QUAN
Đại cương về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một tình trạng bệnh lý đặc trưng bởi sự hạn chế luồng khí không thể phục hồi hoàn toàn Tình trạng này thường tiến triển nặng dần theo thời gian, đi kèm với phản ứng viêm bất thường trong phổi do tiếp xúc với hạt bụi và khí độc hại.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một bệnh lý phổ biến, có thể được phòng ngừa và điều trị Bệnh này đặc trưng bởi các triệu chứng hô hấp và sự hạn chế dòng khí do tổn thương đường dẫn khí hoặc phế nang, thường là kết quả của việc tiếp xúc với hạt bụi và khí độc hại.
Đánh giá toàn diện BPTNMT trên lâm sàng cần đáp ứng đủ 6 mục tiêu điều trị theo Chiến lược toàn cầu về BPTNMT, bao gồm: giảm khó thở, tăng khả năng gắng sức, nâng cao chất lượng cuộc sống, làm chậm suy giảm chức năng hô hấp, ngăn ngừa đợt cấp và giảm tử vong Để thực hiện đánh giá này, các biến số chức năng hô hấp như hạn chế luồng khí, tăng kháng lực đường thở và ứ khí phế nang, cùng với các triệu chứng lâm sàng như khó thở, khả năng gắng sức, chất lượng cuộc sống và tần suất đợt cấp cần được xem xét đồng thời.
1.1.2 Thực trạng về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Theo WHO, tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) cao nhất ở các quốc gia có tỷ lệ hút thuốc cao Cụ thể, tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất ở nam giới là 2,96/1000 dân tại Bắc Phi và Trung Đông, trong khi tỷ lệ thấp nhất ở nữ giới là 1,79/1000 dân ở các quốc gia và vùng đảo châu Á Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ tử vong do BPTNMT đã tăng đều trong vài thập kỷ qua, với khảo sát quốc gia cho thấy tỷ lệ mắc bệnh đạt 8,8% ở những người trên 25 tuổi.
Tỷ lệ mắc BPTNMT ở người trưởng thành tại Châu Á hiện nay khoảng 9%, chủ yếu ở những người hút thuốc lá Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Xuyên (2010) trên 25.000 người từ 15 tuổi trở lên cho thấy tỷ lệ mắc BPTNMT toàn quốc là 2,2%, trong đó nam giới chiếm 3,4% và nữ giới 1,1% Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy bệnh nhân thường ở giai đoạn muộn, dẫn đến chi phí điều trị cao và hiệu quả thấp.
Theo nghiên cứu của Đinh Ngọc Sỹ và cộng sự, tỷ lệ bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (BPTNMT) trong cộng đồng dân cư Việt Nam từ 40 tuổi trở lên là 4,2%, với tỷ lệ mắc ở nam giới là 7,1% và ở nữ giới là 1,9% Một khảo sát tại thành phố Vinh – Nghệ An năm 2002 cho thấy tỷ lệ mắc BPTNMT trong cộng đồng là 6,42%, trong đó nữ giới chiếm 16,87% và nam giới chiếm 83,13% Nhóm tuổi có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là trên 60 tuổi, chiếm 59,81%.
Theo nghiên cứu của GOLD, tỷ lệ người bệnh BPTNMT được phát hiện thường ở giai đoạn nhẹ (giai đoạn 2) Tại Việt Nam, nghiên cứu của Trần Thị Hằng cho thấy trong số 55 bệnh nhân BPTNMT tại Bệnh viện Đa khoa Bắc Kạn, 69,1% có tiền sử hút thuốc lá và thuốc lào Hơn nữa, 65,4% bệnh nhân nhập viện ở giai đoạn III, với các triệu chứng lâm sàng như ho, khó thở và giảm rì rào phế nang xuất hiện ở 100% trường hợp Tình hình bệnh BPTNMT tại Việt Nam đang gia tăng, nhiều bệnh nhân không được chẩn đoán cho đến khi bệnh tiến triển đến giai đoạn cuối, làm cho việc điều trị trở nên khó khăn.
Tại Nam Định, theo nghiên cứu đánh giá về quản lý và điều trị ngoại trú
BPTNMT giai đoạn ổn định tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định của Nguyễn Tấn
Phong và Vũ Thị Chăm đã chỉ ra rằng người bệnh BPTNMT trên 60 tuổi chiếm 62,5%, trong đó 72,7% có tiền sử hút thuốc lá Tỷ lệ người bệnh ở giai đoạn nặng và rất nặng lên tới 76,1% Quá trình điều trị cho thấy sự cải thiện lâm sàng, với tần số trung bình các đợt kịch phát giai đoạn 2 giảm từ 0,42 xuống 0,18 và giai đoạn 3 giảm từ 0,61.
1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng bệnh ở người bệnh BPTNMT
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là kết quả của sự tác động từ hai nhóm yếu tố cơ địa và môi trường, dẫn đến quá trình viêm mạn tính ảnh hưởng đến nhiều cấu trúc trong phổi như phế quản lớn, tiểu phế quản, nhu mô phổi, tiểu phế quản hô hấp, phế nang và mạch máu phổi Hậu quả là tình trạng hạn chế lưu thông đường thở, mất cân bằng giữa thông khí và tưới máu phổi, gây ra hiện tượng căng giãn phổi quá mức và khó thở.
Bệnh không chỉ ảnh hưởng đến phổi mà còn gây ra các rối loạn toàn thân nghiêm trọng Phản ứng viêm toàn thân và các rối loạn chức năng cơ xương dẫn đến suy giảm khối lượng cơ xương và bất thường về năng lượng sinh học Những ảnh hưởng này có thể gây ra hậu quả lâm sàng nghiêm trọng, vì vậy cần đánh giá bệnh lý một cách toàn diện hơn, không chỉ dựa vào chức năng thông khí của phổi.
Các yếu tố môi trường: khói thuốc lá, thuốc lào là yếu tố quan trọng nhất
Ô nhiễm môi trường, bao gồm khói, bụi và hóa chất, cùng với nhiễm khuẩn virus và các điều kiện kinh tế xã hội, đều có thể ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của bệnh.
