CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Rối loạn trầm cảm
1.2.1 Khái niệm rối loạn trầm cảm (RLTC):
Thuật ngữ “trầm cảm” chỉ mới được sử dụng từ thế kỷ XVIII, nhưng bệnh lý này đã được nghiên cứu từ thời Hippocrates (460-377 trước Công nguyên), người đã mô tả trạng thái “sầu uất” (melancholie).
Bệnh hưng cảm và sầu uất đã được mô tả từ năm 1686, và đến thế kỷ XVIII, các tác giả đã xác định rõ hai trạng thái bệnh lý này Cả hai tình trạng đều có xu hướng tiến triển mạn tính và dễ tái phát, và thường xuất hiện xen kẽ ở một bệnh nhân, điều này được cho là ngẫu nhiên.
Vào năm 1899, E Kraepelin đã tổng hợp các biểu hiện lâm sàng và tính chất tiến triển của những bệnh tâm thần độc lập như "bệnh thao cuồng" và "bệnh sầu uất", mà các nhà tâm thần học trước đó đã mô tả, thành một bệnh chung.
“loạn thần hưng-trầm cảm” (psychose – maniaco – depressive)
Từ những năm 60 – 70 của thế kỷ XX, khái niệm về trầm cảm đã được tách thành mục riêng trong bảng phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 8 và lần thứ 9 Năm 1992, Tổ chức Y tế Thế giới đã xuất bản Bảng phân loại Quốc tế lần thứ 10, trong đó cụm từ “bệnh trầm cảm” được thay thế bằng “rối loạn trầm cảm” nhằm phản ánh đúng bản chất và nguyên nhân bệnh sinh của tình trạng này.
Rối loạn trầm cảm là một dạng rối loạn cảm xúc với nhiều biểu hiện khác nhau, chủ yếu là sự ức chế trong hoạt động tâm thần, có thể kèm theo lo âu và triệu chứng cơ thể Các triệu chứng chính bao gồm cảm xúc, tư duy và hành vi bị ức chế, dẫn đến sự thay đổi khí sắc, giảm khả năng liên tưởng, phán đoán, và năng lượng, gây ra cảm giác mệt mỏi Những rối loạn này thường tái diễn và thường khởi phát liên quan đến các sự kiện hoặc hoàn cảnh gây stress Mặc dù các hội chứng cơ thể có thể xuất hiện nhưng không ảnh hưởng đến khả năng chẩn đoán rối loạn trầm cảm.
Rối loạn trầm cảm là một vấn đề phổ biến trong thực hành lâm sàng, với tỷ lệ mắc bệnh khác nhau tùy theo từng nghiên cứu và quốc gia Tại Hoa Kỳ, Anh, Đức, Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, tần suất mắc dao động từ 5-6% dân số, trong khi tỷ lệ mắc bệnh suốt đời là 8% Ở Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ hiện mắc rối loạn trầm cảm dao động từ 2,8% đến 8,35% dân số.
1.2.2 Phân loại rối loạn trầm cảm
Trầm cảm, được gọi đầu tiên là "melancholia" từ thời Hippocrates, vẫn còn gây tranh cãi trong việc phân loại các rối loạn trầm cảm Nhiều tác giả cho rằng có những vấn đề khó xác định và tách biệt trong phân loại này Dưới đây là một số quan điểm phân loại khác nhau về rối loạn trầm cảm.
- Quan điểm của ông Kendell: Ông phân ra hai loại trầm cảm:
+ Loại A: Trầm cảm có thay đổi khí sắc trong ngày
+ Loại B: Trầm cảm thay đổi khí sắc giữa các ngày
- Quan điểm của Hamilton: đưa ra 5 phân lớp trầm cảm:
+ Phân lớp 1: trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực, tiền sử có giai đoạn hưng cảm
+ Phân lớp 2: trầm cảm trong rối loạn cảm xúc đơn cực, trong tiền sử có các giai đoạn trầm cảm
+ Phân lớp 3: trầm cảm có hoang tưởng sầu uất
+ Phân lớp 4: giai đoạn trầm cảm điển hình, tiền sử không có rối loạn cảm xúc
+ Phân lớp 5: giai đoạn trầm cảm nhẹ, thường có bệnh lý cơ quan kèm theo
- Quan điểm của Pinel và Kraepelin: hai Ông đã đưa ra ba cách xếp loại chính, hiện nay đang được áp dụng rộng rãi:
Cách một: dựa vào bệnh nguyên người ta chia trầm cảm làm ba loại: trầm cảm nội sinh, trầm cảm tâm sinh, trầm cảm thực tổn
Cách hai: dựa trên đặc điểm triệu chứng học chia ra trầm cảm không có loạn thần và trầm cảm có loạn thần
Trầm cảm được phân loại thành hai loại chính: trầm cảm đơn cực và trầm cảm lưỡng cực, dựa trên giai đoạn, thời gian và đặc điểm mắc bệnh trong cuộc đời của mỗi người.
