Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái niệm và phân loại rối loạn lo âu
2.1.1.1 Các thuật ngữ liên quan đến rối loạn lo âu:
Lo là phản ứng cảm xúc tự nhiên của con người trước những khó khăn, thử thách hoặc đe dọa từ môi trường tự nhiên và xã hội Nó xuất hiện khi con người nhận thức hoặc dự đoán các tình huống khó khăn, từ đó thúc đẩy việc tìm kiếm giải pháp để vượt qua và tồn tại.
Lo âu là trạng thái căng thẳng cảm xúc gây khó chịu và xung đột nội tâm Nó có thể biểu hiện qua nhiều rối loạn tâm thần và thể chất khác nhau Bên cạnh đó, lo âu cũng có thể là một yếu tố của một số bệnh lý, thậm chí có thể do sự can thiệp của thầy thuốc (iatrogene) hoặc từ những suy nghĩ tiêu cực về tiên lượng bệnh của bệnh nhân.
Lo âu bình thường là trạng thái tâm lý có chủ đề và nội dung rõ ràng, thường xuất hiện khi gặp phải các tình huống như ốm đau, mất việc làm Đây là phản ứng tạm thời trước những sự kiện trong cuộc sống, và khi các yếu tố tác động không còn, lo âu cũng dần giảm đi Trong trường hợp này, triệu chứng rối loạn thần kinh tự trị thường rất ít hoặc không có.
Rối loạn lo âu bệnh lý là tình trạng lo âu không có chủ đề cụ thể, thường mang tính vô lý và mơ hồ, kéo dài và lặp đi lặp lại, kèm theo nhiều rối loạn thần kinh tự trị Nếu rối loạn có liên quan đến nội dung và chủ đề cụ thể, thì sẽ được chẩn đoán ở một loại rối loạn khác.
2.1.1.2 Phân loại rồi loạn lo âu
Hiện nay, hai hệ thống tiêu chuẩn chẩn đoán phân loại rối loạn tâm thần phổ biến trên thế giới là ICD-10, do Tổ chức Y tế Thế giới phát hành năm 1992, và DSM-IV, do Hội Tâm thần học Mỹ phát hành năm 1994.
Hướng dẫn về rối loạn tâm thần, cụ thể là DSM-IV, tương đồng với ICD-10, cho phép sử dụng một trong hai phân loại này Tại Việt Nam, ICD-10 hiện đang được áp dụng làm tiêu chuẩn chẩn đoán trong lĩnh vực tâm thần học Phân loại rối loạn lo âu theo ICD-10 bao gồm nhiều nhóm khác nhau.
+ F40 Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ, bao gồm
F40.0 Lo âu ám ảnh sợ khoảng trống:
00 Không có rối loạn hoảng sợ
01 Có rối lọa hoảng sợ
F40.1 Lo âu ám ảnh sợ xã hội
F40.2 Lo âu ám ảnh sợ đặc biệt (riêng lẻ)
F40.8 Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ khác
F40.9 Rối loạn lo âu ám ảnh sợ không biệt định
+ F41 Các rồi loạn lo âu khác, bao gồm:
F41.0 Rối lọan hoảng sợ (lo âu kịch phát từng giai đoạn)
F41.1 Rối loạn lo âu lan tỏa
F41.2 Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm
F41.3 Các rối loạn lo âu hỗn hợp khác
F41.8 Các rối loạn lo âu không biệt định khác
F41.9 Rối loạn lo âu không biệt định
2.1.2.1 Khái niệm rối loạn trầm cảm :
Thuật ngữ “trầm cảm” lần đầu xuất hiện vào thế kỷ XVIII, nhưng nghiên cứu về bệnh này đã bắt đầu từ thời Hippocrate, người đã mô tả trạng thái “sầu uất” vào năm 460-377 trước công nguyên Vào năm 1686, Bonet đã mô tả sự kết hợp giữa hưng cảm và sầu uất Đến thế kỷ XVIII, các tác giả đã phân loại rõ ràng hai trạng thái trầm cảm và hưng cảm, nhận thấy rằng chúng có xu hướng tiến triển mạn tính và dễ tái phát, nhưng sự xuất hiện của chúng ở một bệnh nhân chỉ là ngẫu nhiên Năm 1899, E Kraepelin đã tổng hợp các biểu hiện lâm sàng và đặc điểm tiến triển của những bệnh này, từ đó thống nhất chúng thành một bệnh chung gọi là “loạn thần hưng-trầm cảm”.