1.1.4 Biểu hiện của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Các triệu chứng cơ năng chủ yếu của người bệnh BPTNMT đó là: ho (thường kèm theo khạc đờm) và khó thở khi gắng sức
Ho có đờm xuất hiện ở 50% người hút thuốc, thường bắt đầu trong 10 năm đầu tiên Triệu chứng ho khạc đờm mạn tính thường xảy ra vào buổi sáng hoặc sau khi hút thuốc, và có xu hướng nặng hơn trong mùa đông cũng như sau khi nhiễm khuẩn hô hấp Ban đầu, ho có thể ngắt quãng, nhưng sau đó trở thành ho hàng ngày, kéo dài suốt cả ngày Trong giai đoạn ổn định, ho thường đi kèm với khạc đờm nhầy, với số lượng đờm thay đổi tùy theo từng bệnh nhân.
Khó thở khi gắng sức là dấu hiệu cho thấy tiên lượng bệnh tồi tệ hơn và chức năng hô hấp suy giảm Triệu chứng này thường tiến triển từ từ, khiến người bệnh tự điều chỉnh mức độ hoạt động để giảm cảm giác khó thở, dẫn đến việc phát hiện bệnh bị chậm trễ Mặc dù khó có thể xác định mối liên hệ giữa khó thở và mức độ giảm FEV1, nhưng khi FEV1 dưới 30% so với trị số lý thuyết, bệnh nhân thường gặp khó thở ngay cả với gắng sức nhẹ Mức độ khó thở khi gắng sức có thể được đánh giá dễ dàng thông qua khả năng hoạt động hàng ngày và thang đo khó thở mMRC.
Trong các giai đoạn tiến triển của bệnh, người bệnh có thể xuất hiện đau ngực, sút cân, ăn kém và suy nhược cơ thể
Khám lâm sàng bệnh nhân BPTNMT thường không thấy biểu hiện bệnh lý nếu chưa có tắc nghẽn mức độ trung bình hoặc nặng Bệnh nhân thường có nhịp thở nhanh, từ 20 lần/phút trở lên, có thể đạt trên 35 lần/phút Ở giai đoạn nặng, kiểu thở chúm môi vào cuối thì thở ra thường xuất hiện, và kiểu thở ra kéo dài trên 4 giây có liên quan đến mức độ tắc nghẽn phế quản.
Quan sát lồng ngực bất thường có thể chỉ ra các dấu hiệu của bệnh lý phổi Dấu hiệu Camplell xuất hiện ở giai đoạn nặng, khi sự căng giãn phổi gây co ngắn khí quản và giảm khoảng cách giữa sụn nhẫn và hõm ức Dấu hiệu Hoover là sự giảm bất thường đường kính lồng ngực khi hít vào, trong khi lồng ngực hình thùng được đặc trưng bởi xương ức lồi ra, làm tăng đường kính trước sau và dẫn đến biến dạng lồng ngực.
Các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến phục hồi chức năng hô hấp ở người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
ở người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên đã chứng minh hiệu quả của các kỹ thuật cải thiện thông khí và ho khạc đờm Tóm tắt tổng quan hệ thống Cochrane đã tổng hợp mười sáu nghiên cứu với 1233 bệnh nhân BPTNMT từ nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Hồng Kông, Vương quốc Anh, Châu Âu, Hoa Kỳ và Brazil trong giai đoạn 1965-2012 Các biện pháp can thiệp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân BPTNMT bao gồm yoga, bài phục hồi chức năng hô hấp sâu, thở chúm môi, thở cơ hoành, phản hồi sinh học hô hấp và vận động cơ hô hấp.
Trong 14 tập thực tế được thực hiện, các can thiệp kéo dài từ 1 đến 20 tháng, với tần suất từ một đến ba lần mỗi tuần Bài tổng quan đã chỉ ra rằng việc sử dụng bài phục hồi chức năng hô hấp giúp cải thiện triệu chứng khó thở và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân BPTNMT Sau ba tháng thực hiện yoga kết hợp với kỹ thuật thở Pranayama, có sự cải thiện đáng kể trong bài test khoảng cách 6 phút đi bộ Các chương trình phục hồi chức năng hô hấp kéo dài từ 4 đến 15 tuần cũng cho thấy sự cải thiện khả năng tập thể dục ở người BPTNMT so với nhóm không can thiệp, với kết quả tương tự trên tất cả các bài phục hồi chức năng hô hấp đã được kiểm tra.
Theo nghiên cứu của GOLD, bệnh nhân BPTNMT sẽ nhận được nhiều lợi ích từ chương trình điều trị PHCNHH Chương trình này giúp cải thiện tình trạng bệnh bằng cách giảm triệu chứng mệt mỏi và khó thở, đồng thời tăng cường khả năng vận động và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Hiệp hội phổi Australia đã thiết lập các chuẩn về phục hồi chức năng hô hấp (PHCNHH) cho bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (BPTNMT) và phát triển nhiều trung tâm dịch vụ hỗ trợ hiệu quả Hiệp hội cũng đã đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật và trang thiết bị cần thiết cho chương trình điều trị PHCNHH Những biện pháp này giúp bệnh nhân BPTNMT giảm triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống, và tăng cường hoạt động thể chất lẫn tinh thần trong cuộc sống hàng ngày.
Chế độ luyện tập thể lực và phục hồi chức năng hô hấp (PHCNHH) đóng vai trò quan trọng đối với người bệnh bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) Nếu không được thiết kế phù hợp, chế độ tập luyện có thể gây khó thở và làm người bệnh ngại vận động Nghiên cứu cho thấy, những người BPTNMT tuân thủ chế độ tập luyện và PHCNHH hợp lý có thể giảm hơn 50% tỉ lệ nhập viện do đợt cấp bệnh Lợi ích của việc tập luyện bao gồm cải thiện khả năng gắng sức, nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm triệu chứng khó thở, giảm số lần nhập viện, giảm lo âu và trầm cảm, kéo dài tuổi thọ, cải thiện sức khỏe tâm thần, giấc ngủ và tăng cảm giác ngon miệng.
Nghiên cứu của Cote và Celli [29] thực hiện năm 2005 với 116 người bệnh
Nghiên cứu được thực hiện với 15 người thuộc nhóm can thiệp và 130 người thuộc nhóm chứng, trong đó chương trình phục hồi chức năng hô hấp kéo dài 8 tuần với 24 buổi tập, bao gồm hướng dẫn thực hành, giáo dục sức khỏe và tập thể dục Kết quả đánh giá bằng chỉ số BODE cho thấy có sự cải thiện 19% sau quá trình phục hồi chức năng (p 0,05).