- Phân loại rối loạn trầm cảm hiện nay: theo ICD 10, rối loạn trầm cảm được phân theo nhiều khía cạnh khác nhau
+ Phân loại theo mức độ: có ba mức
+ Phân loại theo sự hiện diện của triệu chứng loạn thần: có hai loại
* Giai đoạn trầm cảm không có triệu chứng loạn thần
* Giai đoạn trầm cảm có triệu chứng loạn thần + Phân loại dựa vào bệnh lý kết hợp và sự hiện diện theo thời gian
* Trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực
* Trầm cảm đơn cực: bao gồm:
+ Phân loại theo sự hiện diện của các triệu chứng cơ thể:
* Trầm cảm không có các triệu chứng cơ thể
* Trầm cảm có các triệu chứng cơ thể + Phân loại theo nguyên nhân:
- Triệu chứng rối loạn trầm cảm:
+ Ba triệu chứng đặc trưng gồm:
* Mất mọi quan tâm thích thú
* Giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động + Bảy triệu chứng khác gồm:
* Giảm sút sự tập trung và sự chú ý
* Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin
* Những ý tưởng bị tội và không xứng đáng
* Nhìn vào tương lai ảm đạm, bi quan
* Những ý tưởng và hành vi tự hủy hoại hoặc tự sát
* Ăn kém ngon miệng, đắng miệng, chán ăn
- Chẩn đoán rối loạn trầm cảm:
+ Tiêu chuẩn triệu chứng: được chia làm 3 mức độ:
* Mức độ nhẹ: ít nhất có 2 trong 3 triệu chứng đặc trưng và ít nhất có 2 trong 7 triệu chứng khác ở trên, không có triệu chứng nào ở mức độ nặng
Mức độ vừa được xác định khi có ít nhất 2 trong 3 triệu chứng đặc trưng và ít nhất 3 trong 7 triệu chứng khác Nhiều triệu chứng sẽ biểu hiện rõ ràng, và nếu không rõ ràng thì sẽ có sự xuất hiện của nhiều triệu chứng khác nhau.
Mức độ nặng của bệnh được xác định khi bệnh nhân có đủ 3 triệu chứng đặc trưng và ít nhất 4 trong 7 triệu chứng khác Nếu bệnh nhân không thể mô tả đầy đủ triệu chứng do tình trạng nặng, vẫn được ghi nhận chuẩn đoán Lưu ý rằng mức độ nặng không xuất hiện trong rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm.
Triệu chứng cần kéo dài ít nhất 2 tuần để được xem xét, tuy nhiên, trong những trường hợp triệu chứng đặc biệt nặng và khởi phát nhanh, thời gian này có thể ngắn hơn 2 tuần.
Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm
1.3.1 Các quan niệm về mối liên quan giữa lo âu và trầm cảm
Trước đây, lo âu và trầm cảm được coi là hai biểu hiện khác nhau của cùng một rối loạn Nhiều tác giả đã đề xuất khái niệm về một “trục liên tục” giữa rối loạn lo âu và rối loạn trầm cảm J Angst và Dobler – A Mikola đã kết luận rằng quan điểm này không thể bị bác bỏ Các nghiên cứu về di truyền và sinh lý thần kinh đã củng cố nhận định rằng hai rối loạn này có mối liên hệ chặt chẽ, không chỉ trong bệnh cảnh lâm sàng mà còn về mặt sinh lý.
Parker, Mendlewicz và cộng sự đã trích dẫn các nghiên cứu cho thấy có sự mâu thuẫn trong việc phân loại trầm cảm và lo âu là hai bệnh riêng biệt hay là một phần của trục liên tục với cơ địa di truyền chung Một số nghiên cứu chỉ ra rằng có một tỷ lệ nhất định của yếu tố di truyền ảnh hưởng đến rối loạn trầm cảm, kết hợp với điều kiện môi trường.
Nhiều nghiên cứu từ cả nội viện và ngoại viện đã chỉ ra rằng việc gộp hai rối loạn lo âu và trầm cảm thành một là không hợp lý.