Kể từ những năm 60-70 của thế kỷ XX, khái niệm trầm cảm đã được phân loại riêng trong Bảng phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 8 và 9 Năm 1992, Tổ chức Y tế Thế giới đã công bố Bảng phân loại Quốc tế mới, đánh dấu sự phát triển quan trọng trong việc nhận diện và điều trị trầm cảm.
10 Từ nhận thức đúng bản chất về bệnh nguyên bệnh sinh của trầm cảm, cụm từ
“bệnh trầm cảm” được thay bằng cụm từ “rối loạn trầm cảm”
Rối loạn trầm cảm là một dạng rối loạn cảm xúc phức tạp, với biểu hiện chủ yếu là sự ức chế trong các quá trình tâm thần, bao gồm cảm xúc, tư duy và hành vi Người bệnh thường trải qua sự thay đổi khí sắc, giảm khả năng liên tưởng, phán đoán và năng lượng, dẫn đến cảm giác mệt mỏi Các rối loạn này thường tái diễn và có thể khởi phát liên quan đến các sự kiện gây stress Tỷ lệ mắc rối loạn trầm cảm khác nhau giữa các quốc gia; ở Hoa Kỳ, Anh, Đức, Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, tỷ lệ mắc khoảng 5-6% dân số, trong khi ở Việt Nam, tỷ lệ hiện mắc dao động từ 2,8% đến 8,35%.
2.1.2.2 Phân loại rối loạn trầm cảm
Trầm cảm, được biết đến từ thời Hippocrate với tên gọi “melancholia”, vẫn còn nhiều tranh cãi về cách phân loại Nhiều tác giả cho rằng có những vấn đề khó xác định và tách biệt trong phân loại các rối loạn trầm cảm Dưới đây là một số quan điểm phân loại phổ biến hiện nay.
- Quan điểm của ông Kendell: Ông phân ra hai loại trầm cảm:
+ Loại A: Trầm cảm có thay đổi khí sắc trong ngày
+ Loại B: Trầm cảm thay đổi khí sắc giữa các ngày
- Quan điểm của Hamilton: đưa ra 5 phân lớp trầm cảm:
+ Phân lớp 1: trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực, tiền sử có giai đoạn hưng cảm
+ Phân lớp 2: trầm cảm trong rồi loạn cảm xúc đơn cực, trong tiền sử có các giai đoạn trầm cảm
+ Phân lớp 3: trầm cảm có hoang tưởng sầu uất
+ Phân lớp 4: giai đoạn trầm cảm điển hình, tiền sử không có rối loạn cảm xúc
+ Phân lớp 5: giai đoạn trầm cảm nhẹ, thường có bệnh lý cơ quan kèm theo
- Quan điểm của Pinel và Kraepelin: hai Ông đã đưa ra ba cách xếp loại chính, hiện nay đang được áp dụng rộng rãi:
Cách một: dựa vào bệnh nguyên người ta chia trầm cảm làm ba loại: trầm cảm nội sinh, trầm cảm tâm sinh, trầm cảm thực tổn
Cách hai: dựa trên đặc điểm triệu chứng học chia ra trầm cảm không có loạn thần và trầm cảm có loạn thần
Trầm cảm được phân loại thành hai loại chính: trầm cảm đơn cực và trầm cảm lưỡng cực, dựa trên giai đoạn, thời gian và đặc điểm mắc bệnh trong suốt cuộc đời của mỗi người.