Nghiên cứu cho thấy phần lớn người bệnh tham gia là nam giới, với tỷ lệ 76,4% ở nhóm can thiệp và 83,6% ở nhóm chứng Tuổi trung bình của nhóm can thiệp là 72,64 ± 10,49 tuổi, trong khi nhóm chứng là 72,96 ± 8,31 tuổi, không có sự khác biệt thống kê (p > 0,05) Tỷ lệ bệnh nhân có bệnh kèm theo ở nhóm can thiệp là 49,1%, so với 45,5% ở nhóm chứng, cũng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Tỷ lệ người bệnh hút thuốc cao ở cả hai nhóm, với 72,7% ở nhóm can thiệp và 81,8% ở nhóm chứng Đặc biệt, đa số bệnh nhân đã hút thuốc từ 21 năm trở lên, với tỷ lệ 70% ở nhóm can thiệp và 62,4% ở nhóm chứng, không có sự khác biệt thống kê (p > 0,05).
3.1.2 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tình trạng hút thuốc lá
Bảng 3.2.Phân bố người bệnh theo số điếu thuốc hút
Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người bệnh hút thuốc lá trong nhóm can thiệp là 72,7%, trong khi nhóm chứng là 81,8% Tỷ lệ hút trên 20 điếu/ngày ở nhóm can thiệp là 7,3%, còn nhóm chứng là 3,6% Sự khác biệt giữa hai nhóm không đạt ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Bảng 3.3 Phân bố người bệnh theo thời gian hút thuốc
Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Trong nghiên cứu, tỷ lệ người tham gia có thời gian hút thuốc trên 20 năm trong nhóm can thiệp là 50,9%, trong khi ở nhóm chứng là 45,4% Sự khác biệt giữa hai nhóm này không đạt ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.1.3 Tình trạng khó thở của người bệnh trước can thiệp
Biểu đồ 3.1 Tình trạng khó thở của người bệnh trước can thiệp
Trong một nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân không gặp khó thở ở nhóm can thiệp là 5,5%, trong khi ở nhóm chứng chỉ là 1,8% Tỷ lệ khó thở mức độ 4 theo thang điểm mMRC ở nhóm can thiệp là 10,9%, so với 14,5% ở nhóm chứng Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai nhóm không đạt ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
50% mMRC 0 mMRC 1 mMRC 2 mMRC 3 mMRC 4
Nhóm can thiệp Nhóm chứng p = 0,65
3.2.Thực trạng thực hành phục hồi chức năng hô hấp của người bệnh BPTNMT 3.2.1 Thực hành kỹ thuật ho có kiểm soát trước can thiệp
Bảng 3.4.Thực hành kỹ thuật ho có kiểm soát trước can thiệp
Phân loại Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Trước can thiệp, tỷ lệ người bệnh thực hiện kỹ thuật ho có kiểm soát ở nhóm can thiệp đạt 83,6%, trong khi nhóm chứng là 85,5% Điểm trung bình của nhóm can thiệp là 6,09 ± 1,35, so với 5,96 ± 1,40 của nhóm chứng Sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.2.2 Thực hành kỹ thuật thở mạnh trước can thiệp
Bảng 3.5 Thực hành kỹ thuật thở mạnh trước can thiệp
Phân loại Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Trước can thiệp, tỷ lệ người bệnh thực hiện kỹ thuật thở mạnh của nhóm can thiệp là 32,7%, trong khi nhóm chứng là 30,9% Điểm trung bình mức độ thực hiện kỹ thuật thở mạnh của nhóm can thiệp là 6,29 ± 1,18 điểm, so với 6,07 ± 1,17 điểm của nhóm chứng Sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.2.3 Thưc hành kỹ thuật thở chúm môi trước can thiệp
Bảng 3.6.Thực hành kỹ thuật thở chúm môi trước can thiệp
Phân loại Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Trước can thiệp, tỷ lệ người bệnh thực hiện kỹ thuật thở chúm môi ở nhóm can thiệp là 34,6%, trong khi nhóm chứng là 27,3% Điểm trung bình mức độ thực hiện kỹ thuật thở chúm môi của nhóm can thiệp là 6,09 ± 1,35 điểm và nhóm chứng là 5,96 ± 1,40 điểm Sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
3.3.3 Thực hành kỹ thuật thở cơ hoành trước can thiệp
Bảng 3.7 Thực hành kỹ thuật thở cơ hoành trước can thiệp
Phân loại Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Trước can thiệp, tỷ lệ người bệnh thực hiện kỹ thuật thở cơ hoành ở nhóm can thiệp là 30,9% và nhóm chứng là 36,4% Điểm trung bình mức độ thực hiện kỹ thuật thở cơ hoành của nhóm can thiệp là 6,16 ± 1,15 điểm, trong khi nhóm chứng đạt 6,09 ± 1,40 điểm Sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
3.3.3 Thực hành kỹ thuật phục hồi chức năng hô hấp chung
Bảng 3.8 Thực hành kỹ thuật thở chung
Phân loại Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Trước can thiệp, tỷ lệ thực hiện kỹ thuật phục hồi chức năng hô hấp ở nhóm can thiệp là 41,8%, trong khi nhóm chứng đạt trên 40,0% Điểm trung bình mức độ thực hiện kỹ thuật thở của nhóm can thiệp là 7,20 ± 2,03 điểm, so với 7,16 ± 2,10 điểm của nhóm chứng Sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Sự thay đổi thực hành phục hồi chức năng hô hấp của người bệnh sau can thiệp
3.3.1.1 Sự thay đổi mức độ khó thở giữa hai nhóm sau can thiệp
Biểu đồ 3.2 Sự thay đổi mức độ khó thở giữa hai nhóm sau can thiệp
Sau hướng dẫn nhóm can thiệp có 12,7% người bệnh không khó thở (mMRC
0) và nhóm chứng là 3,6% Mức khó thở nhẹ ở nhóm can thiệp là 32,7% và nhóm chứng là 14,5%, với mức độ khó thở nhiều (mMRC ≥ 2) nhóm can thiệp có tỷ lệ là 54,5% và nhóm chứng là 81,8%, sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
40% mMRC 0 mMRC 1 mMRC 2 mMRC 3 mMRC 4
Nhóm can thiệp Nhóm chứng p = 0,039
3.3.1.2 Sự thay đổi thực hành phục hồi chức năng hô hấp giữa hai nhóm sau can thiệp
Bảng 3.9 Thay đổi thực hành kỹ thuật ho có kiểm soát giữa hai nhóm sau can thiệp
Phân loại Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Sau can thiệp, nhóm can thiệp đạt kết quả thực hành tốt là 58,2%, trong khi nhóm chứng chỉ đạt 30,9% Tỷ lệ thực hành kỹ thuật kém của nhóm can thiệp là 14,5%, so với 27,3% của nhóm chứng, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,015) Điểm trung bình kỹ thuật ho có kiểm soát của nhóm can thiệp là 7,91 ± 2,09, cao hơn so với 6,75 ± 1,92 của nhóm chứng, với sự khác biệt cũng có ý nghĩa thống kê (p = 0,003).
