CƠ SỞ LÝ LUẬN
Cấu trúc giải phẫu da
Da là cơ quan của hệ bài tiết, có vai trò bảo vệ cơ thể khỏi những tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài Với diện tích khoảng 2m2 ở người trưởng thành và độ dày từ 0,5 đến 3 mm, da có tính dai và đàn hồi, giúp bảo vệ các mô dưới da Đây là một cơ quan chủ động và đa năng, đồng thời không thấm nước.
Da không chỉ có chức năng điều hòa và cảm nhận nhiệt độ, mà còn tổng hợp vitamin B và D, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể Với độ dai và mềm mại, da giúp cơ thể dễ dàng chuyển động và chống lại bức xạ có hại từ ánh sáng, đồng thời ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn và vi sinh vật có hại.
Da giữ vai trò quan trọng trong điều hòa thân nhiệt và là diện cảm giác chủ yếu [5].
Sinh thái học của lớp vi khuẩn trên đôi bàn tay
2.1 Lớp vi khuẩn cư trú thường xuyên
Bàn tay con người thường có một lớp vi khuẩn cư trú ổn định, bao gồm cả vi khuẩn nằm trên bề mặt và sâu dưới da Sự hiện diện của chúng không chỉ phổ biến mà còn duy trì một số lượng và chủng loại nhất định.
Theo các nhà khoa học, trên 1cm² da tay người bình thường có thể chứa hơn 40.000 vi khuẩn khác nhau, mặc dù chúng không thể nhìn thấy bằng mắt thường Hầu hết những vi khuẩn này là những loại không gây bệnh cho người khỏe mạnh.
Lớp vi khuẩn này không thể bị tiêu diệt hoàn toàn, ngay cả khi thực hiện rửa tay ngoại khoa Do đó, việc sử dụng găng tay vô khuẩn là cách duy nhất để đảm bảo an toàn cho nhân viên y tế và bệnh nhân.
2.2 Lớp vi khuẩn cư trú tạm thời
Hằng ngày, nhân viên y tế tiếp xúc với bệnh nhân và môi trường xung quanh, dẫn đến việc số lượng vi khuẩn trên bàn tay họ tăng lên đáng kể Những vi khuẩn này hiện diện trên bề mặt da bàn tay, với sự phong phú về chủng loại và số lượng Chúng chủ yếu là các vi khuẩn gây bệnh cơ hội.
- Trong số đó, có rất nhiều vi khuẩngây bệnh, lan truyền nhanh và có thể pháttriển thành dịch rất nhanh chóng như:
Rotavirus, Pseudomonas, và Adenovirus là những loại vi khuẩn có thể gây nguy hiểm ngay cả cho người lành mang Nếu không rửa tay thường xuyên để loại bỏ vi khuẩn, đôi bàn tay sẽ trở thành môi trường thuận lợi cho sự phát triển của chúng, từ đó trở thành nguồn lây lan bệnh tật cho bản thân và những người xung quanh, làm gia tăng tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm trùng.
- Kết quả kiểm tra ngẫu nhiên của bệnh viện Chợ Rẫy tại thành phốHồ Chí
Năm 2001, một nghiên cứu cho thấy số lượng vi trùng đếm được trên bàn tay của nhân viên y tế là rất cao, với 481.273 vi trùng trên tay hộ lý, 275.110 vi trùng trên tay bác sĩ, và nhóm điều dưỡng có số lượng vi trùng ít nhất là 126.875.
Rửa tay thường quy
Vệ sinh tay là thuật ngữ chỉ các phương pháp làm sạch tay, bao gồm rửa tay bằng xà phòng thông thường, xà phòng khử khuẩn, hoặc sử dụng dung dịch vệ sinh tay chứa cồn.
