1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Phát triển tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính việt nam,khoá luận tốt nghiệp

78 6 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phát Triển Tổ Chức Định Mức Tín Nhiệm Trên Thị Trường Tài Chính Việt Nam
Tác giả Trần Thị Hiền Anh
Người hướng dẫn TS. Trần Thị Xuân Anh
Trường học Học viện Ngân hàng
Chuyên ngành Tài chính
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2019
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 78
Dung lượng 591,13 KB

Cấu trúc

  • LỜI CAM ĐOAN

  • LỜI CẢM ƠN

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • 1.1.3. Tổng quan các tổ chức định mức tín nhiệm châu Á

  • 1.1.4. Phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm

  • 1.2.1. Nghiên cứu trong nước

  • 1.2.1. Nghiên cứu nước ngoài

  • 1.2.3. Khoảng trống trong các nghiên cứu và định hướng nghiên cứu

  • 2.1.1. Phương pháp tư duy khoa học

  • 2.1.2. Phương pháp phân tích số liệu

  • 2.2. DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

  • 3.1.1. Khung pháp lý về hoạt động định mức tín nhiệm tại Việt Nam

  • 3.1.2. Đồng bộ hóa các quy định pháp luật về hoạt động định mức tín nhiệm

  • 3.2.1. Tổng quan các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam

  • 3.2.2. Đánh giá sự phát triển của các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam

  • 4.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM TẠI VIỆT NAM

  • 4.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ cho hoạt động định mức tín nhiệm

  • 4.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức định mức tín nhiệm

  • 4.2.3. Hình thành thói quen sử dụng định mức tín nhiệm

  • KẾT LUẬN

  • b. Tài liệu Tiếng Anh

  • 1. Các tổ chức định mức tín nhiệm nội địa khu vực ASEAN +3

  • 2. Các tổ chức định mức tín nhiệm khu vực ASEAN

  • CreditNews

  • CreditNews

  • CreditNews

  • CreditNews

    • NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

    • 1. Báo cáo kết quả đánh giá tín nhiệm của Công ty Sài Gòn Phát Thịnh Rating

    • 2. Báo cáo kết quả đánh giá tín nhiệm của TRIS (Thái Lan)

Nội dung

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.1 Định mức tín nhiệm doanh nghiệp

1.1.1.1 Định nghĩa định mức tín nhiệm Định mức tín nhiệm (ĐMTN) hay tiếng anh gọi là “credit rating” có nhiều cách gọi và dịch khác nhau như là “xếp hạng tín nhiệm”, “định hạng tín nhiệm”, “xếp hạng tín dụng”, “xếp loại tín dụng”, “phân loại tín dụng”, Qua quá trính nghiên cứu, mỗi tổ chức, mỗi nhà kinh tế lại đưa ra một khái niệm khác nhau về ĐMTN cho riêng mình nhưng đa phần đều thể hiện được bản chất và nội dung cơ bản của ĐMTN.

Theo Merrill Lynch (2002), định mức tín nhiệm (ĐMTN) là quá trình đánh giá hiện tại của tổ chức ĐMTN về chất lượng tín dụng của nhà phát hành chứng khoán đối với một khoản nợ cụ thể Điều này có thể được hiểu như việc đánh giá khả năng trả nợ trong tương lai của tổ chức phát hành chứng khoán.

Theo Trần Đắc Sinh trong cuốn “Định mức tín nhiệm tại Việt Nam” (2002):

Xếp hạng tín dụng là quá trình đánh giá mức độ tín nhiệm của nhà phát hành đối với các trách nhiệm tài chính, đồng thời xác định mức độ rủi ro liên quan đến các loại hình đầu tư khác nhau Những hình thức đầu tư này bao gồm chứng khoán như trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi, giấy nhận nợ, cũng như các công cụ cho vay như khoản vay và gửi tiền tại ngân hàng, và thương phiếu.

Theo Standard and Poor’s (2017), xếp hạng tín dụng phát hành là một đánh giá về uy tín tổng thể của bên có nghĩa vụ Đánh giá này chủ yếu tập trung vào khả năng và sự sẵn sàng của bên đó trong việc thanh toán đầy đủ và đúng hạn các nghĩa vụ tài chính.

Theo Moody's (2019), xếp hạng tín dụng là đánh giá về chất lượng tín dụng và khả năng thanh toán nợ của một nghĩa vụ nợ hoặc chủ thể phát hành, dựa trên phân tích tín dụng cơ bản, và được thể hiện qua hệ thống ký hiệu từ Aaa đến C.

Định mức tín khoán nợ hoặc các chứng khoán nợ khác của một nhà phát hành được hiểu là mức độ tín nhiệm của họ trong suốt thời gian tồn tại của chứng khoán, dựa trên một hệ thống đánh giá xác định.

