế cao Nghiên cứu cho thấy 82% đàn cá có kích thước nhỏ dưới 5 x 20m, trong khi các đàn lớn hơn chiếm tỉ lệ rất thấp Đặc biệt, 68% số đàn cá hoạt động gần bờ, cho thấy sự phân bố không chỉ theo khí hậu mà còn theo vùng miền và độ sâu Vùng biển Đông Nam Bộ có khả năng khai thác thủy sản xa bờ cao nhất, chiếm 49,7% tổng sản lượng khai thác xa bờ của cả nước.

Việt Nam sở hữu nguồn thủy sản phong phú với 544 loài cá nước ngọt và 228 giống, đứng trong top đầu khu vực Đông Nam Á Các vùng nước lợ và mặn ghi nhận 186 loài hải sản có giá trị kinh tế cao như cá song, cá hồng và cá bớp Ngoài ra, Việt Nam còn có khoảng 16 loài tôm như tôm sú và tôm hùm bông, không chỉ mang lại giá trị khai thác mà còn hiệu quả cao trong nuôi trồng Bên cạnh cá và tôm, biển Việt Nam còn có một lượng nhuyễn thể phong phú, góp phần vào sự đa dạng của nguồn lợi thủy sản.

Trong số 31 loại hải sản, có nhiều loài như trai, hầu, điệp, nghêu, sò và ốc Hiện nay, các loài đang được nuôi trồng bao gồm trai, nghêu và sò Về rong tảo, có khoảng 90 loài được khai thác và nuôi trồng, trong đó rong câu là loại nổi bật nhất.

2.1.1.3 Tiềm năng về nguồn nhân lực

Theo Tổng cục Thống Kê Việt Nam, năm 2020, dân số Việt Nam gần 98 triệu người, với 55,1 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên, chiếm 74,4% tổng dân số Việt Nam được coi là quốc gia có "dân số vàng" nhờ tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao Trong quý I năm 2020, lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 33,5% tổng lao động cả nước, tương đương khoảng 18,1 triệu người Lực lượng lao động ngành thủy sản đã chuyển dịch từ khai thác ven bờ sang đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thủy sản Chất lượng lao động Việt Nam được đánh giá cao với sự chăm chỉ, cần cù và sáng tạo, đặc biệt là trong khai thác thủy sản biển Sự quan tâm từ các cơ quan, bộ ngành đã nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động trong ngành thủy sản, nhờ vào việc phổ biến kiến thức và ứng dụng khoa học - công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, mang lại nhiều kết quả tích cực cho ngành.

2.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của ngành thủy sản Việt Nam

Ngành thủy sản Việt Nam, mặc dù đã tồn tại từ rất sớm, nhưng đến giữa thế kỷ XX vẫn mang tính tự cung tự cấp và lạc hậu trong đánh bắt và nuôi trồng Nghề cá chỉ được xem là nghề phụ trong nông nghiệp với đóng góp kinh tế hạn chế, mặc dù tiềm năng rất lớn Đến những năm 1950, chính phủ bắt đầu chú trọng phát triển nghề cá sau khi có những đánh giá tổng quát về tiềm năng của ngành thủy sản.

Việc thành lập các cơ quan chức năng riêng cho ngành thủy sản đánh dấu bước khởi đầu quan trọng của chính phủ trong nỗ lực phát triển lĩnh vực này Tác giả đã phân chia quá trình hình thành và phát triển ngành thủy sản thành ba giai đoạn chính dựa trên những sự kiện quan trọng.

Giai đoạn 1954 - 1960 đánh dấu sự chuyển mình quan trọng của ngành thủy sản Việt Nam, khi chính quyền bắt đầu chú trọng đến phát triển kinh tế thủy sản theo hướng kỹ thuật Nhờ sự hỗ trợ từ các nước XHCN như Liên Xô và Trung Quốc, nhà máy cá hộp Hạ Long - nhà máy đầu tiên trong ngành công nghiệp chế biến thủy sản - đã được xây dựng Ngành thủy sản đã được tổ chức lại từ hình thức sản xuất tự cung tự cấp sang một ngành kinh tế thị trường, gia tăng sự tham gia vào thương mại.

Giai đoạn 1960 - 1980: Ngành thuỷ sản tiếp tục phát triển gắn với những sự kiện đặc biệt trong ngành theo lịch sử đất nước thời bấy giờ.