Từ những năm 60, 70 của thế kỷ XX, lo âu và trầm cảm được công nhận là hai bệnh lý riêng biệt, với sự khác biệt rõ rệt trong phương pháp điều trị Rối loạn trầm cảm chủ yếu được điều trị bằng thuốc chống trầm cảm, trong khi rối loạn lo âu thường sử dụng thuốc giải lo âu Sự phát minh ra benzodiazepine đã chứng minh hiệu quả trong điều trị rối loạn lo âu, củng cố quan điểm tách biệt hai rối loạn này Nghiên cứu của Kendler và cộng sự trên nhóm lớn các cặp sinh đôi đã chỉ ra mối liên hệ giữa yếu tố di truyền và triệu chứng lâm sàng, khẳng định rằng trầm cảm và lo âu là hai nhóm rối loạn độc lập.
Nghiên cứu của L.A Clark và D.Watson cho thấy 80% trường hợp trong cộng đồng mắc bệnh lý rối loạn lo âu và trầm cảm phối hợp, trong khi tỷ lệ này theo Kendler là 67,8% M.Zimmerman cũng chỉ ra rằng 2/3 bệnh nhân trầm cảm hiện tại có kèm theo rối loạn lo âu, và nếu tính cả tiền sử, con số này còn cao hơn.
Mặc dù lo âu và trầm cảm được phân loại thành hai rối loạn riêng biệt, sự xuất hiện đồng thời và phổ biến của các triệu chứng này trong thực hành lâm sàng, đặc biệt là trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu, đã thúc đẩy việc xem xét lại quan điểm về mối liên hệ liên tục giữa hai rối loạn này.
ICD 10 đưa ra chuẩn đoán rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm (F41.2) đã đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi trong thực hành lâm sàng, giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong chẩn đoán, điều trị, tiên lượng và chăm sóc người bệnh
1.3.2 Đặc điểm rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm:
1.3.2.1 Liên quan triệu chứng học giữa rối loạn lo âu và rối loạn trầm cảm:
Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm, theo ICD 10, được phân loại trong các rối loạn tâm căn liên quan đến stress, với mã chẩn đoán F41.2 Tỷ lệ mắc bệnh này ước tính khoảng 1% trong dân số chung, nhưng nghiên cứu của B.J Sadock cho thấy nó chiếm từ 10% đến 20% trong số bệnh nhân nội trú và lên đến 50% tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe tâm thần ban đầu Qua thực tiễn lâm sàng, triệu chứng của rối loạn này thường đan xen giữa lo âu và trầm cảm, gây khó khăn trong việc phân định rõ ràng Nghiên cứu cũng chỉ ra một số mối liên quan đáng chú ý trong bệnh học của rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm.
Triệu chứng rối loạn lo âu thường xuất hiện trước triệu chứng rối loạn trầm cảm, điều này gợi ý rằng rối loạn lo âu có thể là dấu hiệu sớm của giai đoạn trầm cảm sau này.
W Hiller nghiên cứu 146 trường hợp được chẩn đoán là rồi loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm thấy triệu chứng của lo âu thường xuất hiện trước, biểu hiện ban đầu bằng các triệu chứng cơ thể không đặc trưng, lo lắng mơ hồ, sau
2 đến 3 tuần dần dần xuất hiện các triệu chứng thần kinh tự trị, các triệu chứng rối loạn trầm cảm xuất hiện một tuần sau đó
Zinbarg, Weisberg và cộng sự đã chỉ ra rằng có tới 73 triệu trường hợp rối loạn trầm cảm và lo âu xảy ra đồng thời Thứ tự và mức độ xuất hiện của các triệu chứng này phụ thuộc vào từng cá nhân, trong đó các triệu chứng rối loạn lo âu thường xuất hiện trước.
Liên quan về mức độ và sô lượng triệu chứng:
Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm thường biểu hiện triệu chứng trầm cảm ở mức độ nhẹ, với triệu chứng nặng hiếm khi xuất hiện Ngược lại, triệu chứng lo âu có thể xuất hiện với nhiều mức độ khác nhau Nghiên cứu của Clayton P.J, Grove W.M và cộng sự cho thấy có ít nhất hai triệu chứng lo âu trở lên trong tình trạng này.
Fawcett và cộng sự đã phát hiện rằng 46,44% bệnh nhân trải qua triệu chứng lo âu cơ thể, bao gồm các dấu hiệu như kích thích vùng ngực, đau hoặc căng cơ Đồng thời, 52% bệnh nhân cũng gặp phải triệu chứng lo âu tâm lý, với các biểu hiện như dễ bị giật mình và khó ngủ.