- Rửa tay (Hand washing): Là rửa tay với nước và xà phòng thường
- Rửa tay khử khuẩn (Antiseptic handwash): Là rửa tay với nước và xà phòng khử khuẩn
- Sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch chứa cồn (Hand rub)
- Rửa tay/sát khuẩn tay phẫu thuật: phương pháp mà phẫu thuật viên rửa tay sát khuẩn hay chà tay bằng dung dịch chứa cồn trước khi phẫu thuật [2]
3.2 Mục đích của vệ sinh tay
- Loại bỏ vết bẩn nhìn thấy bằng mắt thường trên bàn tay
- Phòng ngừa sự lan truyền mầm bệnh từ cộng đồng vào Bệnh viện
- Ngăn ngừa sự lan truyền mầm bệnh từ Bệnh viện ra cộng đồng
- Ngăn ngừa các nhiễm khuẩn người bệnh có thể mắc phải trong Bệnh viện
3.3 Chỉ định vệ sinh tay (các thời điểm vệ sinh tay)
Hình 1: Sơ đồ năm thời điểm phải vệ sinh tay [2]
- Chỉ định 1: Trước khi tiếp xúc bệnh nhân
Bắt tay, cầm tay, xoa trán trẻ, thăm khám
Giúp nâng đỡ, xoay trở, dìu, tắm, gội, xoa bóp cho người bệnh
Bắt mạch, đo huyết áp, nghe phổi, khám bụng, ghi điện tâm đồ…
- Chỉ định 2: Trước khi thực hiện thủ thuật hoặc quy trình sạch/vô khuẩn
Ðánh răng, nhỏ mắt cho bệnh nhân
Tiêm, truyền, cho người bệnh uống thuốc
Chuẩn bị dụng cụ, phương tiện chăm sóc, khám bệnh, điều trị
Chăm sóc vùng da tổn thương, thay băng
Ðặt thông dạ dày, thông tiểu, mở hệ thống dẫn lưu, hút đàm
Chuẩn bị thức ăn, pha thuốc, dược phẩm
- Chỉ định 3: Sau khi có nguy cơ tiếp xúc dịch cơ thể
Vệ sinh răng miệng, nhỏ mắt, hút đàm cho nguời bệnh
Chăm sóc vùng da tổn thương, thay băng, tiêm dưới da
Lấy bệnh phẩm hoặc thao tác liên quan tới dịch cơ thể, mở hệ thống dẫn lưu, đặt và loại bỏ ống nội khí quản
Để đảm bảo vệ sinh trong chăm sóc người bệnh không tự chủ, cần loại bỏ phân, nước tiểu và chất nôn, đồng thời xử lý các chất thải như băng, tã, đệm, quần áo và drap giường Việc làm sạch các khu vực và vật liệu có dấu hiệu bẩn nhìn thấy bằng mắt thường, bao gồm đồ vải bẩn, nhà vệ sinh, ống đựng nước tiểu, bô và dụng cụ y tế, là rất quan trọng để duy trì môi trường an toàn và sạch sẽ cho bệnh nhân.
- Chỉ định 4: Sau khi tiếp xúc bệnh nhân
Ðánh răng, nhỏ mắt cho bệnh nhân
Tiêm, truyền, cho nguời bệnh uống thuốc
Chuẩn bị dụng cụ, phương tiện chăm sóc, khám bệnh, điều trị
Chăm sóc vùng da tổn thương, thay băng
Ðặt thông dạ dày, thông tiểu, mở hệ thống dẫn lưu, hút đàm
Chuẩn bị thức ăn, pha thuốc, dược phẩm …
- Chỉ định 5: Sau khi tiếp xúc bề mặt vật dụng xung quanh bệnh nhân
Tiếp xúc giường, bàn, ghế xung quanh người bệnh
Tiếp xúc các máy móc xung quanh giường người bệnh
Thay drap giường, thay chiếu
Ðiều chỉnh tốc độ dịch truyền
Tiếp xúc vào bất cứ vật gì trong bán kính 1m xung quanh nguời bệnh [2]
3.4 Quy trình vệ sinh tay thường quy
Theo công văn số 7518/ BYT- ĐT ngày 12/10/2007 về việc hướng dẫn thực hiện quy trình RTTQ và sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch chứa cồn
- Có hai phương pháp VST:
1 Rửa tay với nước và xà phòng
2 Sát khuẩn tay nhanh với dung dịch chứa cồn
- Rửa tay với nước và xà phòng khi nhìn thấy bẩn hoặc có dính dịch tiết
- Sát khuẩn tay nhanh với dung dịch chứa cồn khi bàn tay không nhìn thấy bẩn
- Phải đảm bảo bàn tay khô hoàn toàn trước khi bắt đầu bất kỳ hoạt động chăm sóc nào cho người bệnh [2]
Bồn rửa tay cần có độ sâu tối thiểu 50cm để ngăn nước bắn ra ngoài và vào người sử dụng Thiết kế bồn không có góc cạnh, bề mặt nhẵn và nghiêng về phía trung tâm để đảm bảo an toàn Chiều cao từ mặt đất đến mặt bồn rửa nên từ 65-80cm, phù hợp với chiều cao trung bình của người sử dụng.
- Vòi nước: Gắn cố định vào trong tường, chiều cao so với bề mặt của bồn khoảng 25 cm Nên sử dụng vòi khóa tự động hoặc có cần gạt
- Hệ thống nước: tốt nhất là nước máy
- Giá để xà phòng rửa tay: lắp đặt phù hợp với kích cỡ xà phòng hoặc lọ chứa dung dịch rửa tay
- Khăn lau tay sử dụng 1 lần Nếu có điều kiện có thể sử dụng khăn lau tay giấy
- Thùng đựng khăn đã sử dụng: Thiết kế sao cho thao tác bỏ khăn vào thùng được dễ dàng, không phải chạm tay vào nắp [2]
3.4.2 Quy trình rửa tay bằng nước và xà phòng
Quy trình này cần được thực hiện vào đầu hoặc cuối một ngày làm việc, khi tay có dấu hiệu bẩn hoặc khi có cảm giác dính bẩn, máu, hoặc dịch cơ thể.