Khái niệm định mức tín nhiệm đã được mở rộng, với các tổ chức định mức tín nhiệm tiến hành đánh giá khả năng trả nợ của nhà phát hành định kỳ và trước mỗi đợt phát hành Phương pháp phân tích và đánh giá khả năng trả nợ cũng đã được cải thiện, cho phép định mức tín nhiệm không chỉ phản ánh khả năng trả nợ mà còn cung cấp cái nhìn tổng quát về tình hình và triển vọng phát triển của nhà phát hành Điều này bao gồm cả các chứng khoán nợ và chứng khoán vốn, giúp nhà đầu tư hiểu rõ hơn về sức khỏe tài chính và tiềm năng tăng trưởng của các nhà phát hành.

Ngoài ra, theo Nguyễn Trọng Hòa (2010) có sự khác biệt giữa hai khái niệm

Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp là đánh giá khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp, trong khi xếp hạng tín nhiệm phản ánh tổng quan các yếu tố nội tại và ngoại tại như môi trường kinh doanh, sản phẩm, thị trường, quản trị và tình hình tài chính Mặc dù sự phân biệt giữa hai thuật ngữ này không hoàn toàn rõ ràng và không có định nghĩa chính xác cho "credit rating", tác giả sẽ sử dụng "định mức tín nhiệm" để chỉ thuật ngữ này trong phạm vi bài viết.

Cơ chế tài trợ vốn có hai loại chính: gián tiếp và trực tiếp Cơ chế gián tiếp huy động và phân bổ vốn thông qua các trung gian tài chính, chủ yếu là ngân hàng, trong khi cơ chế trực tiếp liên quan đến việc mua bán chứng khoán giữa người tiết kiệm và nhà đầu tư trên thị trường Tại các quốc gia phát triển như Mỹ và Anh, hệ thống tài chính chủ yếu dựa vào thị trường chứng khoán để cung cấp vốn cho doanh nghiệp Ngược lại, một số quốc gia châu Á sử dụng hệ thống ngân hàng để hỗ trợ tài chính Trong đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc xếp hạng tín nhiệm các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại, còn trên thị trường chứng khoán, việc xếp hạng tín nhiệm của các tổ chức phát hành trái phiếu đối với doanh nghiệp cũng rất quan trọng Nghiên cứu này tập trung vào hoạt động phát hành trái phiếu của các tổ chức phát hành trái phiếu đối với doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán.

1.1.1.2 Ý nghĩa của định mức tín nhiệm Đối với nhà đầu tư: ĐMTN giúp xác định trước mức độ rủi ro khi đầu tư vào doanh nghiệp cũng như khả năng và trách nhiệm khi có rủi ro của ban điều hành doanh nghiệp, từ đó nhà đầu tư có thể yêu cầu lợi suất sinh lời phù hợp Các thông tin nhà đầu tư tự thu thập thông thường sẽ không đầy đủ và đa dạng như của các TCĐMTN cung cấp Nếu điểm số tín nhiệm của DN thấp đồng nghĩa với khả năng gặp rủi ro cao, nhà đầu tư sẽ yêu cầu lãi suất sinh lời cao hơn hoặc sẽ có các phương án dự phòng rủi ro thích hợp hoặc thậm chí ra quyết định không đầu tư vào DN này (Hoàng Như Trung,

Đối với các nhà đầu tư tổ chức, kết quả đánh giá mức độ tín nhiệm (ĐMTN) không chỉ là nguồn tham khảo chất lượng mà còn hỗ trợ trong việc ra quyết định đầu tư (Thu Tâm, 2007) Các cơ quan quản lý nhà nước sử dụng định mức tín nhiệm như công cụ giám sát thị trường tài chính, nhằm giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư và hệ thống (Hoàng Như Trung, 2008) Đối với tổ chức phát hành, kết quả ĐMTN từ tổ chức uy tín là yếu tố quan trọng để vay vốn, không chỉ từ ngân hàng mà còn trên thị trường chứng khoán Kết quả ĐMTN tốt giúp nâng cao hình ảnh doanh nghiệp, từ đó thu hút nhà đầu tư và giảm chi phí huy động vốn (Thu Tâm, 2007).

Xếp hạng tín nhiệm chỉ phản ánh ý kiến dựa trên các yếu tố rủi ro mà không phải là khuyến nghị mua, bán hoặc giữ lại chứng khoán Mức xếp hạng cao không nhất thiết chỉ ra rằng khoản đầu tư đó tốt hơn khoản đầu tư có xếp hạng thấp Tương tự, xếp hạng thấp không đồng nghĩa với việc không có tiềm năng từ khoản đầu tư Hệ thống xếp hạng khách quan từ các công ty định mức tín nhiệm hàng đầu cần cung cấp thông tin cần thiết để giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định hợp lý.

Kết quả xếp hạng tín dụng phản ánh mức độ tín nhiệm ở thời điểm hiện tại và quá khứ, nhưng không đảm bảo chất lượng tín dụng và rủi ro trong tương lai Điều này đặc biệt đúng khi các yếu tố về môi trường kinh tế vĩ mô hoặc mục đích của doanh nghiệp có sự thay đổi.