Giai đoạn 1960 - 1975, đất nước Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn do chiến tranh Theo chủ trương của Nhà nước, cán bộ và ngư dân ngành thủy sản vừa sản xuất vừa tham gia kháng chiến với khẩu hiệu “vững tay lưới, chắc tay súng” và “tất cả vì miền Nam ruột thịt” Họ cùng nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đánh bại quân Mỹ, giải phóng miền Nam Năm 1960, sự ra đời của Tổng cục thủy sản đánh dấu bước ngoặt quan trọng, đưa ngành thủy sản trở thành một phần thiết yếu trong cơ cấu kinh tế và là ngành nghề mũi nhọn của đất nước trong tương lai.

Giai đoạn 1976 - 1980 đánh dấu sự thống nhất đất nước và khởi đầu cho quá trình phục hồi kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội Ngành thủy sản bước vào giai đoạn phát triển mới với quy mô rộng lớn trên toàn quốc Sự thành lập Bộ Hải sản năm 1976 thể hiện sự quan tâm của chính phủ đối với ngành này Trong khuôn khổ chiến dịch “10 năm Di chúc Bác Hồ”, phong trào “Ao cá Bác Hồ” đã được phát động thành công trên toàn quốc, góp phần mang lại những thành tựu nhất định cho ngành thủy sản, với sự gia tăng đáng kể về số lượng ao hồ nuôi cá và sản lượng nuôi trồng.

Trong giai đoạn sau chiến tranh, mặc dù có 33 bước nhảy vượt bậc, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn do hậu quả nặng nề của chiến tranh Công nghệ kỹ thuật lạc hậu, đất đai và tài nguyên bị tàn phá, cùng với một chính quyền non trẻ thiếu kinh nghiệm, đã khiến ngành thủy sản chưa có nhiều đổi mới.

Nhà nước đã kịp thời điều chỉnh chính sách kinh tế để khắc phục những thất bại nghiêm trọng, nhằm phục hồi và phát triển nền kinh tế lạc hậu và kém hiệu quả.

Năm 1981, Bộ Hải sản được cải tổ thành Bộ Thủy sản, đánh dấu bước chuyển mình quan trọng cho ngành thủy sản với chiến lược phát triển toàn diện các hoạt động trong lĩnh vực này.

THỰC TRẠNG THAM GIA VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM

2.2 THỰC TRẠNG THAM GIA VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM

2.2.1 Thực trạng hoạt động tạo giống, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản

Năm 1996, ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng kỷ lục hơn 31%, đánh dấu sự chuyển mình từ khai thác hải sản gần bờ sang tập trung vào nuôi trồng Chính sách phát triển kịp thời của Nhà nước đã góp phần vào thành công này Mặc dù sản lượng nuôi trồng đạt 4,56 triệu tấn vào năm 2020, ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đã làm giảm tỷ lệ tăng trưởng hàng năm, từ 31% năm 1996 xuống còn khoảng 4% vào năm 2020 Xu hướng này phản ánh tình hình toàn cầu, khi ngành nuôi trồng ngày càng bão hòa do sự tham gia của nhiều doanh nghiệp và quốc gia Để thích ứng, ngành chăn nuôi thủy sản Việt Nam đang chuyển hướng từ sản lượng sang phát triển các sản phẩm có giá trị kinh tế cao và hiệu quả.

Theo báo cáo của VASEP, trong năm 2020, sản lượng nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam chủ yếu bao gồm tôm và cá tra, với tôm Sú đạt 267,7 nghìn tấn, tôm chân trắng 632,3 nghìn tấn và tôm khác 50.000 tấn Sản lượng cá tra đạt 1,560 triệu tấn, đồng thời ngành cũng đang mở rộng phát triển thêm một số sản phẩm nuôi trồng khác.

Các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như hàu, mực, và bạch tuộc chủ yếu được nuôi trồng để phục vụ nhu cầu tiêu thụ.

Biểu đồ 2 2 Sản lượng thủy sản nuôi trồng của Việt Nam năm 1995-2020

Nuôi trồng (nghìn tấn) • % tăng trường NT

Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam, với nhiều công nghệ hiện đại như enzyme, vi sinh, hóa sinh, và sản xuất vaccine được áp dụng Các kỹ thuật nuôi trồng tiên tiến như nuôi ghép nhiều loài hải sản và nuôi kết hợp thủy sản cũng được phổ biến Tuy nhiên, quy mô nuôi trồng còn nhỏ lẻ và rời rạc, khiến cho hiệu quả của các công nghệ chưa được tối ưu Thêm vào đó, trình độ nuôi trồng còn thấp và thiếu chuyên gia hướng dẫn, cùng với sự cần thiết phải có những cải tiến phù hợp với đặc điểm từng địa phương, ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi trồng.