Bảng 3.10 Thay đổi thực hành kỹ thuật thở mạnh giữa hai nhóm sau can thiệp
Phân loại Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Sau can thiệp, nhóm can thiệp đạt kết quả thực hành tốt là 61,8%, trong khi nhóm chứng chỉ có 32,7% Tỷ lệ thực hành kỹ thuật kém của nhóm can thiệp là 18,2%, thấp hơn so với 30,9% của nhóm chứng, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,005) Điểm trung bình kỹ thuật thở mạnh của nhóm can thiệp là 7,85 ± 1,94.
35 với nhóm chứng là 6,71 ± 1,89 điểm, sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (p = 0,003)
Bảng 3.11 Thay đổi thực hành kỹ thuật thở chúm môi sau can thiệp
Phân loại Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Sau can thiệp, nhóm can thiệp đạt kết quả thực hành tốt là 54,6%, cao hơn nhóm chứng với 30,9% Tỷ lệ thực hành kỹ thuật kém của nhóm can thiệp là 10,9%, trong khi nhóm chứng là 23,6%, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,03) Điểm trung bình kỹ thuật thở chúm môi của nhóm can thiệp là 8,04 ± 2,15, so với nhóm chứng là 6,95 ± 1,86, với sự khác biệt cũng có ý nghĩa thống kê (p = 0,002).
Bảng 3.12 Thay đổi thực hành kỹ thuật thở cơ hoành sau can thiệp
Phân loại Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm trung bình của nhóm can thiệp đạt 8,02 ± 1,84, trong khi nhóm chứng là 7,02 ± 1,77, với giá trị t = 5,68 và p < 0,001 Tỷ lệ thực hành tốt của nhóm chứng là 40%, trong khi nhóm can thiệp đạt 63,6% Ngược lại, tỷ lệ thực hành kém của nhóm can thiệp chỉ là 9,1%, so với 23,6% của nhóm chứng Sự khác biệt giữa hai nhóm được xác định là có ý nghĩa thống kê với p = 0,027.
36 bình tiến hành kỹ thuật thở hoành của nhóm can thiệp là 8,02 ± 1,84 điểm, so với nhóm chứng là 7,02 ± 1,77 điểm, sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (p = 0,001)
Bảng 3.13 Thay đổi thực hành kỹ thuật thở chung sau can thiệp
Phân loại Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Kết quả thực hành sau can thiệp cho thấy nhóm can thiệp đạt 69,1%, trong khi nhóm chứng chỉ đạt 43,6% Tỷ lệ thực hành kỹ thuật kém của nhóm can thiệp là 14,5%, thấp hơn so với 30,9% của nhóm chứng, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,024) Điểm trung bình kỹ thuật thở của nhóm can thiệp là 9,85 ± 2,64, cao hơn so với 8,16 ± 2,87 của nhóm chứng, và sự khác biệt này cũng có ý nghĩa thống kê (p = 0,002).
3.3.2 Sự thay đổi thực hành phục hồi chức năng hô hấp ở nhóm can thiệp sau hướng dẫn
3.3.2.1 Sự thay đổi mức độ khó thở của nhóm can thiệp sau hướng dẫn
Biểu đồ 3.3 Sự thay đổi mức độ khó thở của nhóm can thiệp
Sau can thiệp, tỷ lệ khó thở giảm xuống còn 54,5%, trong khi mức độ khó thở mMRC 0 và mMRC 1 tăng từ 23,7% lên 45,5% Sự khác biệt giữa trước và sau can thiệp có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
45% mMRC 0 mMRC 1 mMRC 2 mMRC 3 mMRC 4
Trước can thiệp Sau can thiệp p = 0,001
3.3.2.2 Sự thay đổi thực hành phục hồi chức năng hô hấp của nhóm can thiệp sau hướng dẫn
Bảng 3.14 Thay đổi thực hành kỹ thuật ho có kiểm soát của nhóm can thiệp
Phân loại Trước can thiệp Sau can thiệp
Trước khi được hướng dẫn, tỷ lệ người bệnh thực hiện kỹ thuật ho có kiểm soát đạt 12,7%, nhưng sau hướng dẫn, tỷ lệ này đã tăng lên 58,2% Đồng thời, tỷ lệ người bệnh thực hành kém trong nhóm can thiệp giảm từ 30,9% xuống còn 14,5% Mức điểm trung bình của kỹ thuật ho có kiểm soát trước hướng dẫn là 6,09 ± 1,35 và sau hướng dẫn tăng lên 7,91 ± 2,09, cho thấy sự khác biệt trước và sau can thiệp có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Bảng 3.15 Thay đổi thực hành kỹ thuật thở mạnh của nhóm can thiệp
Phân loại Trước can thiệp Sau can thiệp
Tỷ lệ người bệnh thực hành kém trong nhóm can thiệp đã giảm từ 32,7% xuống còn 18,2%, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p 0,001) Mức điểm trung bình thực hiện kỹ thuật thở mạnh ở nhóm can thiệp trước hướng dẫn là 6,29 ± 1,18 điểm, và sau hướng dẫn đã tăng lên 7,85 ± 1,94 điểm, chứng tỏ hiệu quả của chương trình can thiệp.