1.1.2 Tổ chức định mức tín nhiệm

1.1.2.1 Định nghĩa tổ chức định mức tín nhiệm

Theo Yoko Ogimoto (2005), công ty định mức tín nhiệm đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá độ tin cậy và khả năng tài chính của các pháp nhân Đây là nguồn thông tin đáng tin cậy cho các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào tài sản tài chính Để thực hiện nhiệm vụ này, công ty định mức tín nhiệm cần đảm bảo tính khách quan, độc lập, minh bạch và chuyên nghiệp.

Các tổ chức định mức tín nhiệm (CRA) cung cấp dịch vụ đánh giá rủi ro tín dụng cho các tổ chức phát hành chứng khoán và nghĩa vụ tài chính Những chứng khoán này bao gồm khoản vay cá nhân, trái phiếu, thương phiếu, cổ phiếu ưu đãi và các chứng chỉ tín dụng, tất cả đều được xem xét để xác định mức độ rủi ro tín dụng liên quan đến các khoản cho vay của ngân hàng.

1.1.2.2 Đặc điểm của tổ chức định mức tín nhiệm

NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM

Tại Việt Nam, nghiên cứu về tầm quan trọng của định mức tín nhiệm đã bắt đầu từ khi thị trường chứng khoán ra đời, với cuốn sách "Định mức tín nhiệm" của Trần Đắc Sinh xuất bản năm 2002 Tác giả đã tham khảo các mô hình tổ chức định mức tín nhiệm từ các quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản và Mỹ để đề xuất mô hình phù hợp cho Việt Nam Ông nhấn mạnh rằng thị trường chứng khoán còn non trẻ và cần gỡ bỏ các rào cản như tiêu chuẩn phát hành cứng nhắc và quy định thuế không hợp lý để thu hút niềm tin của nhà đầu tư Đồng thời, tác giả cũng kêu gọi xây dựng hệ thống pháp lý hỗ trợ cho hoạt động định mức tín nhiệm, bao gồm Luật Chứng khoán và các nghị định liên quan, đồng bộ hóa với các luật pháp khác Ông đề xuất rằng quá trình hình thành tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam nên bắt đầu dưới sự quản lý của nhà nước, sau đó phát triển thành công ty cổ phần nội bộ và cuối cùng là công ty cổ phần đại chúng, với sản phẩm dịch vụ ngày càng đa dạng hơn.

Tác giả Trần Đắc Sinh gặp hạn chế trong việc phân tích thị trường chứng khoán Việt Nam, chủ yếu dựa vào lý thuyết và các mô hình nước ngoài mà thiếu sự phân tích sâu sắc từ chính thị trường nội địa Tuy nhiên, điều này dễ hiểu khi thị trường mới chỉ ra đời chưa đầy 2 năm, nên chưa thể hiện rõ cá tính và đặc điểm riêng Điểm sáng của cuốn sách là việc tác giả đề xuất xây dựng Luật Chứng khoán và Nghị định cho ĐMTN, tạo tiền đề và tham khảo sớm cho thị trường và Nhà nước lúc bấy giờ, thể hiện tầm nhìn xa của tác giả.

Một nghiên cứu thứ hai là đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần Thị Thu

Tác giả Tâm đã xây dựng mô hình công ty định mức tín nhiệm tại Việt Nam vào năm 2007, xuất phát từ trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh Giống như Trần Đắc Sinh, Tâm nhấn mạnh rằng cần có một tổ chức định mức tín nhiệm hoạt động hiệu quả và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế tại Việt Nam.

Khác với tác giả Trần Đắc Sinh, Thu Tâm không chỉ tổng hợp lý thuyết cần thiết mà còn phân tích đặc điểm thị trường chứng khoán Việt Nam để đề xuất mô hình thành lập Trung tâm Đăng ký Giao dịch Chứng khoán (TCĐMTN) phù hợp Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuyên truyền công bố thông tin và lợi ích của dịch vụ ĐMTN đối với nhà đầu tư và doanh nghiệp.

Việc tuyên truyền về ý nghĩa và lợi ích của dịch vụ tài chính đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư là rất quan trọng cho sự tồn tại của các tổ chức tài chính Tác giả Trần Đắc Sinh đề xuất mô hình tổ chức tài chính thuộc nhà nước ở giai đoạn đầu, trong khi tác giả Thu Tâm khuyến nghị bắt đầu với công ty cổ phần độc lập trong nước và sau đó tiến tới liên doanh với nước ngoài Hơn nữa, cần thiết phải có một khung pháp luật riêng cho hoạt động tài chính nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững.

Đề tài của tác giả Thu Tâm, được thực hiện và công bố vào năm 2007, đã không còn tính cập nhật so với hiện tại, mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể kể từ năm 2002 Hiện nay, khung pháp lý về ĐMTN đã được ban hành, và thị trường cũng đã có nhiều thay đổi về quy mô và cơ cấu, khiến cho nội dung của đề tài cần được xem xét lại để phản ánh đúng tình hình hiện tại.