Nghiên cứu của S Clarkson và cộng sự tại New Zealand cho thấy tỷ lệ triệu chứng trong rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm rất cao, với 60% người tham gia gặp khó khăn trong việc tập trung, 66% cảm thấy mệt mỏi và không thể thư giãn, 50% gặp khó khăn trong giấc ngủ và 50% cảm thấy đau hoặc căng cơ Đặc biệt, 78% cho biết họ trải qua căng thẳng tâm lý, trong khi 51% cảm thấy kích thích Thêm vào đó, nghiên cứu của L.A Clark và D.Watson chỉ ra rằng 37,1% người bị rối loạn tiêu hóa, 28,1% gặp rối loạn nhịp tim, 22,9% có rối loạn thần kinh cơ và 11,4% bị rối loạn giấc ngủ.
1.3.2.2 Đặc điểm lâm sàng rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm theo ICD 10: a) Đặc điểm chung:
Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm được chẩn đoán khi bệnh nhân có triệu chứng của cả hai rối loạn, nhưng không đủ nghiêm trọng để chẩn đoán riêng biệt Các triệu chứng của rối loạn này thường nhẹ và không kéo dài.
Một số nguyên nhân rối loạn lo âu thường gặp
1.4.1 Sự thay đổi bất thường chất hóa học trong não có thể là nguyên nhân dẫn đến rối loạn lo âu
Nhiều nghiên cứu cho thấy sự thiếu hụt các chất dẫn truyền thần kinh như serotonine, GABA và norepinephrine là nguyên nhân chính gây ra rối loạn lo âu Khi nồng độ các chất này giảm, mạng lưới thông tin trong não bị ảnh hưởng, dẫn đến phản ứng không thích hợp trong nhiều tình huống, từ đó khởi phát cảm giác lo âu ở nhiều người.
1.4.2 Một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh lo âu
Rối loạn lo âu không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sinh học mà còn bởi di truyền, môi trường sống và tính cách Di truyền có thể đóng vai trò quan trọng, nhưng việc có người thân mắc bệnh tâm thần không nhất thiết đồng nghĩa với việc bạn sẽ mắc rối loạn lo âu Các yếu tố hoàn cảnh sống và cá nhân cũng có ảnh hưởng lớn Thêm vào đó, việc thường xuyên trải qua căng thẳng do các sự kiện kéo dài có thể dẫn đến rối loạn lo âu, với nhiều tình huống gây căng thẳng khác nhau.
- Áp lực công việc hoặc thay đổi công việc
- Thay đổi chỗ ở, môi trường sống
- Mang thai và sinh con
- Mâu thuẫn gia đình và các mối quan hệ
- Cú sốc tình cảm lớn hoặc chấn thương
Mất mát người thân và tài sản có thể dẫn đến những vấn đề sức khỏe thể chất nghiêm trọng Các bệnh mạn tính khó điều trị thường gây ra tâm lý lo lắng cho nhiều người Những bệnh lý phổ biến liên quan đến rối loạn lo âu bao gồm các tình trạng như trầm cảm, rối loạn lo âu tổng quát và rối loạn hoảng sợ.
- Rối loạn nội tiết tố (ví dụ hoạt động quá mức tuyến giáp,phụ nữ giai đoạn tiền mãn kinh,…)
- Rối loạn tiêu hóa đau dạ dày
Sử dụng chất gây nghiện như rượu, cần sa và thuốc an thần trong thời gian dài có thể làm gia tăng tình trạng rối loạn lo âu Ngoài ra, các yếu tố cá nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển bệnh xương khớp.
Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn lo âu và trầm cảm
1.5.1 Lo âu và bận tâm quá mức (chờ đợi với sự lo sợ) xuất hiện với phần lớn thời gian kéo dài tối thiểu là 6 tháng về một số sự kiện hoặc hoạt động (như việc làm hoặc thành tích học tập)
1.5.2 Bệnh nhân cảm thấy khó kiểm soát mối bận tâm này
1.5.3 Lo âu và bận tâm này kết hợp với 3 (hoặc nhiều hơn) trong số 6 triệu chứng sau (tối thiểu vài triệu chứng phải hiện diện trong phần lớn thời gian của 6 tháng cuối) Ghi chú: Với trẻ em, chỉ cần 1 triệu chứng là đủ
(1) Kích động hay cảm giác bị kích động hay kiệt quệ
(3) Khó tập trung hoặc có những lỗ hổng trí nhớ
(6) Rối loạn giấc ngủ (khó đi vào giấc ngủ hoặc giấc ngủ bị gián đoạn hoặc giấc ngủ không yên, không thoải mái)
1.5.4 Lo âu, bận tâm hoặc các triệu chứng của cơ thể là nguyên nhân gây ra sự đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng, hoặc làm thay đổi chức năng xã hội, nghề nghiệp hoặc trong các lĩnh vực quan trọng khác
1.5.5 Rối loạn này không phải do các tác động sinh lý trực tiếp của một chất
(chất gây nghiện, thuốc) hoặc do một bệnh khác gây nên (ví dụ: bệnh cường giáp)
1.5.6 Rối loạn này không được giải thích rõ bằng một rối loạn tâm thần khác
Rối loạn tâm lý như Rối loạn hoảng loạn, Rối loạn lo âu xã hội, và Rối loạn ám ảnh cưỡng chế thường đi kèm với những nỗi lo âu và bận tâm về các triệu chứng như cơn hoảng loạn, sợ hãi xã hội, và nỗi ám ảnh về sự sạch sẽ Bên cạnh đó, Rối loạn lo âu chia ly gây ra nỗi sợ hãi mất mát, trong khi Rối loạn Stress sau sang chấn thường khiến người bệnh phải đối diện với những ký ức đau thương Các rối loạn ăn uống như Chán ăn tâm thần liên quan đến lo lắng về cân nặng, và Rối loạn sợ biến dạng cơ thể liên quan đến những phàn nàn về hình dáng cơ thể Ngoài ra, Rối loạn nghi bệnh và Hội chứng Tâm thần phân liệt có thể dẫn đến những ý nghĩ hoang tưởng và cảm giác mắc bệnh không có thật.
Điều trị bệnh rối loạn lo âu và trầm cảm
Có 2 phương pháp điều trị bệnh rối loạn lo âu
1.6.1 Dùng thuốc: Có nhiều loại thuốc để giảm bớt triệu chứng của bệnh rối loạn lo âu, cụ thể:
Benzodiazepines là nhóm thuốc an thần hiệu quả trong việc giảm lo âu chỉ trong 30 - 90 phút Tuy nhiên, việc sử dụng lâu dài có thể dẫn đến lệ thuộc thuốc, vì vậy bác sĩ thường chỉ kê đơn cho những trường hợp căng thẳng tạm thời và trong thời gian ngắn.
Các thuốc an thần thường được sử dụng bao gồm Alprazolam (Xanax), Chlordiazepoxide (Librium), Clonazepam (Klonopin), Diazepam (Valium) và Lorazepam (Ativan) Những loại thuốc này có thể gây ra tác dụng phụ như lảo đảo, choáng váng và mất phối hợp vận động Việc sử dụng liều cao hoặc kéo dài thời gian điều trị có thể dẫn đến rối loạn trí nhớ Do đó, người dùng không nên lái xe hoặc vận hành máy móc khi đang sử dụng các loại thuốc này.
Dùng thuốc là một cách điều trị rối loạn lo âu
Buspirone (BuSpar) là một loại thuốc được sử dụng phổ biến trong điều trị rối loạn lo âu Mặc dù cần một thời gian dài để thấy được sự cải thiện triệu chứng, nhưng thuốc này có ưu điểm là không gây lệ thuộc Tác dụng phụ thường gặp bao gồm cảm giác lâng lâng ngắn hạn sau khi sử dụng, trong khi những tác dụng phụ ít gặp hơn có thể là nhức đầu, buồn nôn, cảm giác bồn chồn và mất ngủ.
Thuốc chống trầm cảm có tác dụng điều chỉnh hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh liên quan đến rối loạn lo âu Một số loại thuốc phổ biến bao gồm Fluoxetine (Prozac), Paroxetine (Paxil), Imipramine (Tofranil), Venlafaxine (Effexor), Escitalopram (Lexapro) và Duloxetine (Cymbalta).
Khi điều trị lo âu và trầm cảm, bác sĩ thường phải thử nghiệm nhiều loại thuốc khác nhau để tìm ra phương án hiệu quả nhất với ít tác dụng phụ cho bệnh nhân Việc tự ý mua và sử dụng thuốc mà không có chỉ định từ bác sĩ là điều tuyệt đối không nên làm.