Từ năm 1995 đến 2020, sản lượng khai thác thủy sản của Việt Nam đã tăng hơn 4 lần, đạt mức tăng trưởng trung bình 6% mỗi năm, từ 929 nghìn tấn lên 3,85 triệu tấn Mặc dù sản lượng ngành đánh bắt thủy sản tăng đều qua các năm, nhưng trong những năm gần đây, sản lượng khai thác thủy sản có dấu hiệu biến động.

Loại tàu cá Số lượng (đơn vị: chiếc )

Sản lượng nuôi trồng thủy sản hiện tại thấp hơn so với nhu cầu, điều này xuất phát từ chính sách thay đổi cơ cấu ngành thủy sản Chính phủ đã và đang khuyến khích ngư dân để cải thiện tình hình này.

Để phát triển bền vững, DN đang chuyển mô hình kinh tế từ đánh bắt sang nuôi trồng thủy sản, nhằm đối phó với tình trạng cạn kiệt nguồn tài nguyên gần bờ Sự gia tăng các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và môi trường từ chính phủ và các quốc gia nhập khẩu đã làm cho ngành khai thác trở nên kém hấp dẫn, vì việc kiểm soát chất lượng thủy sản đánh bắt ngày càng khó khăn Điều này dẫn đến giá trị khai thác thấp và hiệu quả kinh tế kém.

Biểu đồ 2 3 Sản lượng khai thác thủy sản Việt Nam năm 1995-2020

Sàn lượng KT(nghin tân) Táng trường (%)

Theo VASEP, tính đến năm 2020, Việt Nam có 94.572 tàu cá và 179.601 lao động trong ngành thủy sản Trong đó, 45.950 tàu có chiều dài từ 6-12m, còn lại là các tàu dài từ 12-24m và hơn 24m Mặc dù Việt Nam được đánh giá có nhiều lợi thế trong khai thác thủy sản, nhưng vẫn chưa khai thác hết tiềm năng do phương pháp đánh bắt gần bờ lạc hậu và quy mô nhỏ lẻ.

Khai thác tài nguyên biển không bền vững đang dẫn đến sự cạn kiệt nghiêm trọng, trong khi việc thiếu bảo vệ và nuôi dưỡng hệ sinh thái gần bờ đã gây ra ô nhiễm nguồn nước và hủy hoại môi trường.

Bảng 2 1 Số lượng tàu cá tại Việt Nam năm 2020

Nguôn: tác giả tự tông hợp

Năm 2020 ghi nhận thành công trong chính sách chuyển đổi cơ cấu ngành đánh bắt thủy sản tại Việt Nam, với 33.538 tàu thuyền nghề lưới rê chiếm 35% tổng số tàu Các nghề lưới kéo, câu và lưới vây lần lượt chiếm 18%, 17% và 8% Mặc dù nghề lưới vây mới phát triển gần đây và số lượng tàu còn hạn chế, nhưng đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, với tổng sản lượng khai thác biển đạt khoảng 40%/năm Ngành khai thác hải sản cũng đã áp dụng nhiều thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, với nhiều tàu lớn được trang bị thiết bị điện tử tiên tiến như bộ đàm, định vị và giám sát hành trình.

Biểu đồ 2 4 Phân bổ tàu theo ngành nghề năm 2020

■ Nghề lưới kéo BNghe lưới vây

■ Nghề lưới rê "Nghề câu

■ Nghề khác BTau dịch vụ hậu

Nguồn: tác giả tự tổng hợp

Năm 2020 đánh dấu thành công của chính sách chuyển đổi cơ cấu ngành đánh bắt thủy sản tại Việt Nam, với 33.538 tàu thuyền nghề lưới rê, chiếm 35% tổng số tàu thuyền cả nước Các nghề khác như lưới kéo, câu, và lưới vây lần lượt chiếm 18%, 17% và 8% Mặc dù nghề lưới vây mới được áp dụng trong những năm gần đây và số lượng tàu thuyền còn hạn chế, nhưng đã mang lại hiệu quả kinh tế lớn, chiếm gần 40% tổng sản lượng khai thác biển hàng năm, khẳng định xu hướng phát triển mạnh mẽ của ngành khai thác thủy sản xa bờ.

Những thành tựu khoa học - công nghệ toàn cầu đã được áp dụng hiệu quả trong ngành khai thác thủy sản, đặc biệt là đối với các tàu đánh bắt xa bờ Các tàu này hiện nay được trang bị thiết bị điện tử hiện đại như bộ đàm liên lạc, hệ thống định vị và thiết bị giám sát hành trình Sự phát triển của công nghệ cao đã mang lại những cải tiến đáng kể cho hoạt động đánh bắt, góp phần nâng cao sản lượng và chất lượng thủy sản trong nước.