Trong bài báo “APEC và sự phát triển của các Tổ chức Định mức Tín nhiện ở châu Á Thái Bình Dương” (2008), giáo sư Julius Caesar Parrenas nhấn mạnh vai trò quan trọng của các Tổ chức Định mức Tín nhiện (TCĐMTN) nội địa trong sự phát triển của thị trường trái phiếu ở nhiều quốc gia châu Á Thái Bình Dương Ông chỉ ra rằng các TCĐMTN toàn cầu như Moody's, S&P, và Fitch đang hợp tác với các công ty nội địa thay vì mở văn phòng riêng, do thị trường nội địa chưa đủ lớn để yêu cầu sự hỗ trợ toàn lực từ các tổ chức này.

APEC có thể đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm (TCĐMTN) khu vực, từ đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán theo các mục tiêu mà APEC hướng tới Các tổ chức đa phương như ADB cũng góp phần quan trọng trong việc nâng cao tiêu chuẩn ngành thông qua quy trình công nhận và hỗ trợ xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế Bên cạnh đó, họ còn cung cấp tài chính và kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực và cải thiện môi trường hoạt động của các TCĐMTN.

Nghiên cứu của Muluneh Dejene từ trường đại học Addis Ababa năm 2009 về “Thực trạng, thách thức và cơ hội cho việc phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm nội địa tại Ethiopia” đã chỉ ra rằng việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm nội địa là cần thiết Tác giả đã áp dụng phương pháp khảo sát và phỏng vấn trực tiếp, đồng thời tham khảo dữ liệu từ thị trường châu Á, nơi có những điểm tương đồng với Ethiopia Kết quả cho thấy các tổ chức định mức tín nhiệm không chỉ hỗ trợ hệ thống ngân hàng mà còn phản ánh các vấn đề của thị trường chứng khoán Tuy nhiên, nghiên cứu gặp phải hạn chế do thiếu dữ liệu từ thị trường Ethiopia và chỉ khảo sát các nhà đầu tư tổ chức, không bao gồm nhà đầu tư cá nhân, dẫn đến giảm tính khách quan.

1.2.3 Khoảng trống trong các nghiên cứu và định hướng nghiên cứu Đối với vấn đề “phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam”, các đề tài nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào nghiên cứu hệ thống lý thuyết đề rút ra các bài học cho Việt Nam Số lượng các đề tài nghiên cứu không nhiều và bị ngắt quãng trong thời gian qua Đề tài nghiên cứu hoản chỉnh và đầy đủ đầu tiên phải kể đến là đề tài “Định mức tín nhiệm tại Việt Nam” của Trần Đắc Sinh năm 2002, sau đó đến giai

Kể từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời vào năm 2000, đã có nhiều thay đổi đáng kể về quy mô và cơ cấu thị trường, cùng với sự điều chỉnh trong khuôn khổ lập pháp Những thay đổi này mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trên thị trường quốc tế, đồng thời đặt ra yêu cầu và thách thức trong việc thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm Do đó, nghiên cứu đánh giá tình hình hoạt động và phát triển của các tổ chức này tại Việt Nam hiện nay là rất cần thiết, nhằm đưa ra các khuyến nghị và giải pháp phù hợp.

Mặc dù vẫn còn nhiều khoảng trống trong nghiên cứu về vấn đề này, bài viết sẽ tập trung vào một số khía cạnh chính.

Thứ nhất, hệ thống hóa được cơ sở lý luận quan trọng về định mức tín nhiệm và tổ chức định mức tín nhiệm.

Thứ hai, đánh giá sự phát triển của các tổ chức định mức tín nhiệm đã và đang tồn tại trên thị trường Việt Nam.

Thứ ba, dựa trên những tồn tại hiện tại và những định hướng thị trường trong thời gian tới để đưa ra những khuyến nghị giải pháp phù hợp.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ SỐ LIỆU SỬ DỤNG

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1.1 Phương pháp tư duy khoa học Đề tài được tiếp cận và nghiên cứu theo phương pháp tư duy khoa học quy nạp, cụ thể theo các bước như sau:

Bước đầu tiên trong việc phát triển tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam là tổng hợp các cơ sở lý thuyết quan trọng liên quan đến định mức tín nhiệm Điều này bao gồm việc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá sự phát triển của các tổ chức định mức tín nhiệm, nhằm nâng cao hiệu quả và độ tin cậy của chúng trong thị trường tài chính.

Bước 2: Nghiên cứu thực trạng hiện có về hoạt động của các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam.

Bước 3: Từ thực trạng phát triển của các tổ chức định mức tín nhiệm đưa ra đánh giá tổng hợp tình hình.