1.6.2 Điều trị bằng tâm lý
- Tư vấn giúp bệnh nhân, gia đình bệnh nhân hiểu được bản chất của rối loạn lo âu và trầm cảm( nguyên nhân, lâm sàng, tiến triển )
- Chiến lược kiểm soát lo âu và giảm stress:
+ Liệu pháp nhận thức hành vi
+ Tập thư giãn, tập thở, tập khí công, tập yoga
+ Tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, các hoạt động thể lực ( để thư giãn hoặc lôi cuốn bệnh nhân )
+ Tránh lạm dụng rượu, thuốc ngủ.
Phục hồi chức năng
Bệnh rối loạn lo âu và trầm cảm có ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc sống của người bệnh, làm suy giảm khả năng sinh hoạt bình thường, đặc biệt là ở những người mắc bệnh từ khi còn trẻ Đây được coi là bệnh mạn tính, ảnh hưởng đến khả năng suy nghĩ, học hỏi, giao tiếp xã hội, làm việc, tình cảm và các mối quan hệ cá nhân Kể từ năm 1999, Chính phủ đã triển khai Chương trình mục tiêu Quốc gia Dự án Bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng, với các chương trình chăm sóc và phục hồi khả năng sinh hoạt cho người bệnh sau khi họ đã ổn định Mục tiêu chính của việc chăm sóc và phục hồi là cải thiện chất lượng cuộc sống và khả năng hòa nhập xã hội cho những người mắc rối loạn lo âu.
Biết tự chăm sóc bản thân là rất quan trọng, bao gồm việc ăn uống lành mạnh phù hợp với tình trạng sức khỏe Ngoài ra, kỹ năng nấu ăn, mua sắm thông minh, giữ gìn vệ sinh cá nhân, sắp xếp chỗ ở hợp lý và sử dụng phương tiện công cộng hiệu quả cũng là những yếu tố cần thiết để nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Khả năng giao tiếp xã hội
Người bệnh được hỗ trợ trong việc khôi phục và nâng cao lòng tự tin, tự trọng, cũng như kỹ năng giao tiếp và đối thoại hiệu quả với người khác Họ còn học cách giải quyết những mâu thuẫn và bất đồng ý kiến một cách hợp lý và thỏa đáng.
- Khả năng thích nghi và đối phó với những khó khăn hàng ngày
Người bệnh được giúp đỡ và hướng dẫn trong việc tìm cách giảm bớt những căng thẳng tinh thần
- Khả năng tổ chức cuộc sống
Người bệnh cần được hướng dẫn cách sắp xếp và tổ chức cuộc sống hàng ngày một cách có nề nếp, tạo thành thói quen với giờ giấc cụ thể Việc sử dụng thời gian rảnh một cách hiệu quả và thoải mái cũng rất quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Làm việc không chỉ mang lại cảm giác có ích và thỏa mãn khi hoàn thành nhiệm vụ, mà còn giúp tăng cường sự tự tin vào khả năng cá nhân Ngoài ra, công việc còn tạo cơ hội giao tiếp, xây dựng mối quan hệ bạn bè và tình cảm lành mạnh, góp phần tích cực vào cuộc sống xã hội.
Việc điều trị bằng thuốc không thể phục hồi hoàn toàn khả năng tư duy và nhận thức của người bệnh, mặc dù có một số thuốc mới giúp cải thiện tình trạng này Nhiều bệnh nhân đã trải qua thời gian dài điều trị tại bệnh viện tâm thần, khiến họ phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bác sĩ và nhân viên y tế, dẫn đến việc thiếu tự lập trong cuộc sống Khi trở về gia đình, họ trở thành gánh nặng do thiếu nghị lực và khả năng thích nghi với xã hội Nếu không có cơ hội làm lại cuộc đời, họ sẽ tiếp tục là gánh nặng cho gia đình và xã hội Chương trình chăm sóc và phục hồi khả năng sinh hoạt là cơ hội quan trọng để họ tái hòa nhập và khôi phục cuộc sống.
Chăm sóc người bệnh rối loạn lo âu và trầm cảm
Người bệnh rối loạn lo âu và trầm cảm cần sự đồng cảm và hỗ trợ từ người điều dưỡng cùng gia đình Cần nhận thức rằng đây là bệnh lý thực sự, không phải là lười biếng hay giả vờ Trong quá trình điều trị, bệnh nhân thường than phiền về nhiều triệu chứng cơ thể như mất ngủ, đau đầu, đau lưng, đau bụng, đánh trống ngực và chóng mặt.