39 biệt trước sau hướng dẫn có ý nghĩa thống kê (p < 0,001)
Bảng 3.16 Thay đổi thực hành kỹ thuật thở chúm môi của nhóm can thiệp
Phân loại Trước can thiệp Sau can thiệp
Sau khi thực hiện hướng dẫn, tỷ lệ người bệnh thực hành kém trong nhóm can thiệp giảm từ 34,5% xuống còn 10,9%, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,001) Điểm trung bình thực hiện kỹ thuật thở chúm môi của nhóm can thiệp trước hướng dẫn là 6,11 ± 1,24 điểm, và sau hướng dẫn tăng lên 8,04 ± 2,15 điểm, với sự khác biệt cũng có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
Bảng 3.17 Thay đổi thực hành kỹ thuật thở cơ hoành của nhóm can thiệp
Phân loại Trước can thiệp Sau can thiệp
Sau khi được hướng dẫn, tỷ lệ người bệnh thực hành kém trong nhóm can thiệp giảm từ 30,9% xuống còn 9,1%, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,001) Mức điểm trung bình thực hiện kỹ thuật thở hoành ở nhóm can thiệp trước hướng dẫn là 6,16 ± 1,15 điểm, và sau hướng dẫn đã tăng lên 8,02 ± 1,84 điểm.
Bảng 3.18 Thay đổi thực hành kỹ thuật thở chung của nhóm can thiệp
Phân loại Trước can thiệp Sau can thiệp
Sau khi được hướng dẫn, tỷ lệ người bệnh thực hành kém trong nhóm can thiệp giảm từ 41,8% xuống còn 14,5%, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,001) Điểm trung bình thực hiện kỹ thuật thở chung của nhóm can thiệp trước hướng dẫn là 7,20 ± 2,03 điểm, và sau hướng dẫn đã tăng lên 9,85 ± 2,64 điểm, cho thấy sự khác biệt trước và sau điều trị có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
BÀN LUẬN
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu, các đặc điểm của người bệnh như tuổi, giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thời gian bị bệnh, bệnh lý kèm theo, thói quen hút thuốc và thời gian hút thuốc không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng (p > 0,05).
4.1.1 Phân bố người bệnh theo tuổi
Nghiên cứu cho thấy người bệnh tham gia chủ yếu là nhóm trên 70 tuổi, với 65,4% trong nhóm can thiệp và 70,9% trong nhóm chứng Sự phân bố theo độ tuổi giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của Aquino (2016), trong đó 71,4% người bệnh tham gia có độ tuổi trên 70 Tuy nhiên, nghiên cứu của Georgios Ntrisos (2018) cho thấy chỉ 29,1% người bệnh trên 70 tuổi, trong khi nhóm trên 40 tuổi chiếm 80% Các nghiên cứu dịch tễ học chỉ ra rằng BPTNMT là bệnh lý mạn tính phát triển âm thầm, thường chỉ được chẩn đoán khi bệnh đã nặng với triệu chứng ho và khó thở Do bệnh diễn tiến chậm và nặng dần, người bệnh thường đến bệnh viện ở giai đoạn muộn và có độ tuổi cao.
4.1.2 Phân bố người bệnh theo giới
Trong nghiên cứu tỷ lệ người bệnh nam ở cả nhóm can thiệp là 83,6% và nhóm chứng là 76,4%, sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
Nghiên cứu của Etnier (2011) cho thấy tỷ lệ nam giới tham gia là 86%, trong khi nghiên cứu của Lê Thị Kim Chi ghi nhận 79,7% và nghiên cứu của Vũ Thị Thanh tại Bệnh viện Bạch Mai đạt 83,9% Bên cạnh đó, nghiên cứu của Laura Desveaux (2018) cũng chỉ ra rằng hơn 80% người bệnh tham gia là nam trong tất cả các nghiên cứu được khảo sát.
4.1.3 Phân bố người bệnh theo trình độ học vấn Đối tượng tham gia nghiên cứu đa số là nhóm từ trình độ trung học phổ thông trở xuống chiếm 74,5% ở cả nhóm can thiệp và nhóm chứng, sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy kết quả tương đồng với nghiên cứu của tác giả Vũ Trung Hải vào năm 2014 tại Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Thái Bình, trong đó có 81,3% người bệnh có trình độ học vấn trung học trở xuống.
Nghiên cứu cho thấy phần lớn người bệnh có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở xuống Mặc dù trình độ học vấn không trực tiếp gây ra bệnh, nhưng việc thiếu hiểu biết về sức khỏe và khó khăn trong việc tiếp cận thông tin có thể làm tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng hơn.
4.1.4 Phân bố người bệnh theo nghề nghiệp
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ nông dân tham gia khá cao, đạt trên 40% ở cả hai nhóm can thiệp và nhóm chứng Sự khác biệt giữa hai nhóm này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của Vũ Thị Bích Thảo năm 2016 tại Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Ninh Bình, với tỷ lệ 42,86% nông dân và 39,28% người hưu trí mắc bệnh Do thu nhập của nông dân thường ở mức thấp, họ có xu hướng ít quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe, dẫn đến tình trạng bệnh lý dễ trở nên nghiêm trọng hơn.
4.1.5 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo thời gian bị bệnh
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh từ 1 đến 5 năm chiếm 63,3% ở nhóm can thiệp và 67,3% ở nhóm chứng Sự khác biệt này cho thấy mối liên hệ giữa thời gian mắc bệnh và hiệu quả can thiệp.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm, với p > 0,05 Thời gian mắc bệnh trung bình của nhóm can thiệp là 6,00 ± 4,52 năm, trong khi nhóm chứng là 6,53 ± 5,93 năm.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ người bệnh mắc bệnh trên 5 năm thấp hơn so với nghiên cứu của Trần Thị Thanh tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai năm 2013 (33,6%) và nghiên cứu của Nguyễn Mai Hương tại Bệnh viện Thanh Nhàn năm 2015 (83,9%) Điều này chỉ ra rằng đa số người bệnh có thời gian bị bệnh kéo dài.
Bệnh lý này được xác định là mạn tính, kéo dài và ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của người bệnh Tuy nhiên, giữa các đợt cấp tính, vẫn có những giai đoạn bệnh ổn định.