2.1.2 Phương pháp phân tích số liệu

Phương pháp đánh giá định tính sử dụng dữ liệu thu thập, đặc biệt là các thông tin định tính như chất lượng kết quả định mức tín nhiệm và mức độ hài lòng của nhà đầu tư, để tổng hợp đặc điểm và thực trạng phát triển của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.

Phương pháp tổng hợp thống kê là kỹ thuật thu thập và tổng hợp dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm trang thông tin điện tử của Tổng cục Địa chất và Tài nguyên nước, các báo cáo thị trường, cũng như các bài phân tích và nghiên cứu của nhiều tác giả Các dữ liệu này được đánh giá dựa trên các tiêu chí cụ thể nhằm đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy của thông tin.

Phương pháp so sánh được áp dụng để đánh giá thực trạng phát triển các trung tâm dữ liệu môi trường tại Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật Bản và Thái Lan Bên cạnh đó, việc so sánh giữa các trung tâm dữ liệu môi trường trong nước cũng được thực hiện nhằm làm rõ những điểm mạnh và yếu trong quá trình phát triển.

2.2 DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU Để đánh giá được sự phát triển của các tổ chức định mức tín nhiệm trên thị lượng dữ liệu thu thập được rất ít và không đầy đủ nên đề tài sử dụng thêm các dữ liệu về hoạt động ĐMTN của một số TCĐMTN châu Á để có cơ sở đánh giá các TCĐMTN tại Việt Nam.

Châu Á là thị trường gần gũi nhất với Việt Nam, do đó có ảnh hưởng nhanh chóng đến nền kinh tế và tâm lý đầu tư của người Việt Việc so sánh giữa các thị trường trong khu vực trở nên khả thi hơn nhờ vào sự tương đồng về văn hóa và tâm lý đầu tư Ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm lớn nhất thế giới, S&P, Moody’s và Fitch’s, đều có nguồn gốc từ Mỹ, nơi có thị trường tài chính phát triển mạnh mẽ và lâu đời, điều này tạo ra sự khác biệt rõ rệt so với các thị trường mới nổi như Việt Nam.

Dữ liệu nghiên cứu trong đề tài được thu thập từ trang thông tin điện tử của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm (TCĐMTN) Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một nguyên tắc quan trọng trong hoạt động kinh doanh dịch vụ định mức tín nhiệm là các TCĐMTN phải công khai và công bố tất cả thông tin liên quan đến quá trình định mức tín nhiệm trên trang thông tin điện tử của họ Bên cạnh đó, còn có một số dữ liệu khác mang tính định.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

KHUNG PHÁP LÝ CỦA VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM

3.1.1 Khung pháp lý về hoạt động định mức tín nhiệm tại Việt Nam

Trên thị trường Việt Nam hiện nay, dịch vụ đánh giá mức độ tín nhiệm (ĐMTN) được quy định bởi hai văn bản pháp luật quan trọng: Nghị định 88/2014/NĐ-CP về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm và Nghị định 151/2018/NĐ-CP, điều chỉnh và bổ sung một số điều trong Nghị định 88/2014.

Nghị định 88/2014/NĐ-CP, được ban hành vào ngày 26/09/2014, bao gồm 49 điều và được chia thành 6 chương, quy định chi tiết về việc thành lập và hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam Mục tiêu của Chính phủ và Nhà nước là đảm bảo sự minh bạch và hiệu quả trong hoạt động định mức tín nhiệm.

Một, nâng cao tính công khai, minh bạch cho thị trường chứng khoán và đặc biệt là thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Hai, phát huy vai trò huy động vốn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán và san sẻ bớt gánh nặng cho thị trường tín dụng.

Hình thức Nghị định cho văn bản pháp lý là phù hợp với thị trường định mức tín nhiệm mới mẻ tại Việt Nam Trong tương lai, có thể xuất hiện nhiều mối quan hệ phức tạp mà các nhà lập pháp hiện tại chưa lường trước được Việc ban hành Luật sẽ khó khăn trong việc sửa đổi và bổ sung sau này, trong khi Nghị định vừa đủ mạnh mẽ để tác động lên thị trường và có khả năng điều chỉnh linh hoạt trong tương lai.

Một số điểm nổi bật của Nghị định phải kể đến như sau:

Để được cấp “Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh”, doanh nghiệp cần là công ty TNHH, công ty cổ phần hoặc công ty hợp danh với vốn điều lệ tối thiểu 15 tỷ đồng Các tổ chức, cá nhân sở hữu trên 5% vốn điều lệ phải tham gia nắm giữ tại tổ chức đầu tư mạo hiểm khác tại Việt Nam, hoặc nắm giữ dưới 5% Bên cạnh đó, Nghị định quy định rằng các tổ chức, cá nhân không được sử dụng vốn ngân sách nhà nước để góp vốn thành lập doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, nhằm hạn chế sự can thiệp của Nhà nước và tăng tính độc lập cho các tổ chức đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.