Phải tháo trang sức ở tay trước khi tiến hành các bước sau:
Để rửa tay đúng cách, bước đầu tiên là lấy từ 3 đến 5ml dung dịch rửa tay hoặc chà bánh xà phòng lên lòng và mu bàn tay Sau đó, hãy xoa hai lòng bàn tay vào nhau để dung dịch và xà phòng được dàn đều khắp bề mặt.
- Bước 2: Chà lòng bàn tay này lên mu và kẽ các ngón của bàn tay kia và ngược lại
- Bước 3: Chà hai lòng bàn tay vào nhau, miết mạnh các kẽ ngón tay
- Bước 4: Chà mặt ngoài các ngón tay của bàn tay này vào lòng bàn tay kia
- Bước 5: Dùng lòng bàn tay này xoay ngón cái của bàn tay kia và ngược lại
- Buớc 6: Xoay đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại
Ghi chú: Mỗi bước chà tối thiểu 5 lần, thời gian rửa tay tối thiểu là 30 giây
3.4.3 Sát khuẩn tay bằng dung d
Sát khuẩn tay bằng dung d nhất để tăng số lần rửa tay c đựng dung dịch chứa cồn có s thiểu ở các vị trí sau đây:
- Ðầu giường bệnh các khoa C nhiễm, khoa Gây mê - Hồ
- Trên các xe tiêm, xe thay băng, xe d
- Tường cạnh cửa ra vào, c
- Bước 1: Lấy 3ml dung d dung dịch dàn đều
Quy trình rửa tay thường quy là một biện pháp quan trọng trong việc đảm bảo vệ sinh cho nhân viên y tế, theo công văn số 7518/BYT Đặc biệt, các khoa như Cấp cứu, Hồi sức tích cực và Truyền nhiễm cần được trang bị dung dịch chứa cồn sẵn có để nhân viên y tế thực hiện rửa tay đúng cách và hiệu quả.
Trên các xe tiêm, xe thay băng, xe dụng cụ làm thủ thuật
Trên các bàn khám bệnh a ra vào, cửa chính của mỗi khoa [1] y 3ml dung dịch chứa cồn Chà hai lòng bàn tay vào nhau cho
7518/BYT-ĐT) i pháp quan trọng n trang bị các lọ nhân viên y tế sử dụng Tối c, khoa Truyền n Chà hai lòng bàn tay vào nhau cho
- Bước 2: Chà lòng bàn tay này lên mu và kẽ các ngón của bàn tay kia và ngược lại
- Bước 3: Chà hai lòng bàn tay vào nhau, miết mạnh các kẽ ngón tay
- Bước 4: Chà mặt ngoài các ngón tay của bàn tay này vào lòng bàn tay kia
- Bước 5: Dùng lòng bàn tay này xoay ngón cái của bàn tay kia và ngược lại
- Bước 6: Xoay đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại Chà sát tay đến khi tay khô
Ghi chú: Mỗi bước chà tối thiểu 5 lần, thời gian chà sát tay từ 20-30 giây, hoặc chà sát cho đến khi tay khô [1].
CƠ SỞ THỰC TIỄN
Một số mốc lịch sử của vệ sinh bàn tay
Trong thế kỷ XIX, tỷ lệ tử vong ở các bà mẹ sinh con tại bệnh viện ở châu Âu và Mỹ lên tới 25% do sốt hậu sản, nguyên nhân sau này được xác định là vi khuẩn Streptococcus pyogenes Năm 1843, bác sĩ Oliver Wendell Holmes đã yêu cầu một bác sĩ khoa sản nghỉ việc một tháng sau khi xảy ra hai trường hợp tử vong mà ông nghi ngờ liên quan đến vệ sinh tay của bác sĩ này, tuy nhiên ý kiến của ông đã gặp phải sự phản đối từ nhiều đồng nghiệp.
Vào những năm 1840, bác sĩ Semmelweis người Hungari làm việc tại một bệnh viện ở Áo đã phát hiện ra sự khác biệt về tỷ lệ tử vong của sản phụ giữa hai khoa sản Tại khoa thứ nhất, nơi các sinh viên y khám cho sản phụ sau khi tiếp xúc với phòng mổ xác, tỷ lệ tử vong lên tới 18% do sốt sản khoa, trong khi ở khoa thứ hai, nơi các nữ hộ sinh không tiếp xúc với phòng mổ xác, tỷ lệ này chỉ là 2% Semmelweis nhận thấy rằng một đồng nghiệp của ông đã tử vong vì bệnh tương tự sau khi bị thương trong khi mổ xác, từ đó ông kết luận rằng các hạt gây nhiễm từ tử thi lây truyền cho sản phụ qua tay của sinh viên y Ông đã áp dụng biện pháp khử khuẩn tay bằng vôi chlorinate, dẫn đến việc giảm tỷ lệ tử vong ở khoa thứ nhất xuống bằng khoa thứ hai Tuy nhiên, nhiều người không tin vào khuyến cáo rửa tay của ông và cho rằng thiếu bằng chứng khoa học để chứng minh lý thuyết của mình.