4.1.6 Phân bố người bệnh theo tình trạng hút thuốc lá
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ không hút thuốc lá ở nhóm can thiệp đạt 27,3%, trong khi nhóm chứng chỉ có 18,2% Tỷ lệ người hút trên 20 điếu thuốc/ngày ở nhóm can thiệp là 7,3%, so với 3,6% ở nhóm chứng, nhưng sự khác biệt giữa hai nhóm không đạt ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Số điếu thuốc trung bình mỗi ngày của bệnh nhân trong nhóm can thiệp là 9,85 ± 5,72, trong khi nhóm chứng là 9,33 ± 6,22, và sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Trong nghiên cứu, tỷ lệ người tham gia hút thuốc trên 20 năm ở nhóm can thiệp là 50,9%, trong khi nhóm chứng là 45,4%, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Thời gian hút thuốc trung bình của nhóm can thiệp là 26,67 ± 7,18 năm, và của nhóm chứng là 26,16 ± 9,78 năm, cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Thực trạng thực hành phục hồi chức năng hô hấp của người bệnh
Người bệnh tham gia nghiên cứu của chúng tôi hầu như đã từng được hướng
Trong nghiên cứu về phục hồi chức năng hô hấp, 45 kỹ thuật như ho có kiểm soát, thở mạnh, thở chúm môi và thở hoành đã được áp dụng Tuy nhiên, mức độ thực hành của bệnh nhân ở cả nhóm can thiệp và nhóm chứng trước can thiệp đều cho thấy kết quả thấp Cụ thể, thực trạng thực hành các kỹ thuật thở như ho có kiểm soát, thở mạnh, thở chúm môi và thở cơ hoành trước can thiệp cần được cải thiện để nâng cao hiệu quả phục hồi chức năng hô hấp.
4.2.1 Thực hành kỹ thuật ho có kiểm soát trước hướng dẫn
Trước khi hướng dẫn, tỷ lệ thực hiện kỹ thuật ho có kiểm soát của nhóm can thiệp đạt 83,6%, trong khi nhóm chứng là 85,5% Cả hai nhóm đều có tỷ lệ người bệnh thực hiện kém kỹ thuật ho có kiểm soát trên 40,0% Sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Điểm trung bình mức độ thực hiện kỹ thuật ho có kiểm soát của nhóm can thiệp là 6,09 ± 1,35 điểm, so với 5,96 ± 1,40 điểm của nhóm chứng, và sự khác biệt cũng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Ho là phản xạ bảo vệ của cơ thể nhằm loại bỏ vật lạ, nhưng đối với bệnh nhân BPTNMT, việc ho thông thường không hiệu quả và có thể gây mệt mỏi, khó thở Do đó, cần hướng dẫn bệnh nhân sử dụng kỹ thuật ho có kiểm soát, giúp tạo ra luồng khí mạnh để đẩy đờm ra ngoài Nghiên cứu của Arnoldus và cộng sự (2012) chỉ ra rằng việc kiểm soát hơi thở có thể cải thiện FEV1 và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân BPTNMT.
4.2.2 Thực hành kỹ thuật thở mạnh trước hướng dẫn
Trước khi hướng dẫn, cả nhóm can thiệp và nhóm chứng đều có tỷ lệ thực hiện kỹ thuật thở mạnh không tốt là 85,5% Tỷ lệ người bệnh thực hiện kém kỹ thuật thở mạnh trong nhóm can thiệp là 32,7%, trong khi nhóm chứng là 30,9%, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm (p > 0,05) Điểm trung bình mức độ thực hiện kỹ thuật thở mạnh của nhóm can thiệp là 6,29 ± 1,18 điểm và nhóm chứng là 6,07 ± 1,17 điểm, cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Kỹ thuật ho có kiểm soát mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân BPTNMT, nhưng một số người có thể gặp khó khăn do lực ho yếu hoặc cảm thấy mệt mỏi Trong trường hợp này, kỹ thuật thở mạnh có thể được áp dụng như một phương pháp thay thế Nghiên cứu của Vitacca M và cộng sự cho thấy rằng việc sử dụng kỹ thuật thở mạnh ở 25 bệnh nhân BPTNMT đã dẫn đến sự cải thiện đáng kể về khí máu, chức năng phổi và tình trạng khó thở của họ.
Kết quả cho thấy người bệnh đã nắm rõ bốn bước của kỹ thuật thở mạnh, nhưng thực hiện không đúng ở từng bước Do đó, cần hướng dẫn cụ thể từng bước để người bệnh có thể thực hành kỹ thuật thở mạnh một cách hiệu quả.
4.2.3 Thực hành kỹ thuật thở chúm môi trước hướng dẫn
Trong một nghiên cứu về kỹ thuật thở chúm môi, nhóm can thiệp có tỷ lệ thực hiện không tốt là 85,5%, trong khi nhóm chứng là 89,1% Tỷ lệ người bệnh thực hiện kém kỹ thuật này ở nhóm can thiệp là 34,6% và nhóm chứng là 27,3%, nhưng sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Điểm trung bình mức độ thực hiện kỹ thuật thở chúm môi của nhóm can thiệp là 6,09 ± 1,35 điểm, so với 5,96 ± 1,40 điểm của nhóm chứng, cũng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Đối với bệnh nhân BPTNMT, đặc biệt là nhóm viêm phế quản mạn, tình trạng tắc nghẽn đường dẫn khí do đờm nhớt hay viêm nhiễm gây hẹp lòng phế quản là phổ biến Trong khi đó, ở nhóm khí phế thũng, phế nang bị phá huỷ dẫn đến ứ đọng không khí trong phổi và thiếu oxy cho cơ thể Kỹ thuật thở chúm môi giúp duy trì đường thở mở rộng, tạo điều kiện cho không khí thoát ra dễ dàng và hít vào không khí trong lành Nghiên cứu của Kyo Chul Seo và cộng sự đã chứng minh hiệu quả tích cực của bài phục hồi chức năng hô hấp chúm môi trên các cơ hô hấp của bệnh nhân BPTNMT.