Quy tắc chuẩn mực đạo đức (Code of conduct) là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam, theo Nghị định quy định rằng họ phải ban hành và công bố bộ quy tắc này dựa trên chuẩn mực của Ủy ban Chứng khoán quốc tế (IOSCO) trên trang thông tin điện tử của doanh nghiệp Ra đời vào năm 2004, chuẩn mực IOSCO được nhiều tổ chức xếp hạng tín nhiệm toàn cầu, như Moody và S&P, áp dụng trước khi hai công ty này tự ban hành quy tắc riêng vào đầu năm 2006 Việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế giúp các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đảm bảo chất lượng và tính liêm chính trong quá trình đánh giá, duy trì tính độc lập, tránh xung đột lợi ích và nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của họ.

Theo Nghị định 88/2014, doanh nghiệp (DN) phải công khai kết quả ĐMTN trên trang thông tin điện tử trong vòng 24 giờ sau khi có kết quả, kèm theo chữ ký của người đại diện pháp luật DN cũng cần định kỳ công bố số liệu về xếp hạng tín nhiệm và tỷ lệ thực hiện nghĩa vụ nợ trong vòng 6 tháng Việc công khai này là bắt buộc, không phải thỏa thuận giữa tổ chức xếp hạng tín nhiệm (TCĐMTN) và DN Tuy nhiên, điều này có thể gây khó khăn cho DN, vì nếu TCĐMTN thu phí và kết quả không tốt, DN có thể không muốn công khai Nếu TCĐMTN tuân thủ quy định, điều này có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ với DN phát hành, trong khi các hoạt động xếp hạng tín dụng cho ngân hàng và tổ chức tín dụng sẽ được quy định bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong một văn bản pháp luật khác.

3.1.2 Đồng bộ hóa các quy định pháp luật về hoạt động định mức tín nhiệm Để tạo một khung pháp lý hoàn chỉnh cho việc hình thành cũng như hoạt động hiệu quả của các TCĐMTN nội địa, thì một văn bản điều chỉnh các quan hệ phát sinh trực tiếp là chưa đủ, cần phải có sự đồng bộ hóa với các quy định pháp luật khác có liên quan. Đầu tiên, đó là Luật chứng khoán Luật Chứng khoán được ban hành vào năm

Vào năm 2006, chưa tồn tại các quy định về định mức tín nhiệm doanh nghiệp, và lần sửa đổi gần nhất vào năm 2010 cũng không đề cập đến vấn đề này.

Tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội khóa XIV vào năm 2019, bản dự thảo sửa đổi Luật Chứng khoán đã chính thức đề cập đến hoạt động chào bán trái phiếu ra công chúng Một trong những điều kiện quan trọng để thực hiện việc này là tổ chức phát hành phải có kết quả xếp hạng tín nhiệm.

Mặc dù chỉ là dự thảo chưa được phê duyệt, nhưng đây là tín hiệu cảnh báo cho thị trường trong tương lai Các đơn vị phát hành cần xem xét lại tình hình doanh nghiệp và nâng cao kiến thức về định mức tín nhiệm để tuân thủ quy định Đồng thời, thị trường và Nhà nước cũng cần chuẩn bị nguồn lực để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp.

Hiện nay, nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động ĐMTN như kế toán, kiểm toán, thuế cho TCĐMTN và ưu đãi thuế cho doanh nghiệp có xếp hạng tín nhiệm vẫn chưa được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật Việt Nam Bên cạnh đó, các quy định về tố tụng khi xảy ra tranh chấp từ hoạt động ĐMTN cũng còn thiếu sót, gây khó khăn cho việc thực hiện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Việt Nam hiện chỉ có 4 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thông tin tín nhiệm và định mức tín nhiệm.

- Trung tâm Thông tin tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước (CIC);

- Công ty Thông tin tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp (C&R);

- Trung tâm đánh giá tín nhiệm Vietnamnet (CRV);

- Công ty Sài Gòn Phát Thịnh Rating (PTR).

Hoạt động của các công ty này trong thời gian gần đây cần được xem xét kỹ lưỡng để đánh giá xem họ có thực sự là những tổ chức chứng khoán đáng tin cậy hay không.

3.2.1.1 Trung tâm Thông tin tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước (CIC)

Trung tâm Thông tin Tín dụng (CIC) được thành lập vào năm 1999 theo Quyết định 68/1999/QĐ-NHNN, trước khi thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời Là đơn vị trực thuộc Vụ Tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, CIC đã bắt đầu triển khai thí điểm phân tích và xếp hạng tín dụng doanh nghiệp theo Quyết định 57/2002/QĐ-NHNN Chức năng chính của CIC là thu thập và tổng hợp thông tin liên quan đến doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, từ đó đưa ra đánh giá và dự báo cho Ngân hàng Nhà nước, cũng như cung cấp dịch vụ xếp hạng doanh nghiệp theo yêu cầu.

Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp là sản phẩm quan trọng mà CIC cung cấp, dựa trên các chỉ tiêu như hồ sơ pháp lý, chỉ tiêu tài chính cơ bản, chỉ số xếp hạng và xác suất vỡ nợ trong 12 tháng Phương pháp xếp hạng của CIC chủ yếu mang tính định lượng và chưa xem xét các yếu tố định tính Hơn nữa, CIC tập trung vào việc đánh giá lịch sử vay vốn mà không đánh giá khả năng cạnh tranh và tiềm năng của doanh nghiệp Điều này tạo nên sự khác biệt giữa "xếp hạng tín dụng" của CIC và "xếp hạng tín nhiệm" của CRV.

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM TẠI VIỆT NAM

MỨC TÍN NHIỆM TẠI VIỆT NAM

4.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ cho hoạt động định mức tín nhiệm

Trong những năm gần đây, việc xây dựng khung pháp lý cho hoạt động định mức tín nhiệm đã được chú trọng, đặc biệt là Nghị định 88/2014 về dịch vụ định mức tín nhiệm, tạo nền tảng cho tổ chức định mức tín nhiệm đầu tiên Tuy nhiên, hệ thống pháp lý vẫn còn tồn tại nhiều lỗ hổng và tiến độ hoàn thiện còn chậm Để khắc phục tình trạng này, cần triển khai các giải pháp phù hợp.

Cần ban hành lộ trình cụ thể để tiến tới việc bắt buộc định mức tín nhiệm trong phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán, với một mốc thời gian rõ ràng để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả cho nhà đầu tư.

Sửa đổi Nghị định 88/2014 về dịch vụ định mức tín nhiệm nhằm quy định chặt chẽ hơn cho các tổ chức định mức tín nhiệm (TCĐMTN) là cần thiết Các TCĐMTN phải cung cấp báo cáo định mức tín nhiệm chi tiết và rõ ràng về lý do đánh giá Cần có cổ đông chuyên môn hoặc nâng cao tiêu chuẩn cho nhân viên phân tích và hội đồng phân tích để đảm bảo chất lượng hoạt động Đồng thời, ưu tiên cấp giấy phép cho các TCĐMTN hợp tác với các tổ chức uy tín nước ngoài Việc thắt chặt quy định thành lập sẽ giúp hoạt động định mức tín nhiệm trên thị trường được kiểm soát, đảm bảo số lượng TCĐMTN nội địa phù hợp và hoạt động hiệu quả.

Vào thứ ba, chính phủ sẽ ban hành các chính sách thuế ưu đãi dành cho các tổ chức cung cấp dịch vụ tín nhiệm mới thành lập và các doanh nghiệp, đồng thời áp dụng cho các công ty có chất lượng định mức tín nhiệm cao trong các đợt huy động vốn Ngoài ra, sẽ có các chính sách khuyến khích khác nhằm thúc đẩy hoạt động định mức tín nhiệm.

Cần xây dựng luật tố tụng cho hoạt động định mức tín nhiệm trong trường hợp xảy ra tranh chấp, do tính phức tạp của nó trên thị trường tài chính Các tranh chấp thường phát sinh từ xung đột lợi ích và mâu thuẫn ý kiến chuyên môn, ảnh hưởng đến việc phát hành chứng khoán Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng kinh tế 2007-2008 cho thấy sự tham gia của các tổ chức định mức tín nhiệm đã chỉ ra sự cần thiết của các quy định pháp luật chặt chẽ nhằm bảo vệ lợi ích của nhà phát hành, nhà đầu tư, cơ quan nhà nước và các tổ chức định mức tín nhiệm.

Vào thứ năm, việc theo dõi và giám sát của cơ quan nhà nước đối với các tổ chức chứng nhận độc lập môi trường là rất cần thiết để đảm bảo các tổ chức này hoạt động đúng theo quy định pháp luật Điều này cũng nhằm bảo đảm các nguyên tắc cơ bản như độc lập, khách quan và minh bạch trong quá trình hoạt động.

4.2.2 Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức định mức tín nhiệm

Nguyên nhân chính khiến hoạt động của các tổ chức tín dụng đầu tư trên thị trường chưa hiệu quả là do thiếu uy tín và năng lực chuyên môn Mặc dù thị trường đầu tư đã phát triển hơn 20 năm, sự tham gia của các cổ đông lớn như S&P, Moody và Fitch là rất cần thiết để nâng cao độ tin cậy Đặc biệt, tại Việt Nam, sự hỗ trợ từ các tên tuổi lớn trong khu vực hoặc quốc tế không chỉ giúp cải thiện chuyên môn mà còn tăng cường uy tín của các tổ chức tín dụng đầu tư trong mắt nhà đầu tư và nhà phát hành.

Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyên môn, bao gồm cả lý thuyết và thực tiễn, là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động ĐMTN Đồng thời, việc hợp tác với các tổ chức khác cũng góp phần thúc đẩy hiệu quả trong quá trình này.