Năm 1879, tại một hội thảo khoa học ở Paris, bác sĩ Louis Pasteur đã chỉ ra rằng nguyên nhân gây tử vong ở các bà mẹ bị nhiễm trùng hậu sản là do các bác sĩ không rửa tay sau khi khám bệnh nhân này trước khi khám bệnh nhân khác.
Sau đó, ông đưa ra Lý thuyết về “Mầm bệnh”và phương pháp tiệt khuẩn Pasteur được sử dụng tới ngày nay [4]
Trong những năm qua, khuyến cáo rửa tay gặp nhiều khó khăn do thiếu phương tiện và nước, cùng với sự gia tăng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn và thiếu kiến thức về vệ sinh bệnh viện từ nhân viên y tế Các bác sĩ thường cho rằng việc rửa tay giữa các lần tiếp xúc với bệnh nhân là quá mức cần thiết Năm 1910, bác sĩ Rosephine Baker tại Mỹ đã tổ chức khóa tập huấn đầu tiên về vệ sinh bàn tay cho cán bộ y tế chăm sóc bệnh nhi Đến năm 1992, một nghiên cứu tại khoa hồi sức cấp cứu cho thấy tỷ lệ tuân thủ rửa tay chỉ đạt khoảng 30%, với tỷ lệ cao nhất là 48% Cũng trong năm này, CDC (Mỹ) báo cáo tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện dao động từ 5-15%, làm gia tăng nguy cơ nhiễm khuẩn cho nhân viên y tế; năm 1993, đã có 11 nhân viên mắc bệnh viêm gan A do không rửa tay sau khi tiếp xúc với bệnh nhân.
- Chưa đầy một thế kỉ sau, một nghiên cứu quan trọng khác đã được tiến hành
Nghiên cứu của Rammekamp và cộng sự vào những năm 1950 đã chỉ ra rằng sự tiếp xúc trực tiếp là nguyên nhân chính lây truyền Staphylococcus aureus Họ phát hiện rằng việc rửa tay giữa các lần tiếp xúc với bệnh nhân giúp giảm tỷ lệ nhiễm Staphylococcus aureus, với tỷ lệ mang tụ cầu ở nhóm rửa tay thường quy chỉ là 10%, so với 43% ở nhóm chỉ rửa tay khi cảm thấy cần thiết.
- Tại Việt Nam, kết quả điều tra về vấn đề nhiễm khuẩn bệnh viện năm 2000 do
Sở Y tế TP Hồ Chí Minh, phối hợp với các chuyên gia y tế Pháp, đã tiến hành nghiên cứu trên 9.900 bệnh nhân tại 24 bệnh viện trong thành phố Kết quả cho thấy có 864 ca nhiễm khuẩn mắc phải tại bệnh viện, chiếm 8,6% tổng số bệnh nhân Trong số này, viêm phổi nhiễm khuẩn chiếm tỷ lệ cao nhất với 26,5%, tiếp theo là nhiễm khuẩn do đặt thông tiểu.
Nhiễm khuẩn bệnh viện, chiếm tỷ lệ 18,8%, là những nhiễm khuẩn xảy ra trong thời gian bệnh nhân nằm viện, nhưng không phải lý do nhập viện Những nhiễm khuẩn này thường xuất hiện sau khi bệnh nhân đã nhập viện.
Nhiễm khuẩn bệnh viện, không xuất hiện tại thời điểm nhập viện và không ở giai đoạn ủ bệnh, dẫn đến kéo dài thời gian nằm viện, tăng chi phí và tỷ lệ tử vong, cũng như nguy cơ phát sinh các chủng vi khuẩn kháng thuốc Đây đang trở thành một gánh nặng lớn cho ngành y tế Việc tăng cường tuân thủ vệ sinh tay thường quy trong các cơ sở y tế và bệnh viện là điều cực kỳ quan trọng.
- Việc tăng cường thực hành rửa tay thường quy trong các bệnh viện ở Việt
Nam đã ghi nhận nhiều thành công trong công tác kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện Tại bệnh viện Bình Dân, sau khi triển khai chương trình vệ sinh tay, tỷ lệ nhiễm khuẩn đã giảm từ 17,1% xuống còn 2,1%, cùng với thời gian nằm viện và chi phí kháng sinh cũng giảm đáng kể Tương tự, bệnh viện Bạch Mai đã chú trọng đến công tác chống nhiễm khuẩn và tổ chức tuyên truyền, tập huấn về vệ sinh tay cho nhân viên y tế, giúp tỷ lệ nhiễm khuẩn giảm từ 1,5% vào năm 1995 xuống còn 0,8% vào năm 2006.