- Phân loại rối loạn trầm cảm hiện nay: theo ICD 10, rồi loạn trầm cảm được phân theo nhiều khía cạnh khác nhau
+ Phân loại theo mức độ: có ba mức
+ Phân loại theo sự hiện diện của triệu chứng loạn thần: có hai loại
* Giai đoạn trầm cảm không có triệu chứng loạn thần
* Giai đoạn trầm cảm có triệu chứng loạn thần
+ Phân loại dựa vào bệnh lý kết hợp và sự hiện diện theo thời gian
* Trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực
* Trầm cảm đơn cực: bao gồm:
+ Phân loại theo sự hiện diện của các triệu chứng cơ thể:
* Trầm cảm không có các triệu chứng cơ thể
* Trầm cảm có các triệu chứng cơ thể
+ Phân loại theo nguyên nhân:
- Triệu chứng rối loạn trầm cảm:
+ Ba triệu chứng đặc trưng gồm:
* Mất mọi quan tâm thích thú
* Giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động + Bảy triệu chứng khác gồm:
* Giảm sút sự tập trung và sự chú ý
* Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin
* Những ý tưởng bị tội và không xứng đáng
* Nhìn vào tương lai ảm đạm, bi quan
* Những ý tưởng và hành vi tự hủy hoại hoặc tự sát
* Ăn kém ngon miệng, đắng miệng, chán ăn
- Chẩn đoán rối loạn trầm cảm:
+ Tiêu chuẩn triệu chứng: được chia làm 3 mức độ:
* Mức độ nhẹ: ít nhất có 2 trong 3 triệu chứng đặc trưng và ít nhất có 2 trong 7 triệu chứng khác ở trên, không có triệu chứng nào ở mức độ nặng
Mức độ vừa của triệu chứng được xác định khi có ít nhất 2 trong 3 triệu chứng đặc trưng và tối thiểu 3 trong 7 triệu chứng khác Nhiều triệu chứng sẽ biểu hiện rõ ràng, và nếu không rõ ràng, sẽ có nhiều triệu chứng khác nhau xuất hiện.
Mức độ nặng của bệnh được xác định khi bệnh nhân có đủ 3 triệu chứng đặc trưng và ít nhất 4 trong số 7 triệu chứng khác Trong trường hợp bệnh nhân không thể mô tả đầy đủ triệu chứng do mức độ nặng, vẫn có thể ghi nhận chuẩn đoán Lưu ý rằng mức độ nặng không xuất hiện trong rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm.
Tiêu chuẩn thời gian cho triệu chứng là kéo dài ít nhất 2 tuần, tuy nhiên có thể ngắn hơn 2 tuần trong những trường hợp triệu chứng đặc biệt nặng và khởi phát nhanh chóng.
2.1.3 Rồi loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm
2.1.3.1 Các quan niệm về mối liên quan giữa lo âu và trầm cảm
Trước đây, lo âu và trầm cảm được coi là hai biểu hiện khác nhau của cùng một rối loạn tâm lý Nhiều tác giả đã đề xuất rằng hai trạng thái này có thể tồn tại song song và ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra một bức tranh phức tạp về sức khỏe tâm thần.
Nghiên cứu một trường hợp bệnh cụ thể
1 Họ và tên bệnh nhân: PHẠM THỊ VIÊM
6 Địa chỉ: Cẩm Văn – Cẩm Giàng – Hải Dương
8 Lý do vào viện: Mất ngủ,buồn chán
9 Chẩn đoán: Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm
Theo gia đình bệnh nhân cho biết, bệnh nhân là con thứ 1/6 trong gia đình
Sự phát triển thể chất, tinh thần từ nhỏ đến lớn hoàn toàn bình thường lấy chồng và có 2 con khỏe mạnh
Bệnh khởi phát hơn một tháng trước với triệu chứng buồn bã và ít giao tiếp Bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi, mất hứng thú với mọi hoạt động, không còn năng lượng, ăn uống kém và không ngon miệng Vào ban đêm, bệnh nhân ngủ rất ít, thường xuyên thức giấc và có nhịp tim nhanh, đặc biệt khi lo lắng Nhận thấy tình trạng này, gia đình đã đưa bệnh nhân đến Bệnh Viện Tâm Thần Trung ương để được điều trị.