4.2.4 Thực hành kỹ thuật thở cơ hoành trước hướng dẫn
Trước hướng dẫn, đánh giá tình trạng thực hiện không tốt kỹ thuật thở cơ
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thực hiện kỹ thuật thở hoành của nhóm can thiệp đạt 87,3%, trong khi nhóm chứng là 85,5% Mặc dù tỷ lệ người bệnh thực hiện kém kỹ thuật thở hoành ở nhóm can thiệp là 30,9% và nhóm chứng là 36,4%, nhưng sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Điểm trung bình mức độ thực hiện kỹ thuật thở hoành của nhóm can thiệp là 6,16 ± 1,15 điểm, so với 6,09 ± 1,40 điểm của nhóm chứng, cũng không có sự khác biệt đáng kể (p > 0,05) Đối với người khỏe mạnh, việc hít thở trở nên dễ dàng hơn nhờ sự hoạt động của các cơ ở vai, lồng ngực, cổ và cơ hoành Tuy nhiên, ở những người mắc bệnh phổi mạn tính, tình trạng ứ khí trong phổi dẫn đến lồng ngực căng phồng, hạn chế hoạt động của cơ hoành Do đó, việc tập thở cơ hoành có thể giúp cải thiện khả năng hô hấp và giảm tình trạng khó thở, đau tức ngực Nghiên cứu của Wellington và cộng sự cũng chỉ ra rằng chương trình hướng dẫn thở cơ hoành có tác động tích cực đến khả năng vận động và hoạt động của cơ ngực ở người bệnh BPTNMT.
4.2.5 Thực hành kỹ thuật phục hồi chức năng hô hấp chung trước hướng dẫn Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, hầu hết người bệnh tham gia nghiên cứu đều đã nghe và biết về các kỹ thuật thực hành phục hồi chức năng hô hấp Tuy nhiên tỷ lệ thực hiện tốt cả bốn kỹ thuật đều chưa cao, chiếm 30,9% ở nhóm can thiệp và 25,5% ở nhóm chứng, trong đó điểm trung bình mức độ thực hiện kỹ thuật thở nói chung của nhóm can thiệp là 7,20 ± 2,03 (điểm) và nhóm chứng là 7,16 ± 2,10 (điểm) Sự khác biệt giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) Ở Việt Nam, có rất nhiều nghiên cứu hiệu quả của chương trình can thiệp PHNCHH qua các tiêu chí lâm sàng như mức độ khó thở, chất lượng cuộc sống, chức năng hô hấp Nhưng có rất ít nghiên cứu về thay đổi thực hành kỹ thuật PHCNHH của người bệnh BPTNMT Chương trình thực hành PHCNHH nằm trong
Bộ Y tế đã cung cấp hướng dẫn chi tiết về chẩn đoán và điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, giúp người bệnh nhận thức rõ hơn về các bài tập cần thiết Mỗi bài tập đều mang lại lợi ích riêng, hỗ trợ cải thiện tình trạng sức khỏe cho bệnh nhân.
Việc thực hiện 48 bước trong quy trình PHCNHH là rất khó nhớ, đặc biệt đối với người bệnh cao tuổi Do đó, cần có sự can thiệp thường xuyên và hướng dẫn thực hành từ cán bộ điều dưỡng để cải thiện kỹ thuật PHCNHH cho người bệnh BPTNMT.
Sự thay đổi về thực hành phục hồi chức năng hô hấp giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng sau hướng dẫn
4.3.1 Sự thay đổi về mức độ khó thở giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng sau hướng dẫn
Sau hướng dẫn nhóm can thiệp có 12,7% người bệnh không khó thở (mMRC
0) và nhóm chứng là 3,6% Mức khó thở nhẹ ở nhóm can thiệp là 32,7% và nhóm chứng là 14,5% Trước khi tham gia nghiên cứu mức độ khó thở từ mMRC 2 trở lên của người bệnh ở nhóm can thiệp là 76,3% có vàở nhóm chứng là 85.5%, sau hướng dẫn tỷ lệ này giảm xuống ở nhóm can thiệp là 54,5% và nhóm chứng là 81,8% Sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)
Nghiên cứu của chúng tôi không khác biệt so với nghiên cứu của Ahmed Saad Elmorsi năm 2015, cho thấy can thiệp giảm khó thở theo mMRC có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng Tương tự, nghiên cứu của Nguyễn Viết Nhung tại Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Trung ương cũng cho thấy nhóm can thiệp không còn bệnh nhân ở mức độ khó thở mMRC 4, trong khi nhóm chứng vẫn còn 4/30 bệnh nhân ở mức độ này Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Đỗ Thị Tường Oanh về cải thiện mức độ khó thở sau chương trình can thiệp phục hồi chức năng hô hấp.
Sự hướng dẫn thực hành PHCNHH của cán bộ điều dưỡng đã giúp nhóm can thiệp cải thiện rõ rệt mức độ khó thở, với sự thay đổi có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) Kết quả này khẳng định vai trò quan trọng của phương pháp thực hành PHCHHH trong chương trình phục hồi chức năng hô hấp.
Bài tập kỹ thuật ho có kiểm soát và kỹ thuật thở mạnh đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện mức độ khó thở của người bệnh BPTNMT Những phương pháp này giúp đẩy đờm ứ đọng trong đường thở, tạo điều kiện cho đường thở thông thoáng Kỹ thuật thở chúm môi và thở hoành cũng góp phần tăng cường lưu thông khí trong phổi, giảm khí cặn chức năng, từ đó giúp người bệnh giảm bớt tình trạng khó thở.
4.3.2 Sự thay đổi về thực hành kỹ thuật ho có kiểm soát giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng sau hướng dẫn
Biểu đồ 3.4 cho thấy trước khi thực hiện hướng dẫn thực hành PHCNHH, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kỹ thuật ho có kiểm soát giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng Sau khi được hướng dẫn, tỷ lệ người bệnh thực hành tốt trong nhóm can thiệp đạt 58,2%, trong khi nhóm chứng chỉ đạt 30,9% Tỷ lệ thực hành kém ở nhóm can thiệp là 14,5% so với 27,3% ở nhóm chứng, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,015) Điểm trung bình kỹ thuật ho có kiểm soát của nhóm can thiệp là 7,96 ± 2,10, cao hơn so với nhóm chứng là 6,94 ± 1,86, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,003).