Năm 2009, Tổ chức Y tế Thế giới khởi xướng chiến dịch “Bảo vệ sự sống bằng rửa tay”, nhấn mạnh tầm quan trọng của vệ sinh tay trong khám và chữa bệnh Ngày 20/04/2009, Bộ Y tế Việt Nam đã chính thức ủng hộ phong trào này, trở thành quốc gia thứ 118 tham gia Cùng năm, Bộ Y tế ban hành thông tư số 18/2009/TT-BYT, hướng dẫn kiểm soát nhiễm khuẩn tại các cơ sở y tế, trong đó quy định rõ về việc rửa tay thường quy.
Hình 3: Lễ phát động chiến dịch “Bảo vệ sự sống: hãy vệ sinh tay” tại Bệnh viện
Bạch Mai năm 2014 (Nguồn: www.vtv.vn)
Các nghiên cứu về kiến thức và thực hành rửa tay phòng bệnh
Kiến thức của nhân viên y tế về quy tắc thực hành vệ sinh tay (RTTQ) ở một số nơi, như Thổ Nhĩ Kỳ, vẫn còn hạn chế, dẫn đến tỷ lệ tuân thủ RTTQ chưa cao Nhiều y tá lâm sàng không đạt yêu cầu về kiến thức vệ sinh tay, mặc dù họ báo cáo rằng luôn rửa tay sau khi tiếp xúc với bệnh nhân và các chất thải Mặc dù các y tá đồng tình với việc thực hiện RTTQ thường xuyên, nhưng thực tế họ gặp khó khăn trong việc thực hiện do thiếu cơ sở vật chất phù hợp.
Nghiên cứu của Pitte và cộng sự tại Thụy Sĩ đã chỉ ra rằng các chương trình can thiệp mang lại hiệu quả rõ rệt, với tỷ lệ tuân thủ RTTQ tăng từ 48% lên 66% sau 3 năm triển khai.
Một khảo sát tại Hàn Quốc cho thấy sự không tương xứng giữa kiến thức và thực hành rửa tay trong cộng đồng Mặc dù 945 người tham gia khảo sát khẳng định họ thường xuyên rửa tay sau khi sử dụng nhà vệ sinh công cộng, nhưng thực tế chỉ có 63,4% người được quan sát thực hiện hành động này, với tỷ lệ nữ giới rửa tay cao hơn nam giới.
Theo một cuộc khảo sát tại 25 trường học ở Bogotá, Colombia, chỉ có 33,6% học sinh thường xuyên rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh Ngoài ra, khoảng 75 học sinh cho thấy họ có ý thức cập nhật thông tin về các vấn đề liên quan đến nhiễm trùng và vệ sinh tay.
Tỷ lệ nhân viên y tế (NVYT) thực hiện vệ sinh tay tại Việt Nam vẫn còn rất thấp Một khảo sát tại bệnh viện Bạch Mai và một số bệnh viện khu vực phía Bắc cho thấy chỉ 2,6% NVYT thực hiện rửa tay thường quy (RTTQ) trước khi thăm khám bệnh nhân và 4,2% thực hiện trước khi chuyển từ thao tác bẩn sang thao tác sạch trên cùng một bệnh nhân Tần suất RTTQ trong ngày của NVYT chỉ đạt 3-5 lần, cho thấy sự thiếu hụt trong việc tuân thủ các biện pháp vệ sinh Theo Thạc sỹ Phạm Đức Mục, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Điều trị (Bộ Y tế), chỉ có 17% NVYT ở Việt Nam thực hiện RTTQ một cách thường xuyên và đúng cách.
Nghiên cứu năm 2007 tại bệnh viện Saint Paul và Thanh Nhàn cho thấy có 58,3% bác sĩ và điều dưỡng không rửa tay trong suốt quá trình làm việc Đặc biệt, tỷ lệ nhân viên y tế rửa tay khi có cơ hội chỉ đạt 12,2%.
Nghiên cứu năm 2013 về kiến thức và thái độ tuân thủ rửa tay thường quy (RTTQ) của sinh viên trường Trung cấp Y tế Hà Nội cho thấy 95,8% sinh viên điều dưỡng có kiến thức tốt về việc rửa tay Bên cạnh đó, 87,7% sinh viên có thái độ tích cực đối với vệ sinh tay Tuy nhiên, tỷ lệ tuân thủ các cơ hội rửa tay chỉ đạt 59,6%, trong đó tuân thủ tốt nhất diễn ra trước khi thực hiện các thủ thuật vô khuẩn.