2.2.2 Thực trạng hoạt động thu mua, nhập khẩu thủy sản

Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp chế biến thủy sản đều thu mua nguyên liệu qua thương lái, dẫn đến việc rất ít doanh nghiệp có thể liên kết trực tiếp với ngư dân Mặc dù phương thức này giúp đáp ứng nhu cầu nguyên liệu và tạo đầu ra nhanh chóng cho ngư dân, nhưng cũng gặp nhiều vấn đề Thứ nhất, nếu thương lái không hợp tác, hoạt động sản xuất sẽ bị đình trệ ngay lập tức Thứ hai, việc thu mua qua thương lái khiến nông dân không tiếp xúc được với nhà sản xuất, dẫn đến việc họ không nắm bắt được xu hướng tiêu dùng và không nhận được hỗ trợ về công nghệ, kỹ thuật để cải thiện chất lượng sản phẩm Hơn nữa, do phụ thuộc vào thương lái, nông dân thường bị ép giá, gây ra tình trạng được mùa rớt giá, và cuối cùng, người chịu thiệt thòi nhất vẫn là nông dân và ngư dân trong chuỗi giá trị thủy sản.

Hoạt động nhập khẩu thủy sản thô để chế biến tại Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh, mặc dù nước ta đã đầu tư nhiều vào dây chuyền sản xuất chế biến hiện đại Tuy nhiên, số lượng dây chuyền đáp ứng tiêu chuẩn sản lượng và chất lượng chế biến vẫn còn hạn chế, dẫn đến sản lượng hải sản thô nhập khẩu để tái sản xuất rất thấp.

Ngành thủy sản Việt Nam đã nhận được sự đầu tư từ Nhà nước để phát triển đồng bộ chuỗi giá trị, nhưng lĩnh vực thu mua vẫn còn yếu kém do chưa áp dụng hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ Điều này dẫn đến việc thiếu mối liên kết chặt chẽ giữa ngư dân, doanh nghiệp thu mua và các nhà sản xuất, chế biến, gây gián đoạn chuỗi giá trị quốc tế và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cũng như giá trị sản phẩm.

2.2.3 Thực trạng hoạt động sản xuất, chế biến thủy sản

MỘT SỐ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TÁC ĐỘNG ĐẾN CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM46 1 Luật thủy sản Việt Nam 2017

Luật Thủy sản Việt Nam 2017, được ban hành ngày 21/11/2017, quy định về hoạt động thủy sản, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân liên quan đến lĩnh vực này, cũng như quản lý Nhà nước đối với thủy sản.

Luật Thủy sản 2017, có hiệu lực từ ngày 01/01/2019, đã có nhiều cải cách đáng kể so với luật trước đó, giảm 1 chương và tăng 43 điều so với Luật Thủy sản 2003 Một trong những điểm mới quan trọng là Điều 10, quy định về đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản, yêu cầu mọi cá nhân và tổ chức tham gia cùng chính quyền cơ sở trong việc quản lý và bảo vệ tài nguyên thủy sản Điều này nhấn mạnh vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ tài nguyên biển, khẳng định rằng trách nhiệm này không chỉ thuộc về chính quyền mà còn là nghĩa vụ của toàn xã hội Ngoài ra, Luật Thủy sản 2017 cũng có nhiều thay đổi liên quan đến quy định của Quỹ bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.

Quỹ cộng đồng được quy định tại Điều 21 và Điều 22, trong khi hoạt động nuôi trồng thủy hải sản được trình bày chi tiết trong Chương III, từ Điều 23 đến các điều tiếp theo.

Bộ luật mới đã bao quát toàn bộ đối tượng, hình thức và mục đích nuôi trồng thủy sản, đồng thời bổ sung nhiều quy định liên quan đến việc chống đánh bắt cá bất hợp pháp, không có báo cáo và không theo quy định (IUU) do EC ban hành Luật cũng tăng mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi thủy sản và vi phạm vùng biển khai thác nước ngoài.

Luật Thủy sản năm 2017 sẽ mang lại nhiều lợi ích cho người dân và doanh nghiệp thông qua việc quy định rõ ràng các dịch vụ công, đơn giản hóa thủ tục hành chính và cải cách phương thức quản lý trong hoạt động sản xuất, kinh doanh Điều này không chỉ nâng cao trách nhiệm của các bên tham gia mà còn giúp cơ quan quản lý Nhà nước giảm sát và hỗ trợ hiệu quả hơn Tuy nhiên, nếu không tuân thủ đúng các quy định của Luật, người dân và doanh nghiệp có thể gặp phải những tác động tiêu cực đến sự phát triển của ngành thủy sản.