Người bệnh thường gặp phải tình trạng giảm trí nhớ, khó tập trung và cảm giác bi quan, chán nản, điều này gây khó khăn cho người điều dưỡng và gia đình khi phải đối mặt với những phàn nàn của họ Sự thiếu thông cảm từ người xung quanh có thể dẫn đến việc người bệnh cảm thấy bị chế giễu và cho rằng họ đang giả vờ hoặc thiếu ý chí phấn đấu Hệ quả là người bệnh dần mất đi chỗ dựa tinh thần, không dám chia sẻ về bệnh tật, sống khép kín và ngại tiếp xúc với mọi người Tình trạng này khiến họ cảm thấy cô đơn trong môi trường điều trị và ngay cả trong chính gia đình mình, dẫn đến rối loạn lo âu và buồn rầu.
Chăm sóc người bệnh tại gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc giúp họ hòa nhập với cộng đồng và phục hồi chức năng tâm lý xã hội Việc này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho người bệnh mà còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của họ.
Giai đoạn cấp tính của bệnh tâm thần thường biểu hiện qua các triệu chứng khác nhau tùy theo thể lâm sàng, bao gồm tình trạng thiếu hòa hợp, trầm cảm và hoang tưởng về tội lỗi, có thể dẫn đến hành vi tự sát Trong giai đoạn này, bệnh nhân thường có xu hướng phủ nhận sự tồn tại của bệnh.
Giai đoạn thuyên giảm là thời kỳ mà các triệu chứng lâm sàng không còn điển hình, người bệnh có khả năng giao tiếp tốt hơn và có tác phong hài hòa, tuy nhiên vẫn chưa hoàn toàn ổn định Trong giai đoạn này, bệnh nhân có thể gặp một số biểu hiện kỳ lạ và khó hiểu, nhưng nhìn chung họ vẫn có thể ăn, ngủ, nhận thức được tình trạng bệnh của mình và tự giác uống thuốc.
Trong giai đoạn ổn định, triệu chứng của bệnh nhân giảm đáng kể so với giai đoạn cấp Bệnh nhân nhận thức rõ về tình trạng sức khỏe của mình và có khả năng giao tiếp tốt Họ có thể sinh hoạt gần như bình thường và một số người đã quay trở lại làm việc như trước, mặc dù vẫn cần duy trì việc sử dụng thuốc.
Một số bệnh nhân mắc bệnh mạn tính, dù đã ổn định sau điều trị, nhưng vẫn không thể quay lại cuộc sống tự lập như trước Họ thường sống phụ thuộc vào gia đình và đôi khi có những biểu hiện bất thường về tính cách Tuy nhiên, nếu duy trì việc uống thuốc đều đặn, tình trạng của họ sẽ được cải thiện và ổn định hơn.
* Một số nhận định khác:
- Toàn trạng: cân nặng, chiều cao, mạch, nhiệt độ, huyết áp
- Các cơ quan: tuần hoàn, tiêu hóa, tim mạch, tiết niệu, sinh dục, cơ – xương – khớp, tai mũi họng, răng hàm mặt, mắt?
- Nhận định về thần kinh:
+ Dây thần kinh sọ não
- Nhận định về tâm thần
Không gian: có định hướng được không?
Thời gian: có định hướng được không?
Bản thân: có định hướng được không?
+ Tri giác (khả năng nhận thức thực tại khách quan): có ảo giác không? Loại nào?
Hình thức: có hoang tưởng không
Nội dung: nội dung hoang tưởng là gì
- Hành vi, tác phong: Hoạt động hàng ngày của người bệnh thế nào? Đi lại, nói năng,…?
Nhận định về dinh dưỡng của người bệnh: người bệnh ăn mấy bát cơm/bữa, ngoài ra có ăn thêm gì không?
Vệ sinh: trang phục người bệnh thế nào? người bệnh có tự vệ sinh không? Có phải nhắc nhở vệ sinh không?
Người bệnh ngủ thề nào? Bao nhiêu giờ một ngày? Giấc ngủ có sâu? + Trí nhớ: có mất nhớ hay giảm nhớ không?
- Các xét nghiệm cận lâm sàng
- Tiền sử của người bệnh và gia đình?