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang đối với sinh viên Y6 hệ bác sĩ đa khoa Đại học y
Năm 2010, tại Hà Nội, chỉ có 47,5% sinh viên nắm rõ thời điểm và mục đích rửa tay với xà phòng Mặc dù 86,7% sinh viên nhận thức được lợi ích của việc rửa tay trong việc phòng tránh các bệnh đường phân-miệng, nhưng chỉ có 15,8% biết rằng việc này cũng giúp ngăn ngừa các bệnh đường hô hấp Tổng cộng, chỉ 19,2% sinh viên có kiến thức chung về rửa tay với xà phòng.
- Theo nghiên cứu tại trường Cao đẳng Y tế Tiền Giang năm 2014 với đề tài:
Nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành rửa tay thường quy của 150 sinh viên điều dưỡng năm cuối tại trường Cao đẳng Y tế Tiền Giang năm 2014 cho thấy 89,7% sinh viên hiểu rõ lợi ích của việc rửa tay thường xuyên, tuy nhiên chỉ có 42,5% thực hiện đầy đủ quy trình rửa tay.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng: Sinh viên đại học chính quy ngành Điều dưỡng khoá 10 đang thực tập lâm sàng tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định
- Địa điểm nghiên cứu: 3 khoa lâm sàng Nội Tổng hợp, Ngoại Tổng hợp và
Hồi sức tích cực của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định
- Thời gian nghiên cứu: từ 30/04/2018 đến 01/06/2018
1.2 Phương pháp nghiên cứu: Mô tả, cắt ngang
- Cỡ mẫu: Chọn 60 sinh viên khoá 10 đang thực tập lâm sàng
Sinh viên trực tiếp thực hiện rửa tay thường quy cho người bệnh tại thời điểm quan sát
Sinh viên đã được học và thực hành RTTQ tại phòng thực hành của trường
Sinh viên điều dưỡng khoá 10 đã hoàn thành xong học phần: điều dưỡng cơ sở
1, 2 và kiểm soát nhiễm khuẩn
Sinh viên đồng ý tham gia nghiên cứu
Các đối tượng VSBT không trong mục đích nghiên cứu ( NVYT, nhân viên ICT, người nhà, bệnh nhân,….)
Các sinh viên từ chối tham gia nghiên cứu
1.3 Phương pháp thu thập số liệu
Công cụ thu thập số liệu bao gồm hai mẫu phiếu khảo sát: Bảng kiểm đánh giá tuân thủ quy trình rửa tay (RTTQ) và Bảng kiểm quy trình RTTQ, được thực hiện theo hướng dẫn tại công văn số 751/BYT-ĐTr ngày 12-10-2007 về việc Hướng dẫn rửa tay thường quy 2007.
Kỹ thuật quan sát là phương pháp thu thập dữ liệu hiệu quả thông qua việc quan sát trực tiếp tại ba khoa lâm sàng Sinh viên sẽ điền vào các biểu mẫu đánh giá mà không biết thời điểm thực hiện việc quan sát, giúp đảm bảo tính khách quan trong quá trình thu thập thông tin.
Số lượng Số cơ hội rửa tay
Trong nghiên cứu này, các sinh viên nam và nữ được theo dõi trong ít nhất 5 cơ hội vệ sinh tay mỗi lần giám sát, với thời gian trung bình cho mỗi lần giám sát là 20 phút.
- Xử lý số liệu bằng phần mềm Exel 2016
Thực trạng thực hành RTTQ của sinh viên khoá 10 thực tập tại Bệnh viện Đa
Sau khi quan sát và đánh giá tỷ lệ RTTQ đối với 60 sinh viên với 235 cơ hội RTTQ trong thời gian từ 30/04/2018 đến 01/06/2018 Kết quả như sau:
Bảng 1: Phân bố đối tượng nghiên cứu
Giới tính Số lượng Số cơ hội rửa tay
Biểu đồ 1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tỷ lệ %
Nhận xét: Trong 60 đối tượng nghiên cứu có 9 nam (15%) với 48 cơ hội rửa tay (20.4%) và 51 nữ (85%) với 187 cơ hội rửa tay (79.6%)
Bảng 2: Kiến thức về quy trình RTTQ của sinh viên
Quy trình Số lượng Tỉ lệ (%)
Nêu đúng từ 3 đến 5 bước 25 41,7
Kết quả khảo sát cho thấy kiến thức của sinh viên về quy trình RTTQ khá khả quan, với 50% sinh viên nêu đúng và đầy đủ cả 6 bước Đồng thời, 41,7% sinh viên có thể nêu từ 3 đến 5 bước đúng, trong khi chỉ có 8,3% sinh viên nêu đúng dưới 3 bước.