Luật thủy sản Việt Nam đã thiết lập một khung pháp lý quan trọng, điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thủy sản Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân và tổ chức hoạt động trong ngành thủy sản, đồng thời giúp phát triển các ngành nghề liên quan, nâng cao hình ảnh thủy sản Việt Nam trên toàn cầu.

2.3.2 Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, bao gồm 11 quốc gia thành viên: Brunei, Canada, Chi-lê, Nhật Bản, Australia, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam CPTPP chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 14 tháng 01 năm 2019, sau một thời gian dài đàm phán Hiệp định này giữ nguyên các nội dung cơ bản của TPP, nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa vụ, nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong bối cảnh hiện tại.

Mỹ rút khỏi Hiệp định CPTPP.

Việc tham gia CPTPP mang lại nhiều lợi ích to lớn cho Việt Nam, không chỉ trong ngành thương mại mà còn cho chuỗi giá trị hàng hóa trong nước Hiệp định này mở ra cơ hội xuất khẩu sang các thị trường lớn như Nhật Bản, Canada, Singapore, New Zealand và Australia, trong đó Nhật Bản và Canada là những thị trường tiềm năng cho ngành thủy sản Khi xuất khẩu hàng hóa sang các quốc gia tham gia CPTPP, Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế quan ưu đãi, với nhiều mặt hàng chủ lực như điện tử, nông sản và thủy sản được xóa bỏ thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực Điều này có nghĩa là tại 10 thị trường chiếm 25% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam, hầu hết các mặt hàng thủy sản sẽ được áp dụng thuế 0% Đặc biệt, tại Nhật Bản, các mặt hàng thủy sản hiện đang chịu thuế 4.8%-10.5% sẽ được giảm xuống 0%, ngoại trừ một số sản phẩm như cá trích có lộ trình giảm thuế 6 năm Các sản phẩm thuộc nhóm mã 03, bao gồm cá ngừ, cá hồi, cũng sẽ có lộ trình giảm thuế về 0% trong 6-11 năm Đặc biệt, hai mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam là tôm và cá tra sẽ được áp dụng mức thuế 0% tại tất cả các quốc gia CPTPP, trong đó các quốc gia này chiếm 31% tổng sản lượng tôm và 15% tổng sản lượng cá tra xuất khẩu của Việt Nam Bên cạnh việc cắt giảm thuế nhập khẩu, CPTPP còn tạo cơ hội cho Việt Nam tham gia sâu rộng hơn vào thị trường quốc tế.

Việc tham gia hiệp định CPTPP giúp Việt Nam kết nối sâu sắc hơn với các quốc gia thành viên, nhận được hỗ trợ về khoa học - công nghệ và nâng cao năng suất lao động Sự hỗ trợ này là điều kiện quan trọng để hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là thủy sản, thâm nhập vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu Đồng thời, CPTPP cũng thúc đẩy đổi mới chính sách kinh tế, giúp Việt Nam hoàn thiện thể chế pháp luật và cải thiện môi trường kinh doanh Hiệp định này còn có tác động tích cực đến thị trường việc làm, xóa đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế trong nước.

Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức khi tham gia hiệp định CPTPP, đặc biệt là trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và thể chế Cần điều chỉnh các quy định về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động và công đoàn, điều này không chỉ tạo áp lực lên hành lang pháp lý mà còn ảnh hưởng đến ngân sách Nhà nước do cắt giảm thuế nhập khẩu Tuy nhiên, Việt Nam không cần thay đổi chính sách đột ngột vì đã có 7/10 nước có FTA với Việt Nam, chỉ còn Canada, Mexico và Peru chưa có FTA, mà thị trường của họ không quá lớn Hiệp định CPTPP cũng tạo ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, do cạnh tranh cao, đặc biệt trong lĩnh vực nông - thủy sản, yêu cầu các doanh nghiệp phải chủ động nắm bắt thông tin để tận dụng cơ hội và chuẩn bị cho cạnh tranh quốc tế.

2.3.3 Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA)

Thị trường EU là một cơ hội lớn cho ngành thủy sản và thương mại Việt Nam Trong nhiều năm qua, EU luôn duy trì vị trí là một trong những thị trường quan trọng nhất cho sản phẩm thủy sản Việt Nam.

Trong 11 tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đạt 45,1 tỷ USD, chiếm 9,2% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam Xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 31,9 tỷ USD, trong khi nhập khẩu là 13,2 tỷ USD Đặc biệt, trị giá xuất khẩu sang EU là 36,41 tỷ USD, thể hiện sự phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn do đại dịch COVID-19 EU hiện là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn thứ ba của Việt Nam, chiếm 11,4% tổng thị phần xuất khẩu thủy sản Hiệp định EVFTA đã tạo động lực lớn cho Việt Nam gia nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị thương mại với EU, giúp các doanh nghiệp, đặc biệt trong ngành hải sản, tận dụng cơ hội xuất khẩu và đạt được lợi ích đáng kể.