Nghiên cứu cho thấy việc hướng dẫn và giám sát người bệnh trong quá trình thực hành kỹ thuật ho có kiểm soát giúp nâng cao khả năng thực hiện của họ [13], [14], [32] Nghiên cứu của Nguyễn Viết Nhung và cộng sự (2010) khẳng định rằng việc hướng dẫn thực hành phục hồi chức năng hô hấp cho bệnh nhân BPTNMT tại bệnh viện Lao và bệnh phổi trung ương giúp giảm khó thở thông qua việc tăng cường khả năng thực hiện động tác ho có kiểm soát [13] Tuy nhiên, người bệnh, đặc biệt là những người trên 60 tuổi, vẫn gặp khó khăn trong việc nhớ và thực hiện đúng các bước bài tập Do đó, cán bộ điều dưỡng cần cung cấp hướng dẫn chi tiết từ động tác chuẩn bị đến các bước ho có kiểm soát như hít vào, nín thở và ho mạnh, đồng thời kết hợp việc tập luyện cùng bệnh nhân.
50 người bệnh từ đó giúp người bệnh thực hiện một cách thuần thục động tác ở các bước
4.3.3 Sự thay đổi về thực hành kỹ thuật thở mạnh giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng sau hướng dẫn
Biểu đồ 3.5 cho thấy trước khi can thiệp, kỹ thuật thở mạnh giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê Sau khi thực hiện hướng dẫn PHCNHH, tỷ lệ thực hành tốt của nhóm chứng đạt 32,7%, trong khi nhóm can thiệp đạt 61,8% Ngược lại, tỷ lệ thực hành kém ở nhóm can thiệp là 18,2%, trong khi nhóm chứng là 30,9% Sự khác biệt giữa hai nhóm này có ý nghĩa thống kê.
Nhóm can thiệp có điểm trung bình kỹ thuật thở mạnh là 7,85 ± 1,94, trong khi nhóm chứng chỉ đạt 6,71 ± 1,89 Sự khác biệt giữa hai nhóm này có ý nghĩa thống kê với p = 0,003.
Nghiên cứu của chúng tôi khẳng định rằng việc hướng dẫn kỹ thuật thở mạnh cho bệnh nhân BPTNMT, tương tự như nghiên cứu của Đỗ Thị Tường Oanh và cộng sự (2009), giúp cải thiện khả năng thực hiện kỹ năng thở, từ đó giảm tình trạng khó thở Kết quả này cũng được chứng minh trong nghiên cứu của Arnoldus J.R và cộng sự (2012), khi bệnh nhân có điểm thực hành cao hơn sau khi được hướng dẫn (p < 0,001), cho thấy hiệu quả rõ rệt của việc kiểm soát nhịp thở Sự hướng dẫn và giám sát thường xuyên từ cán bộ điều dưỡng đã giúp bệnh nhân thực hiện đúng từng thao tác, cải thiện tình trạng hô hấp một cách hiệu quả.
4.3.4 Sự thay đổi thực hành kỹ thuật thở chúm môi giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng sau hướng dẫn
Biểu đồ 3.6 cho thấy trước khi hướng dẫn, kỹ thuật thở chúm môi của nhóm can thiệp và nhóm chứng không có sự khác biệt thống kê Sau khi được hướng dẫn, tỷ lệ thực hành tốt của nhóm chứng đạt 30,9%, trong khi nhóm can thiệp đạt 54,6% Tỷ lệ thực hành kém ở nhóm can thiệp là 10,9%.
Trong nghiên cứu, nhóm can thiệp đạt điểm trung bình kỹ thuật thở chúm môi là 8,04 ± 2,15, trong khi nhóm chứng chỉ đạt 6,95 ± 1,86 Sự khác biệt giữa hai nhóm này có ý nghĩa thống kê với p = 0,002 Ngoài ra, tỷ lệ 51 nhóm chứng chiếm 23,6%, với sự khác biệt giữa hai nhóm cũng cho thấy ý nghĩa thống kê (p = 0,03).
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc thực hiện kỹ thuật thở chúm môi được cải thiện rõ rệt sau khi nhận hướng dẫn, tương tự như các nghiên cứu trước đây [13], [14], [25] Cụ thể, nghiên cứu của Valenza M.C và cộng sự (2014) chỉ ra rằng điểm thực hành về kỹ thuật thở chúm môi của bệnh nhân sau hướng dẫn cao hơn đáng kể so với trước đó (p < 0,001) Kết quả này chứng minh hiệu quả của bài hướng dẫn kiểm soát nhịp thở trong việc giảm tình trạng khó thở ở bệnh nhân BPTNMT [47] Do đó, sự hướng dẫn của cán bộ điều dưỡng trong việc thực hành kỹ thuật phục hồi chức năng hô hấp, đặc biệt là kỹ thuật thở chúm môi, là rất quan trọng giúp cải thiện tình trạng khó thở cho bệnh nhân.
4.3.5 Sự thay đổi thực hành kỹ thuật thở cơ hoành giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng sau hướng dẫn
Biểu đồ 3.7 cho thấy trước khi can thiệp, kỹ thuật thở cơ hoành giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng không có sự khác biệt đáng kể Tuy nhiên, sau can thiệp, tỷ lệ thực hành tốt của nhóm chứng đạt 40% trong khi nhóm can thiệp đạt 63,6% Tỷ lệ thực hành kém của nhóm can thiệp là 9,1%, thấp hơn so với 23,6% của nhóm chứng, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,015) Điểm trung bình kỹ thuật thở hoành của nhóm can thiệp là 7,96 ± 2,10, cao hơn so với 6,94 ± 1,86 của nhóm chứng, với sự khác biệt cũng có ý nghĩa thống kê (p = 0,003).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với các nghiên cứu trước đây, cho thấy việc thực hiện kỹ thuật thở cơ hoành được cải thiện rõ rệt sau khi nhận được hướng dẫn Điều này cũng nhất quán với nghiên cứu của Đỗ Thị Tường Oanh và cộng sự (2009), khẳng định tầm quan trọng của việc áp dụng đúng kỹ thuật thở.
52 việc hướng dẫn người bệnh BPTNMT thở cơ hoành trong chương trình phục hồi chức năng hô hấp sẽ giúp người bệnh thực hiện đúng các kỹ thuật thở, từ đó giảm tình trạng khó thở một cách hiệu quả.