I, xin khám và điều trị
- Bệnh nhân có biểu hiện bệnh khoảng hơn 1 tháng nay,bây giờ gia đình mới cho đi viện điều trị
- Gia đình không ai mắc bệnh tâm thần, động kinh
Tuần hoàn: Nhịp tim đều, nghe tiếng T1, T2 rõ
Hô hấp : Lồng ngực hai bên cân đối, nhịp thở đều
Tiêu hóa : Bụng mềm, không u cục, gan lách không sờ thấy
Thận, tiết niệu, sinh dục : Bình thường
Cơ – Xương - Khớp : Bình thường
Tai, mũi, họng : Bình thường
Răng, hàm, mặt : Bình thường
Các bệnh lý khác : Chưa thấy có biểu hiện bệnh lý b Thần kinh :
- Không có tổn thương liệt khu trú
- Vận động tứ chi : Không hạn chế vận động tứ chi
- Trương lực cơ : Bình thường
- Cảm giác ( nông, sâu ) : Không rối loạn
- Phản xạ : Phản xạ gân xương đáp ứng đều hai bên c Tâm thần :
-Biểu hiện chung : Tiếp xúc được
-Ý thức định hướng : Không gian, thời gian, bản thân : Xác định đúng
-Tình cảm, cảm xúc : Khí sắc giảm, khuôn mặt buồn bã, ít nói, lo lắng nhiều về bệnh
-Tri giác : Không có ảo tưởng, ảo giác
+ Hình thức : Nhịp chậm rời rạc
+ Nội dung : Không có hoang tưởng
+ Hành động ý trí : Chậm chạp, nằm nhiều, giảm quan tâm thích thú
+ Hoạt động bản năng : Ăn, ngủ kém
-Chú ý : Độ tập trung giảm d Các thuốc đang dùng cho người bệnh :
+ Zoloft 50mg × 3 viên ( uống 3 viên 20h )
+ Sedusen 5mg × 4 viên ( uống 2 viên 10h và 2 viên 20h )
* Chăm sóc : a Chăm sóc triệu chứng rối loạn lo âu, trầm cảm của người bệnh:
- Người bệnh được dùng thuốc theo chỉ định
- Điều dưỡng đã tiếp xúc với người bệnh, phổ biến nội quy, quy định của bệnh viện và khuyên người bệnh cũng như người nhà yên tâm điều trị
Điều dưỡng đã nhắc nhở người nhà cần cất hết các vật sắc nhọn để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân và người thân Đồng thời, việc cung cấp dinh dưỡng phù hợp với nhu cầu của bệnh nhân cũng rất quan trọng.
Người bệnh tại bệnh viện chỉ ăn theo suất cơm được cung cấp, bao gồm bữa sáng với 1 bát cháo, bữa trưa 1 bát cơm kèm rau và thịt, và bữa tối với 1 bát cơm, canh và đậu Mặc dù có thỉnh thoảng người nhà mua thêm hoa quả hoặc sữa, nhưng người bệnh không có nhu cầu ăn thêm gì.
Điều dưỡng thường khuyến khích người bệnh ăn uống, nhưng nếu người bệnh không có nhu cầu, điều này có thể dẫn đến việc họ không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng hàng ngày Để cải thiện khả năng tự chăm sóc cho người bệnh, cần có các biện pháp hỗ trợ và khuyến khích họ tham gia vào quá trình ăn uống một cách tích cực hơn.