Việc nâng cao nguồn nhân lực nội bộ tại các TCĐMTN có uy tín là rất quan trọng, bởi nhân sự có trình độ cao không chỉ tiếp thu kiến thức chuyên môn từ các TCĐMTN nước ngoài mà còn áp dụng hiệu quả vào thị trường Việt Nam Mỗi thị trường có những đặc điểm và phản ứng khác nhau, do đó không thể áp dụng một cách đồng nhất Hơn nữa, các chuyên gia và nhân sự phân tích cần có kiến thức đa dạng không chỉ về lĩnh vực chứng khoán mà còn về nhiều lĩnh vực khác để đánh giá chính xác các tổ chức phát hành trong các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau.

Trong quá trình phát triển, các tổ chức tín dụng vi mô (TCĐMTN) nên tập trung vào các sản phẩm cốt lõi trước khi mở rộng sang các sản phẩm bổ sung Việc ưu tiên phát triển các dịch vụ đào tạo và tư vấn, như C&R hay CRV, có thể dẫn đến việc mất đi bản chất của TCĐMTN Do đó, các TCĐMTN tại Việt Nam cần xây dựng một lộ trình phát triển sản phẩm rõ ràng ngay từ đầu để đảm bảo chất lượng cho mọi sản phẩm và dịch vụ.

Thứ tư, bản thân các TCĐMTN phải tôn trọng các nguyên tắc khi hoạt động là

Để đảm bảo tính độc lập, khách quan, minh bạch và tuân thủ pháp luật trong quá trình đánh giá, các tổ chức định mức tín nhiệm nước ngoài thường có lợi thế hơn so với các tổ chức nội địa Nhà đầu tư cá nhân thường dựa vào thông tin có sẵn trên thị trường như báo cáo tài chính đã kiểm toán và thông tin báo chí, nhưng những nguồn này có thể không chính xác và thiếu phân tích về khả năng thanh toán của doanh nghiệp, dẫn đến quyết định sai lầm Đối với các nhà phát hành, việc tăng chi phí cho định mức tín nhiệm không phải lúc nào cũng khả thi, trừ khi nó mang lại lợi thế trong việc huy động vốn Do đó, nâng cao nhận thức về lợi ích và giá trị của định mức tín nhiệm cho cả nhà phát hành và nhà đầu tư là rất cần thiết, đặc biệt là đối với nhà đầu tư Một số hành động cụ thể cần được thực hiện để cải thiện tình hình này.

Tăng cường tổ chức các diễn đàn và hội thảo về định mức tín nhiệm, thu hút sự tham gia của nhiều tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp và tổ chức uy tín, cùng với các tổ chức định mức tín nhiệm lớn trên thế giới và khu vực.

- Bổ sung nội dung định mức tín nhiệm trong các chương trình đào tạo chuyên môn, đào tạo đại học,

- Kết quả định mức tín nhiệm và quá trình định mức tín nhiệm được truyên thông rộng rãi trên các phương tiện truyền thông.

Nhà nước hợp tác với các quỹ đầu tư và công ty bảo hiểm uy tín để thường xuyên sử dụng kết quả định mức tín nhiệm làm tiêu chí đánh giá.

Ngày đăng: 07/04/2022, 11:25

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hinh 1. Mô hình sự phụ thuộc của thị trường định mức tín nhiệm vào thị trường trái phiếu - Phát triển tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính việt nam,khoá luận tốt nghiệp
inh 1. Mô hình sự phụ thuộc của thị trường định mức tín nhiệm vào thị trường trái phiếu (Trang 22)
Bảng 2. Thị phần các Tổ chức định mức tín nhiệm Hàn Quốc năm 2008 - Phát triển tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính việt nam,khoá luận tốt nghiệp
Bảng 2. Thị phần các Tổ chức định mức tín nhiệm Hàn Quốc năm 2008 (Trang 28)
CRABS Partner companies - Phát triển tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính việt nam,khoá luận tốt nghiệp
artner companies (Trang 28)
Nâng cao hình ảnh của TCĐMTN nói chung - Phát triển tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính việt nam,khoá luận tốt nghiệp
ng cao hình ảnh của TCĐMTN nói chung (Trang 31)
Hình 2. Khung xếp hạng tín nhiệm Tổ chức phát hành của PTR - Phát triển tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính việt nam,khoá luận tốt nghiệp
Hình 2. Khung xếp hạng tín nhiệm Tổ chức phát hành của PTR (Trang 48)
Hình 3. Quy trình xếp hạng tín nhiệm cơ bản của PTR - Phát triển tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính việt nam,khoá luận tốt nghiệp
Hình 3. Quy trình xếp hạng tín nhiệm cơ bản của PTR (Trang 48)
Hình 4. Quy trình xếp hạng tín nhiệm hàng năm của PTR - Phát triển tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính việt nam,khoá luận tốt nghiệp
Hình 4. Quy trình xếp hạng tín nhiệm hàng năm của PTR (Trang 49)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w