Hiệp định EVFTA quy định rằng 220 mặt hàng thủy sản của Việt Nam sẽ được giảm thuế suất từ 0-22% xuống 0% Các sản phẩm chế biến như bạch tuộc, hàu, mực và bào ngư cũng sẽ được giảm thuế ngay về mức 0% Đối với cá ngừ đóng hộp và cá viên, hạn ngạch mới là 11.500 tấn và 500 tấn Các mặt hàng đông lạnh như mực và bạch tuộc sẽ giảm thuế từ 6-8% xuống 0% Các sản phẩm thủy sản khác như surimi, cá cờ kiếm, tôm sú và tôm chân trắng cũng được hưởng mức thuế 0% Một số sản phẩm tôm sẽ có lộ trình giảm thuế từ 7% xuống 0% trong 3 năm, trong khi thăn cá ngừ đông lạnh và cá hun khói có lộ trình 7 năm Bên cạnh ưu đãi thuế quan, EVFTA còn mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị thủy sản EU thông qua các quy tắc và hướng dẫn cụ thể.

EU đặt ra 51 yêu cầu hàng hóa nhập khẩu, bao gồm quy tắc xuất xứ, hải quan, SPS, TBT, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư, phòng vệ thương mại và cạnh tranh Hiệp định EVFTA đã đưa ra nhiều gợi ý giúp Việt Nam hoàn thiện khung pháp lý và thể chế kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai bên phát triển, từ đó khuyến khích đầu tư nước ngoài và tạo thêm việc làm, góp phần vào tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, việc tận dụng tối đa cơ hội từ EVFTA cũng gặp không ít khó khăn, tương tự như CPTPP, do các quy định khắt khe về xuất xứ, hải quan và an toàn thực phẩm Doanh nghiệp thủy sản Việt Nam đang gặp lúng túng trong việc đáp ứng các yêu cầu này, đặc biệt là về an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn kỹ thuật.

Doanh nghiệp (DN) cần đầu tư lớn về vốn, nguồn nhân lực và kiến thức để giải quyết những vấn đề khó khăn trong thời gian ngắn Tuy nhiên, với chuỗi giá trị trong nước còn rời rạc và mối liên kết giữa chính phủ và DN còn lỏng lẻo, việc hưởng lợi từ hiệp định hiện tại gặp nhiều thách thức Dù vậy, cơ hội tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu đang tạo ra sức ép buộc chính quyền và DN Việt Nam phải nỗ lực cải cách và thay đổi để cạnh tranh với các đối thủ mạnh như Ấn Độ và Trung Quốc.

2.3.4 Một số hiệp định khác

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM

Việt Nam hiện đang đứng trong Top 4 quốc gia hàng đầu thế giới về thủy sản, với nhiều sản phẩm giá trị cao như tôm, cá tra và cá ngừ, tạo nên thương hiệu thủy sản Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu Ngành thủy sản cũng đã nhanh chóng lọt vào Top 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, hứa hẹn sẽ trở thành một trong những niềm tự hào lớn nhất của đất nước trên bản đồ thế giới.

Từ năm 1981, ngành khai thác thủy sản đã có nhiều đổi mới quan trọng, chuyển từ hình thức đánh bắt nhỏ lẻ gần bờ sang khai thác quy mô lớn và đánh bắt xa bờ Ngành cũng đã chuyển đổi từ phương thức thủ công sang sử dụng tàu cá hiện đại, áp dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao hiệu quả khai thác Những thay đổi này đã mang lại thành quả tích cực cho ngành thủy sản trong nhiều năm qua.

Trong những năm gần đây, sản lượng khai thác hải sản đã liên tục tăng, đạt kỷ lục 3,85 tỷ tấn vào năm 2020 với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 6% Việc chuyển đổi sang mô hình đánh bắt xa bờ đã nâng cao giá trị của ngành thủy sản khai thác, đặc biệt là các mặt hàng có giá trị cao như cá hồi, mực, bạch tuộc, cá thu và cá ngừ.