Người bệnh thường thiếu chú ý đến việc vệ sinh cá nhân, trong khi người nhà cũng ít quan tâm do không có mặt thường xuyên và cảm thấy chán nản Mặc dù điều dưỡng đã nhắc nhở, nhưng người bệnh vẫn không thực hiện vệ sinh đúng cách.
Người bệnh gặp khó khăn trong giấc ngủ, chỉ ngủ khoảng 4 giờ mỗi ngày, do bị ảnh hưởng bởi những âm thanh ảo và tiếng nói trong đầu khiến họ không thể chợp mắt Dù được điều dưỡng tư vấn rằng những tiếng nói đó không có thật và khuyên tập thể dục trước khi ngủ, tình trạng giấc ngủ của người bệnh vẫn không cải thiện nhiều.
Người bệnh người vận động, nằm một chỗ không chịu giao tiếp
Chán ăn: Cho bệnh nhân ăn những thức ăn dễ tiêu, giàu năng lượng, hợp khẩu vị với bệnh nhân
- Nếu có thể thì cho bệnh nhân ăn theo chế độ tự chọn trong thời gian đầu điều trị
Để cải thiện tình trạng mất ngủ, người bệnh không nên ngủ trưa hoặc đi ngủ quá sớm Cần tránh để người bệnh nằm trên giường cả ngày, vì điều này có thể làm tình trạng mất ngủ trở nên nghiêm trọng hơn Thay vào đó, khuyến khích người bệnh vận động và đi lại trong suốt cả ngày, nhưng cần hạn chế hoạt động mạnh vào buổi tối để không gây khó khăn trong việc ngủ.
Người bệnh rối loạn lo âu thường cảm thấy mệt mỏi suốt cả ngày, đặc biệt là vào buổi sáng Tuy nhiên, việc động viên người bệnh tập vận động là rất quan trọng Bắt đầu từ những hoạt động đơn giản như ngồi dậy, đứng lên và đi lại nhẹ nhàng trong nhà, sau đó có thể yêu cầu họ thực hiện các công việc nhẹ nhàng như nhặt rau, nấu cơm hay quét nhà Ngoài ra, khuyến khích người bệnh tham gia các môn thể thao mà họ từng yêu thích như cầu lông, bóng bàn hay bơi lội cũng là một cách hiệu quả để cải thiện tâm trạng và sức khỏe.
Để cải thiện trí nhớ cho người bệnh, hãy đọc cho họ những mẩu truyện ngắn và bài thơ yêu thích Đồng thời, khuyến khích họ đọc báo, xem tivi và nghe đài, với thời gian tăng dần để tránh cảm giác mệt mỏi và chán nản.
Để đảm bảo hiệu quả điều trị, bệnh nhân cần tuân thủ đúng chỉ dẫn của bác sĩ khi sử dụng thuốc uống Trong giai đoạn đầu, bệnh nhân có thể gặp một số tác dụng phụ như khô miệng, đắng miệng, đầy bụng và mệt mỏi, nhưng đây là hiện tượng bình thường và nên tiếp tục sử dụng thuốc Nhiều bệnh nhân thường tự ý ngừng thuốc do những tác dụng phụ này, hoặc quên uống thuốc đúng giờ, vì vậy người nhà cần nhắc nhở và hỗ trợ họ uống thuốc hàng ngày Cần kiểm tra xem bệnh nhân có thực sự uống thuốc hay không và đảm bảo họ uống đủ liều lượng Tốt nhất, nên giao nhiệm vụ quản lý thuốc cho một thành viên nhất định trong gia đình và chỉ thay thế khi thật sự cần thiết.
Tái khám là rất quan trọng; bệnh nhân nên duy trì liên lạc thường xuyên với bác sĩ để cập nhật tình trạng sức khỏe Sau 1-2 tháng điều trị, nhiều người có xu hướng chủ quan, cho rằng mình đã khỏi bệnh và ngừng tái khám cũng như điều trị củng cố Tuy nhiên, điều này rất nguy hiểm, vì việc không được điều trị củng cố đầy đủ có thể dẫn đến tình trạng bệnh tái phát Khi bệnh tái phát, quá trình điều trị sẽ tốn nhiều công sức hơn và thời gian điều trị củng cố sẽ kéo dài hơn rất nhiều so với trước đó.
