CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận về chăm sóc và các mô hình phân công chăm sóc người bệnh
1.1.1 Khái niệm về CSNB trong bệnh viện
Theo Thông tư 07/2011/TT-BYT của Bộ Y tế, chăm sóc người bệnh trong bệnh viện bao gồm việc hỗ trợ và đáp ứng các nhu cầu cơ bản như duy trì hô hấp, tuần hoàn, thân nhiệt, ăn uống, bài tiết, tư thế, vận động, vệ sinh cá nhân, ngủ nghỉ, chăm sóc tâm lý, hỗ trợ điều trị và phòng ngừa các nguy cơ từ môi trường bệnh viện.
1.1.2 Khái niệm CSNB toàn diện trong bệnh viện
Chăm sóc người bệnh toàn diện trong bệnh viện hiện vẫn chưa có định nghĩa cụ thể Tuy nhiên, theo khái niệm về chăm sóc người bệnh, đây được coi là giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc bệnh nhân.
Trên phương diện là người cung cấp dịch vụ y tế cho rằng, CSNB toàn diện là
Dịch vụ y tế tổng hợp được thực hiện đồng bộ bởi bác sĩ, dược sĩ và các cán bộ y tế trong bệnh viện, đồng thời có sự tham gia của người bệnh Định nghĩa này nhấn mạnh rằng chăm sóc sức khỏe toàn diện không chỉ là trách nhiệm của điều dưỡng viên mà còn khẳng định quyền của người bệnh trong việc tham gia và đưa ra quyết định về điều trị và chăm sóc cho bản thân Người bệnh hiện nay có thể thảo luận cởi mở hơn với cán bộ y tế, không còn phụ thuộc hoàn toàn vào bác sĩ trong việc quyết định phương pháp điều trị.
Chăm sóc toàn diện cho người bệnh bao gồm việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản về thể chất, tinh thần và xã hội trong cuộc sống hàng ngày Điều này bao hàm các yếu tố như ăn, mặc, ở, vệ sinh cá nhân, giao tiếp với nhân viên y tế, đặc biệt là bác sĩ và điều dưỡng, cũng như tư vấn sức khỏe và biện pháp phòng bệnh Những nhu cầu thiết yếu này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều trị và sự hài lòng của người bệnh, mà còn nâng cao uy tín của cán bộ y tế, giảm thiểu tai biến, biến chứng, tỷ lệ tử vong và rút ngắn thời gian điều trị.
Định nghĩa trên bổ sung cho nhau, làm rõ trách nhiệm của tất cả cán bộ y tế trong bệnh viện trong việc thực hiện Chăm sóc sức khỏe toàn diện (CSNB).
Hình 1.2 Mô hình tổ chức chăm sóc người bệnh toàn diện
1.1.3 Phân cấp chăm sóc người bệnh [9][22]
Chăm sóc cấp I dành cho những bệnh nhân nặng, trong tình trạng nguy kịch, hôn mê hoặc gặp phải suy hô hấp, suy tuần hoàn Những bệnh nhân này cần phải nằm bất động và có thể có những yêu cầu đặc biệt theo chuyên khoa.
Chăm sóc cấp II dành cho những bệnh nhân gặp khó khăn và hạn chế trong việc thực hiện các hoạt động hàng ngày Những bệnh nhân này cần được theo dõi và hỗ trợ từ đội ngũ cán bộ y tế để đảm bảo sức khỏe và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Chăm sóc cấp III: là người bệnh tự thực hiện được các hoạt động hàng ngày và cần có sự hướng dẫn chăm sóc của cán bộ y tế
1.1.4 Nguyên tắc chăm sóc người bệnh trong bệnh viện[9]
Thông tư 07/2011/TT-BYT của Bộ Y tế quy định chăm sóc người bệnh gồm 3 nguyên tắc cơ bản sau:
- Người bệnh là trung tâm của công tác chăm sóc
- Các hoạt động chăm sóc, theo dõi đƣợc thực hiện tại bệnh viện và ĐDV, hộ sinh viên chịu trách nhiệm
- Các can thiệp phải dựa trên cơ sở các yêu cầu chuyên môn và sự đánh giá nhu cầu của mỗi người bệnh để chăm sóc phục vụ
1.1.5 Nhu cầu cơ bản của con người
Nhu cầu cơ bản của con người bao gồm các yếu tố thiết yếu để duy trì sự sống và phát triển Những nhu cầu này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự tồn tại và sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân.