Theo VASEP, nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam đã phát triển hơn 30 năm với tốc độ sản lượng tăng gấp 4 lần so với diện tích Hiện tại, tổng diện tích nuôi trồng hải sản đạt 1,3 triệu ha và 10 triệu m3 nuôi lồng, trong đó diện tích nuôi mặn lợ là 7,5 triệu m3 và nuôi nước ngọt là 2,5 triệu m3, với tổng sản lượng đạt 4,56 triệu tấn Sản lượng tôm nuôi chiếm 950 nghìn tấn, bao gồm 267,7 nghìn tấn tôm sú và 632,3 nghìn tấn tôm chân trắng Sản lượng cá tra cũng ấn tượng với gần 1,7 triệu tấn Về nuôi biển, năm 2020, cả nước có 260 nghìn ha với sản lượng hơn 600 nghìn tấn, trong đó nuôi cá biển đạt 8,7 nghìn ha, sản lượng 38 nghìn tấn; nuôi nhuyễn thể 54,5 nghìn ha, 375 nghìn tấn; tôm hùm 3,7 triệu m3, 2,1 nghìn tấn; và rong biển hơn 10 nghìn ha, 120 nghìn tấn Tại ĐBSCL, có khoảng 120 cơ sở sản xuất giống cá tra, với gần 4 nghìn ha nuôi giống và sản xuất trung bình 2 tỷ cá tra giống mỗi năm.

Ngành chế biến thủy hải sản Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng nhờ ứng dụng khoa học, công nghệ và nâng cao kỹ thuật chế biến Hiện có 630 cơ sở chế biến xuất khẩu thủy sản đạt chứng nhận ATTP, đủ điều kiện gia nhập các thị trường khó tính Hơn 600 nhà máy chế biến quy mô công nghiệp với công suất trung bình 3 triệu tấn mỗi năm, trong đó có 1,3 nghìn cơ sở đã đăng ký, với hơn 300 nhà máy tập trung tại ĐBSCL Khu vực này đã hình thành các công ty lớn như tập đoàn thủy sản Minh Phú, Hùng Vương, và Nam Việt, nhờ đầu tư công nghệ cao và trình độ chuyên môn cao, đã nâng tầm giá trị và thương hiệu thủy sản Việt Nam.

Ngành thương mại và xuất khẩu thủy sản đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, vì vậy chính phủ đã thực hiện nhiều cải cách về pháp luật và chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển Những nỗ lực trong hoạt động đối ngoại đã giúp Việt Nam ký kết nhiều hiệp định thương mại quan trọng như EVFTA và CPTPP Nhờ đó, Việt Nam đã xuất khẩu thủy sản sang hơn 160 quốc gia, với 10 thị trường lớn nhất bao gồm Mỹ, EU, Nhật Bản, và Trung Quốc Sản lượng xuất khẩu liên tục tăng, đạt kỷ lục 8,8 tỷ USD vào năm 2018 Dù chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, giá trị xuất khẩu thủy sản năm 2020 vẫn đạt 8,5 tỷ USD, cho thấy Việt Nam là một trong số ít quốc gia trong khu vực có tăng trưởng xuất khẩu dương trong bối cảnh khó khăn.

Ngành thủy sản Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn và nâng cao hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế Tuy nhiên, chuỗi giá trị thủy sản vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức Để phát triển bền vững, cần sự hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp và các cấp chính quyền trong toàn bộ chuỗi giá trị.

2.4.2 Những hạn chế trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ngành thủy sản Việt Nam a) Hoạt động nuôi trồng

Trong những năm gần đây, ngành nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ, nhưng vẫn còn gặp nhiều hạn chế khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu Năng lực tiếp cận thị trường nước ngoài của nông dân, ngư dân và doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém, chưa nắm bắt được xu hướng tiêu dùng hiện tại Đặc biệt, người nông dân thường dựa vào tập quán và những tính toán chủ quan, dẫn đến khả năng đáp ứng yêu cầu của các thị trường quốc tế rất thấp.

Thị trường lớn như 55 đòi hỏi chất lượng thủy sản rất cao, bao gồm tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm, yêu cầu về môi trường và quy tắc truy xuất nguồn gốc xuất xứ Hoạt động đánh bắt thủy sản cần tuân thủ những yêu cầu khắt khe này để đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn.

Hoạt động khai thác thủy sản tại Việt Nam hiện còn nhiều yếu kém, với quy mô nhỏ lẻ và thiếu quy hoạch chiến lược Mặc dù có nhiều nghiên cứu hỗ trợ cho việc khai thác bền vững, việc áp dụng vào thực tiễn vẫn hạn chế do thiếu thông tin và kiến thức tại địa phương Điều này dẫn đến sản lượng và chất lượng khai thác không ổn định Quản lý hoạt động đánh bắt cũng còn kém, với nhiều tàu cá chưa có giấy phép và thiếu thiết bị giám sát Hệ quả là tình trạng khai thác trái phép diễn ra tại vùng biển của các quốc gia khác, ảnh hưởng tiêu cực đến chuỗi giá trị thủy sản Việt Nam Hiện tại, EU vẫn cảnh cáo “thẻ vàng” đối với thủy sản Việt Nam do vi phạm quy định IUU, cùng với các động thái tiêu cực từ nhiều thị trường lớn khác.