- Người bệnh cần được sự trợ giúp đỡ của mọi thành viên trong gia đình d Giáo dục sức khỏe cho người bệnh và người nhà:
- Người nhà và người bệnh đã được điều dưỡng phổ biến về nội quy khoa phòng và bệnh viện
Điều dưỡng đã tương tác với người bệnh và gia đình để giúp ổn định tâm lý cho bệnh nhân, đồng thời giải thích rõ ràng về tình trạng bệnh, phương pháp chăm sóc và cách thức uống thuốc đúng cách.
Tại khoa, có một phòng dành cho giáo dục sức khỏe nhưng thường xuyên không được sử dụng Điều dưỡng chỉ ghé thăm phòng bệnh để cung cấp thông tin ngắn gọn, dẫn đến việc giáo dục không đầy đủ và chi tiết, đặc biệt là về bệnh lý và nguyên nhân gây bệnh Điều này khiến cho bệnh nhân và người nhà không nắm rõ thông tin cần thiết về tình trạng sức khỏe của họ.
Một số ưu điểm và hạn chế 3 5 1 Ưu điểm 3 5 2 Hạn chế 3 6 3.3 Nguyên nhân của các tồn tại
3.2.1 Ưu điểm Điều dưỡng đã chăm sóc người bệnh theo quy định của Bộ Y Tế gồm:
Nghiêm túc thực hiện Quy chế bệnh viện, đặc biệt chú trọng đến quy chế chăm sóc người bệnh toàn diện và quản lý buồng bệnh cũng như buồng thủ thuật để đảm bảo chất lượng dịch vụ y tế.
- Nghiêm chỉnh thực hiện đầy đủ y lệnh của thầy thuốc
Để đảm bảo chăm sóc bệnh nhân hiệu quả, điều dưỡng trung cấp và điều dưỡng chính cần thực hiện đúng quy định kỹ thuật bệnh viện Họ có khả năng lập kế hoạch chăm sóc, quản lý việc uống thuốc, thực hiện tiêm thuốc, truyền dịch, thay băng, đặt thông, và kỹ thuật cấp cứu Ngoài ra, việc vận hành và bảo quản các thiết bị y tế trong khoa cũng phải được thực hiện theo sự phân công.
Điều dưỡng cao cấp (cử nhân điều dưỡng) không chỉ thực hiện các công việc của điều dưỡng chính mà còn đảm nhận các kỹ thuật chăm sóc phức tạp mà điều dưỡng chính không thể thực hiện Họ còn tham gia vào công tác đào tạo, quản lý và sử dụng thành thạo các thiết bị y tế trong khoa.
Đối với bệnh nhân nặng và nguy kịch, việc chăm sóc theo chỉ định y tế là rất quan trọng Người chăm sóc cần theo dõi sát sao và báo cáo kịp thời những diễn biến bất thường cho bác sĩ điều trị để có thể xử lý nhanh chóng và hiệu quả.
- Ghi những thông số, dấu hiệu, triệu chứng bất thường của người bệnh và cách xử lí vào phiếu theo dõi và phiếu chăm sóc theo quy định
Cuối mỗi ngày làm việc, nhân viên y tế cần bàn giao bệnh nhân cho điều dưỡng trực, đồng thời ghi chép lại các y lệnh còn lại trong ngày và những yêu cầu theo dõi, chăm sóc cho từng bệnh nhân, đặc biệt là những trường hợp nặng.