1.8.2 Những vấn đề cần chăm sóc
- Người bệnh có ý tưởng và hành vi tự sát do hoang tưởng, ảo giác
- Người bệnh có nguy cơ gây nguy hiểm cho bản thân và người xung quanh
- Người bệnh không tự chăm sóc được bản thân
- Người bệnh nguy cơ thiếu hụt dinh dưỡng
- Người bệnh không dùng thuốc theo chỉ dẫn
1.8.3 Lập kế hoạch chăm sóc
Các mục tiêu chăm sóc cần đạt được
Theo dõi đánh giá các triệu chứng để phân loại bệnh nhân, từ đó có kế hoạch chăm sóc cụ thể
- Làm giảm và mất hoang tưởng và ảo giác cho người bệnh
- Đảm bảo cho người bệnh và người xung quanh được an toàn
- Cải thiện khả năng tự chăm sóc bản thân của người bệnh
- Đảm bảo đủ nhu cầu dinh dưỡng cho người bệnh
- Đảm bảo đủ và đúng việc dùng thuốc cho người bệnh
1.8.4 Thực hiện kế hoạch chăm sóc
* Làm giảm và mất hoang tưởng và ảo giác cho người bệnh: đây là một trong nững cấp cứu trong tâm thần, có thể sử dụng các biện pháp:
Để đảm bảo an toàn cho người bệnh, cần loại bỏ tất cả các vật dụng có khả năng gây nguy hiểm như dao, kéo và bất kỳ vật sắc nhọn nào Điều này giúp ngăn chặn nguy cơ tự sát bằng cách sử dụng chăn, màn hoặc các vật dụng khác.
Cần theo dõi sát sao người bệnh với sự phối hợp giữa điều dưỡng và gia đình, thực hiện giám sát 24/24h nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các ý tưởng và hành vi tự sát.
Để điều trị hiệu quả các triệu chứng hoang tưởng và ảo giác, việc sử dụng thuốc đầy đủ là rất quan trọng Thuốc được coi là phương pháp tốt nhất để giúp người bệnh Trong trường hợp nghi ngờ người bệnh có thể giấu thuốc hoặc không chịu uống, có thể xem xét việc sử dụng thuốc tiêm để đảm bảo hiệu quả điều trị.
Liệu pháp tâm lý là một phương pháp hiệu quả trong việc hỗ trợ người bệnh vượt qua hoang tưởng và ảo giác Bằng cách trò chuyện và giải thích cho người bệnh rằng những trải nghiệm này không có thật, chúng ta có thể giúp họ củng cố ý chí để vượt qua khó khăn Tuy nhiên, cần lưu ý không nhắc lại quá nhiều về hoang tưởng và ảo giác, vì điều này có thể khiến người bệnh tin rằng chúng là sự thật.
- Nếu cần phải làm sốc điện cho người bệnh
* Đảm bảo cho người bệnh và người xung quanh được an toàn
- Những người bệnh kích động phải cho nằm buồng riêng, trang bị những thứ thật cần thiết như giường chiếu, chăn màn, hệ thống điện phải ở trên cao
Bệnh nhân ở mức độ trung bình sẽ được sắp xếp nằm trong phòng chung, và cần tuân thủ quy định không mang theo các vật dụng nguy hiểm vào phòng bệnh Tất cả các dụng cụ sinh hoạt trong phòng đều phải được sử dụng bằng chất liệu nhựa để đảm bảo an toàn và vệ sinh.
- Tiêm thuốc kịp thời cho người bệnh
- Chăm sóc ăn uống đầy đủ
- Tiếp xúc với người bệnh với thái độ hài hòa, niềm nở nhưng cũng cần cương quyết nếu người bệnh chống đối
* Cải thiện khả năng tự chăm sóc
- Hướng dẫn cho người bệnh những cách hợp lý để họ thực hiện các hoạt động tự chăm sóc như: vệ sinh răng miệng, mặc quần áo, quét nhà…
- Khuyến khích người bệnh tự làm càng nhiều càng tốt, chỉ trợ giúp khi người bệnh không tự làm được
Nếu người bệnh gặp khó khăn trong việc ngủ hoặc không thể ngủ được, họ có thể sử dụng thuốc an thần Tuy nhiên, việc tập luyện như đi dạo hoặc tập thể dục nhẹ nhàng trước khi ngủ cũng là những phương pháp hữu ích để cải thiện giấc ngủ.
- Cung cấp một chế độ ăn đủ năng lượng để người bệnh có thể tập luyện
* Đảm bảo đủ dinh dưỡng
Những bệnh nhân không chịu ăn do hoang tưởng và ảo giác cần được động viên để ăn uống Nếu họ vẫn không hợp tác, cần xem xét việc đặt ống thông dạ dày để cung cấp thức ăn.
Người bệnh tâm thần thường có xu hướng thích một số người nhất định để được cho ăn Việc tìm hiểu ai là người mà họ yêu quý có thể giúp cải thiện tình trạng ăn uống của họ Thậm chí, có những bệnh nhân không chịu ăn khi có người khác bên cạnh, nhưng lại tự ăn khi được để một mình.