Theo Abraham Maslow, nhu cầu cơ bản của con người được phân chia thành 5 bậc, bắt đầu từ nhu cầu sinh lý, tiếp theo là nhu cầu an toàn, nhu cầu tình cảm, nhu cầu được tôn trọng và cuối cùng là nhu cầu tự thể hiện Con người thường chỉ phát sinh nhu cầu mới khi những nhu cầu ở các bậc thấp hơn đã được thỏa mãn.
Theo tháp nhu cầu của Maslow, Virginia Henderson đã xác định 14 nhu cầu cơ bản của mỗi cá nhân, bao gồm: thở, ăn uống, bài tiết, ngủ và nghỉ ngơi, mặc và thay đổi quần áo, duy trì thân nhiệt, vệ sinh sạch sẽ, tránh nguy hiểm, giao tiếp, tôn trọng, làm việc, vui chơi, giải trí và học tập.
Chăm sóc điều dưỡng, theo Hội Điều dưỡng Việt Nam, là quá trình chuyên môn mà người điều dưỡng thực hiện đối với bệnh nhân từ khi nhập viện cho đến khi ra viện Nội dung chăm sóc bao gồm các khía cạnh như chăm sóc thể chất, tinh thần, dinh dưỡng, lập kế hoạch chăm sóc, theo dõi tình trạng sức khỏe, sử dụng thuốc, phục hồi chức năng và giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân Quy trình này bắt đầu ngay khi bệnh nhân đến khám và kéo dài cho đến khi họ ra viện hoặc không còn sống.
Các can thiệp của nhân viên y tế cần phải tập trung vào việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của bệnh nhân, những nhu cầu này sẽ thay đổi theo tình trạng bệnh và đặc điểm cá nhân của từng người Để đảm bảo hiệu quả chăm sóc, các can thiệp này phải dựa trên yêu cầu chuyên môn và sự đánh giá nhu cầu cụ thể của từng bệnh nhân.
1.1.6 Các mô hình phân công chăm sóc người bệnh trong bệnh viện
Hiện tại các bệnh viện, trung tâm y tế và viện nghiên cứu có giường bệnh tại Việt Nam đang áp dụng các mô hình chăm sóc sau:
1.1.6.1 Phân công điều dưỡng chăm sóc chính Đây là mô hình cổ điển nhất gồm một ĐDV đƣợc phân công chịu trách nhiệm chính về nhận định, lập kế hoạch chăm sóc, tổ chức thực hiện và theo dõi đánh giá cho một số người bệnh nằm điều trị tại viện cùng với sự trợ giúp của các điều dưỡng viên khác Mô hình đảm bảo tính toàn diện nhƣng không liên tục vì ĐDV bị thay đổi công việc hàng ngày [6][4]
Mô hình chăm sóc bệnh nhân được áp dụng từ những năm 1940 trong chiến tranh thế giới thứ II, với nhóm gồm 2-3 điều dưỡng viên (ĐDV) phụ trách chăm sóc một số bệnh nhân tại khoa Điều dưỡng trưởng có trách nhiệm lập kế hoạch chăm sóc cho tất cả bệnh nhân trong nhóm và hướng dẫn các thành viên thực hiện Tuy nhiên, mô hình này không có sự phối hợp giữa bác sĩ và các cán bộ y tế khác.
1.1.6.3 Phân công theo công việc
Mô hình chăm sóc bệnh nhân lấy công việc làm trung tâm đã được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam trước năm 1995, đặc biệt hiệu quả trong các tình huống cấp cứu hàng loạt hoặc tại các chuyên khoa sâu khi bệnh nhân mắc cùng một loại bệnh Trong mô hình này, mỗi bệnh nhân sẽ được nhiều điều dưỡng chăm sóc, nhưng mỗi điều dưỡng chỉ đảm nhận một nhiệm vụ cụ thể như tiêm, đo huyết áp, hay băng bó vết thương.