- Bảo quản tài sản, thuốc, dụng cụ y tế; trật tự và vệ sinh buồng bệnh, buồng thủ thuật trong phạm vi được phân công
Tham gia nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực chăm sóc người bệnh và hướng dẫn thực hành cho học viên là nhiệm vụ quan trọng của điều dưỡng trưởng khoa Công tác này không chỉ nâng cao kiến thức chuyên môn mà còn đảm bảo chất lượng chăm sóc bệnh nhân được cải thiện.
- Tham gia thường trực theo sự phân công của điều dưỡng trưởng khoa
- Động viên người bệnh an tâm điều trị Bản thân phải thực hiện tốt quy định y đức
- Thường xuyên tự học, cập nhật kiến thức
- Điều dưỡng lập kế hoạch chăm sóc cho người bệnh còn sơ sài, chưa đáp ứng hết nhu cầu chăm sóc của người bệnh
- Điều dưỡng chưa thực sự lắng nghe tâm tư nguyện vọng của người bệnh để giúp đỡ họ về mặt tâm lý
Điều dưỡng cần cải thiện việc giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân, đặc biệt là cung cấp đầy đủ kiến thức về bệnh trầm cảm cho cả bệnh nhân và người nhà của họ.
- Hoạt động giám sát, đánh giá của điều dưỡng Trưởng chưa thường xuyên, chưa hiệu quả
- Điều dưỡng làm việc theo mô hình nhóm/ca, họ phụ trách 2 đến 3 buồng bệnh nên không có thời gian nhiều dành cho người bệnh
- Việc tổ chức các hoạt động tập thể tại các khoa như thể dục thể thao, lao động làm vườn gần như là không có
3.3 Nguyên nhân của các tồn tại
- Bố trí nhân lực theo mô hình chưa hợp lý
- Năng lực điều dưỡng còn hạn chế do chưa yên tâm công tác
- Nhân viên y tế nói chung và điều dưỡng nói riêng chưa phát huy hết các liệu pháp tâm lý dùng cho người bệnh
- Thiếu các văn bản pháp quy hoặc chế tài chưa đủ mạnh nên việc giám sát, đánh giá chưa hiệu quả
- Bệnh viện chưa có đủ cơ sở vật chất cho người bệnh tập luyện và lao động
3.3.2 Đối với người nhà người bệnh
Nhiều gia đình của người bệnh thường cảm thấy chán nản và mệt mỏi, dẫn đến việc thiếu quan tâm đúng mức đối với người bệnh Do tình hình kinh tế khó khăn, họ thường bỏ mặc người bệnh, không đưa đi viện hoặc nếu có đưa đi thì lại bỏ rơi tại bệnh viện mà không chăm sóc.
Gia đình người bệnh thường thiếu kiến thức về bệnh tật và cách chăm sóc người bệnh, dẫn đến việc họ tin rằng bệnh do ma quỷ gây ra Họ thường đưa bệnh nhân đi cúng bái tại các phủ, đền, chùa, và chỉ khi tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng và tài chính kiệt quệ, họ mới quyết định đưa bệnh nhân đến bệnh viện để khám và điều trị.
Chế độ lao động, làm việc và dinh dưỡng của người bệnh rối loạn lo âu cần được gia đình chú trọng hơn, bao gồm việc cung cấp các thực phẩm dễ tiêu, giàu năng lượng và nhiều rau xanh phù hợp với khẩu vị của bệnh nhân Ngoài ra, bệnh nhân nên được khuyến khích ngồi dậy, đứng lên, đi lại nhẹ nhàng trong phòng, tham gia các hoạt động như nhặt rau, nấu cơm, quét nhà và chơi các môn thể thao mà họ từng yêu thích.
Việc chưa động viên và giao cho người bệnh những công việc nhẹ nhàng phù hợp với khả năng của họ có thể dẫn đến áp lực quá mức Khi người bệnh phải thực hiện những nhiệm vụ vượt quá khả năng, họ dễ cảm thấy không hoàn thành, từ đó nảy sinh sự tự ti, bi quan và chán nản.