Các khâu thu gom và nhập khẩu thủy sản hiện nay vẫn chưa hoàn chỉnh và thiếu bền vững, với quá nhiều trung gian tham gia trong quá trình thu gom, dẫn đến hiệu quả kém Thủy sản sau khi nuôi trồng và khai thác chủ yếu được nông dân và ngư dân bán cho các thương lái và đại lý thu mua Tuy nhiên, trước khi đến được các nhà máy chế biến, thủy sản phải trải qua nhiều giao dịch giữa các thương lái, điều này không chỉ làm tăng chi phí mà còn giảm chất lượng của sản phẩm do đặc tính tươi sống của thủy sản.

56 d) Hoạt động chế biến, sản xuất

Hoạt động chế biến và sản xuất thủy sản tại Việt Nam vẫn còn đơn giản, chủ yếu tập trung vào các sản phẩm sơ chế, làm nguyên liệu cho thị trường khác Điều này dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp cho các mặt hàng thủy sản xuất khẩu và khó khăn trong việc thâm nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Hoạt động phân phối là khâu cuối cùng trong chuỗi giá trị ngành thủy sản, nhưng lại là lĩnh vực mà các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều hạn chế Hầu hết sản phẩm thủy sản xuất khẩu không mang thương hiệu Việt, mà chủ yếu là thương hiệu của các nhà phân phối nước ngoài, do sản phẩm thường được xuất khẩu dưới dạng sơ chế và không phù hợp với nhu cầu thị trường quốc tế Sự thiếu hiểu biết về hành vi tiêu dùng nước ngoài khiến hình ảnh thủy sản Việt Nam trở nên kém hấp dẫn Do đó, thủy sản Việt phụ thuộc vào thương hiệu của các nhà bán lẻ nước ngoài, dẫn đến việc bị ép giá và gặp khó khăn khi cạnh tranh với các đối thủ lớn như Trung Quốc và Ấn Độ Ngoài ra, các sản phẩm chế biến sâu như cá viên hay sản phẩm đóng hộp cũng thường xuyên bị đánh cắp thương hiệu do doanh nghiệp không kịp thời đăng ký quyền sở hữu trí tuệ tại thị trường mục tiêu.

Thương hiệu là một thách thức lớn không chỉ trong ngành thủy sản mà còn ở nhiều mặt hàng xuất khẩu khác Việc tập trung vào khai thác, nuôi trồng, sản xuất và chế biến mà không cải thiện khâu phân phối và hình ảnh thương hiệu xuất khẩu sẽ làm giảm động lực phát triển của người lao động, doanh nghiệp và toàn ngành thủy sản, do những giá trị đạt được không đáp ứng được kỳ vọng.

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam sở hữu nhiều tiềm năng và cơ hội để gia nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành thủy sản, nhờ vào nguồn lực tự nhiên phong phú và các Hiệp định thương mại có lợi Những thành tựu đạt được cho thấy nỗ lực của chính quyền và các thành phần trong chuỗi giá trị, tuy nhiên, ngành thủy sản vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục để phát huy hết tiềm năng.

GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THAM GIA VÀO CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM

Ngày đăng: 07/04/2022, 12:41

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Trong mô hình, chuỗi giá trị được bắt đầu từ các giá trị đầu vào, thông qua kết nối và chuyển đổi đưa đến giá trị cuối cùng cho khách hàng - 256 giải pháp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cho ngành thủy sản việt nam
rong mô hình, chuỗi giá trị được bắt đầu từ các giá trị đầu vào, thông qua kết nối và chuyển đổi đưa đến giá trị cuối cùng cho khách hàng (Trang 21)
Sơ đồ 1.4. Mô hình đường cong nụ cười - 256 giải pháp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cho ngành thủy sản việt nam
Sơ đồ 1.4. Mô hình đường cong nụ cười (Trang 26)
Sơ đồ 1.5. Mô hình CBTS - 256 giải pháp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cho ngành thủy sản việt nam
Sơ đồ 1.5. Mô hình CBTS (Trang 36)
Bảng 2.1. Số lượng tàu cá tại Việt Nam năm 2020 - 256 giải pháp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cho ngành thủy sản việt nam
Bảng 2.1. Số lượng tàu cá tại Việt Nam năm 2020 (Trang 50)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w