1.1.6.4 Mô hình chăm sóc theo đội
Cơ sở thực tiễn: các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam về chăm sóc người bệnh theo đội
1.2.1 Các nghiên cứu về chăm sóc người bệnh theo đội trên thế giới Để nâng cao chất lƣợng CSNB, các nhà khoa học trên thế giới đã tiến hành các nghiên cứu về sự phối hợp làm việc giữa các nhân viên y tế đặc biệt là giữa Bác sĩ, Điều dƣỡng và Dƣợc sĩ để tìm hiểu hiệu quả của việc áp dụng mô hình CSNB theo đội
Năm 2007, Christopher R Friese và cộng sự đã thực hiện một cuộc điều tra tại Los Angeles, Mỹ, để nghiên cứu sự phối hợp giữa điều dưỡng, y sĩ và bác sĩ trong điều trị bệnh nhân ung thư vú Kết quả cho thấy, điều dưỡng và y sĩ làm việc hiệu quả hơn với bác sĩ có trên 10 năm kinh nghiệm (OR=1,94) Đặc biệt, các bác sĩ chuyên khoa ung thư có mức độ phối hợp cao hơn so với bác sĩ phẫu thuật (OR=2,63) Hơn nữa, những bác sĩ điều trị nhiều bệnh nhân ung thư vú cũng có khả năng phối hợp tốt hơn với điều dưỡng và y sĩ (OR=0,57).
Năm 2008, một nghiên cứu tại Đại học Ottawa, Canada, đã chỉ ra rằng việc kết hợp bác sĩ vào các nhóm chăm sóc gia đình giúp tiết kiệm thời gian trong việc đánh giá thuốc, tăng cường cảm giác an toàn trong điều trị và cải thiện khả năng tìm kiếm phương pháp điều trị kịp thời cho bệnh nhân.
Năm 2010, Jonathan C Britell nghiên cứu mô hình làm việc của các điều dưỡng viên và y sỹ trong hỗ trợ điều trị ung thư tại bang Washington, Mỹ Kết quả cho thấy 68% kỹ thuật chăm sóc bệnh nhân cần sự trợ giúp của điều dưỡng viên hoặc y sỹ Đặc biệt, hơn 70% điều dưỡng viên có khả năng làm việc độc lập, theo dõi bệnh nhân ngoại trú, thực hiện tiêm truyền và tư vấn sức khỏe hiệu quả hơn so với y sỹ.
Năm 2016, Stephanie E Hastings và cộng sự đã khảo sát mô hình CSNB tại Sở Y tế Alberta, Canada, phỏng vấn 15 cán bộ y tế và 37 bệnh nhân Mặc dù cỡ mẫu không lớn, nhưng hơn 80% cán bộ y tế phản hồi tích cực về hiệu quả cải thiện chất lượng chăm sóc, và 90% cho biết vai trò của các thành viên trong đội được hiểu và hỗ trợ rõ ràng hơn Về phía bệnh nhân, chất lượng chăm sóc từ bác sĩ, điều dưỡng và dược sĩ được đánh giá cao với tỷ lệ lần lượt là 86,5%; 91,9%; và 88,2% Ngoài ra, 80% bệnh nhân và 53,8% người nhà thường xuyên tham gia vào quyết định chăm sóc và điều trị, trong khi thái độ của cán bộ y tế và tư vấn về cách điều trị cũng được bệnh nhân đánh giá cao.
1.2.2 Các nghiên cứu về chăm sóc người bệnh theo đội tại Việt Nam
Tại Việt Nam, mô hình chăm sóc sức khỏe nhóm và theo đội đã được triển khai từ những năm 1990 Để khắc phục những hạn chế của mô hình hoạt động nhóm, từ năm 1998, Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển - Uông Bí, Quảng Ninh đã tiến hành nghiên cứu thí điểm mô hình chăm sóc theo đội tại khối Ngoại.
Năm 2004, tác giả Trần Quang Huy và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu can thiệp để đánh giá kết quả ban đầu trong việc triển khai mô hình chăm sóc Kết quả cho thấy, tỷ lệ người bệnh trong nhóm áp dụng mô hình có nhu cầu chăm sóc được đáp ứng cao hơn so với nhóm không áp dụng, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p