Bảng 3: Kiến thức về VST theo 5 thời điểm
Thời điểm Số lượng Tỷ lệ (%)
Trước khi tiếp xúc với bệnh nhân 52 86,7
Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn 54 90
Sau khi thăm khám bệnh nhân 56 93,3
Sau khi tiếp xúc với chất tiết/ chất thải của bệnh nhân 58 96,7
Sau khi tiếp xúc với vật dụng xung quanh bệnh nhân 50 83,3
Nghiên cứu cho thấy sinh viên có kiến thức vững về thời điểm vệ sinh tay, với hơn 80% sinh viên trả lời chính xác các thời điểm cần thực hiện rửa tay thường quy (RTTQ).
Bảng 4: Thực hiện Quy trình RTTQ
Quy trình Số lượng Tỷ lệ (%)
Thực hiện đúng, đủ 6 bước 10 16,7
Thực hiện đúng từ 3-5 bước 28 46,7
Thực hiện đúng dưới 3 bước 22 36,6
Trong một nghiên cứu về quy trình RTTQ, chỉ có 10 trong số 60 sinh viên (16,7%) thực hiện đầy đủ 6 bước Trong khi đó, 28 sinh viên (46,7%) hoàn thành từ 3 đến 5 bước, và 22 sinh viên (36,6%) chỉ thực hiện dưới 3 bước.
Bảng 5: Thực hành vệ sinh tay theo 5 thời điểm
Thời điểm Cơ hội Thực hiện Tỷ lệ (%)
Trước khi tiếp xúc với bệnh nhân 55 12 21,8
Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn 40 8 20
Sau khi thăm khám bệnh nhân 55 18 32,7
Sau khi tiếp xúc với dịch tiết/ chất thải của bệnh nhân 45 20 44,4
Sau khi tiếp xúc với vật dụng xung quanh bệnh nhân 40 6 15
Nhận xét: Có 5 thời điểm RTTQ tuy nhiên sinh viên không thực hiện đúng cũng như tuân thủ đúng 5 thời điểm:
- Thời điểm trước khi tiếp xúc với bệnh nhân có 55 cơ hội rửa tay nhưng viên viên chỉ thực hiên 12 lần tương đương với 21,8%
- Thời điểm trước khi làm thủ thuật vô khuẩn có 40 cơ hội rửa tay nhưng sinh viên chỉ thực hiện 8 lần thương đương 20%
- Thời điểm sau khi thăm khám bệnh nhân có 55 cơ hội rửa tay nhưng sinh viên chỉ thực hiện 18 lần tương đương 32,7%
- Thời điểm sau khi tiếp xúc với dịch tiết/ chất thải của người bệnh có số lần rửa tay/ số cơ hội cao nhất, chiếm 44,4%
- Thời điểm sau khi tiếp xúc với vật dụng xung quanh bệnh nhân có số lần rửa tay/ số cơ hội thấp nhất, chiếm 15%
Và tổng thể có 235 cơ hội rửa tay nhưng sinh viên chỉ thực hiện 64 lần (27,2%)
Hình 4: Hình ảnh sinh viên
Hình 5: Sinh viên thực hi khoa Ngoại tổng h
Một Số Hình Ảnh Thực Tế nh sinh viên thực hiện 6 bước trong quy trình RTTQ c hiện RTTQ tại ng hợp
Hình 6: Sinh viên thực hi khoa Nội tổng h c trong quy trình RTTQ c hiện RTTQ tại ng hợp
Các ưu điểm và tồn tại
VST là một biện pháp đơn giản với quy trình thực hiện gồm 6 bước dễ dàng, mà mọi sinh viên đều có thể nắm bắt và thực hành theo 5 thời điểm quan trọng Kết quả khảo sát cho thấy 50% sinh viên có thể nêu đúng và đủ 6 bước trong quy trình RTTQ, trong khi hơn 40% sinh viên nhớ được từ 3-5 bước Thời gian thực hiện VST cũng rất ngắn, chỉ từ 30-60 giây với xà phòng và nước, hoặc từ 15-20 giây với dung dịch chứa cồn, giúp tiết kiệm thời gian cho người thực hiện.
Sinh viên nhận thức rõ tầm quan trọng của vệ sinh tay (VST) như một biện pháp kinh tế và hiệu quả trong việc giảm thiểu tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện Nhiều nghiên cứu thực tế, cả trong nước và quốc tế, đã chứng minh hiệu quả cao của VST trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người bệnh.
Sinh viên chưa tuân thủ đúng quy trình rửa tay theo yêu cầu, dẫn đến việc thực hiện các bước chưa chính xác và không hiệu quả Nhiều sinh viên thực hiện rửa tay mang tính hình thức, thiếu sót trong các bước cần thiết và không đáp ứng đủ thời gian quy định Việc nhầm lẫn giữa các bước trong quy trình và không tuân thủ đủ các thời điểm rửa tay cũng là vấn đề cần khắc phục.
Các phương tiện rửa tay theo quy chuẩn tại ba khoa được khảo sát còn hạn chế và không đạt yêu cầu của Bộ Y tế Cụ thể, lavabo rửa tay bẩn và không đảm bảo vệ sinh; xà phòng cùng dung dịch rửa tay chưa đạt tiêu chuẩn; không có khăn lau tay dùng một lần theo quy định; và chưa có tờ hướng dẫn quy trình rửa tay và các thời điểm cần thực hiện tại các vị trí rửa tay.
Nguyên nhân
Bệnh viện và nhà trường hiện chưa có quy định rõ ràng về việc xử lý sinh viên không tuân thủ vệ sinh tay, dẫn đến việc sinh viên tỏ ra thờ ơ và thiếu quan tâm đến vấn đề này Tuy nhiên, việc tăng cường giám sát có thể khuyến khích sinh viên nâng cao ý thức về vệ sinh tay Đặc biệt, nhân viên y tế và giảng viên tại các khoa lâm sàng cũng cần chú trọng hơn trong công tác kiểm tra và nhắc nhở sinh viên về tầm quan trọng của vệ sinh tay.
Hiện nay, bệnh viện vẫn chưa trang bị đầy đủ dung dịch sát khuẩn tại các buồng bệnh, đầu giường và hành lang khu vực phòng khám Dung dịch sát khuẩn tay nhanh chủ yếu là cồn 70 độ, dẫn đến tình trạng khô da sau khi sử dụng và có thể gây kích ứng nhẹ cho một số người.
- Ý thức tự giác thực hiện RTTQ của sinh viên chưa cao
- Việc truyền thông, cũng như tạo thêm các buổi tập huấn về RTTQ còn ít, chưa tạo được thói quen RTTQ tuân thủ 5 thời điểm
- Số lượng bệnh nhân đông đúc, quá tải cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện VST của sinh viên trong khi thực tập.
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Về Công tác quản lý
Lãnh đạo bệnh viện và phòng Quản lý chất lượng cần phối hợp với hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn để tăng cường giám sát sinh viên trong thực hành lâm sàng Bên cạnh đó, trường học cần có biện pháp xử lý và răn đe đối với sinh viên không tuân thủ quy định vệ sinh tay Điều này sẽ tạo nền tảng để việc vệ sinh tay trở thành thói quen trong hoạt động chăm sóc y tế.
Khoa kiểm soát nhiễm khuẩn đã tăng cường giám sát thông qua việc sử dụng bảng kiểm và kết hợp với mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn để thực hiện các cuộc kiểm tra định kỳ Hành động này không chỉ nâng cao nhận thức cho sinh viên mà còn giúp nhân viên y tế tại các khoa tuân thủ nghiêm ngặt hơn trong việc thực hiện vệ sinh tay.
Trách nhiệm quản lý của nhà trường và giáo viên hướng dẫn tại các khoa lâm sàng cần được nâng cao Họ phải trực tiếp đôn đốc và nhắc nhở sinh viên thực hiện vệ sinh tay theo đúng 5 thời điểm được khuyến cáo bởi Bộ Y tế.
Về giáo dục truyền thông
Nhân Ngày Rửa Tay Thế Giới, Tổ chức Y tế Thế giới đã phát động chiến dịch “Bảo vệ sự sống, hãy vệ sinh tay” Chúng tôi thực hiện truyền thông và tuyên truyền thông qua các tranh ảnh tại các khoa phòng, buồng bệnh và trong khuôn viên bệnh viện nhằm nâng cao ý thức về vệ sinh tay.
Để nâng cao kiến thức về vệ sinh tay cho sinh viên, cần tổ chức các buổi tập huấn và đào tạo bài bản Qua đó, sinh viên sẽ nắm rõ quy trình và các thời điểm quan trọng trong việc vệ sinh tay, từ đó cải thiện sức khỏe và phòng ngừa bệnh tật hiệu quả.
- Chuẩn hoá nhận thức về thái độ cho sinh viên bằng cách:
Giúp sinh viên hiểu rõ về quy trình RTTQ trong chăm sóc và điều trị bệnh nhân là nhiệm vụ quan trọng cần thực hiện đầy đủ và tự giác Khi sinh viên thao tác sai hoặc không đủ thời gian trong quá trình RTTQ, họ sẽ được nhắc nhở và thực hiện lại để đảm bảo chất lượng công việc.
Tại trường, việc tổ chức các cuộc thi văn hóa, văn nghệ, thi kịch nói và hùng biện liên quan đến chủ đề vệ sinh tay giữa các lớp sẽ không chỉ nâng cao công tác tuyên truyền mà còn giúp hình thành thói quen vệ sinh tay trong học sinh Điều này sẽ góp phần xây dựng "văn hóa vệ sinh tay" và tuân thủ 5 thời điểm rửa tay, trở thành hoạt động thường xuyên trong các năm học của nhà trường.