CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận
1.1.1.1 Định nghĩa tăng huyết áp
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), một người lớn được chẩn đoán là tăng huyết áp (THA) khi có huyết áp tâm thu (HATT) vượt quá 140 mmHg hoặc huyết áp tâm trương (HATTr) vượt quá 90 mmHg Ngoài ra, người bệnh cũng có thể được xác định là THA nếu đang điều trị bằng thuốc hạ huyết áp hàng ngày hoặc đã được ít nhất hai lần chẩn đoán bởi cán bộ y tế.
Bệnh tăng huyết áp (THA) không chỉ là một bệnh lý đơn giản mà còn là một rối loạn phức tạp với nhiều nguyên nhân, triệu chứng và phản ứng điều trị khác nhau.
1.1.1.2 Phân loại tăng huyết áp
Tại Việt Nam, phân loại tăng huyết áp (THA) hiện nay dựa trên tiêu chí của WHO-ISH, theo bảng phân loại do Hội Tim mạch Việt Nam công bố năm 2010 Phương pháp phân loại này tương đồng với tiêu chuẩn của Hiệp hội Tăng huyết áp châu Âu và Hiệp hội Tim mạch châu Âu (ESH/ESC) năm 2013.
Bảng 1.1 Mức độ THA theo WHO - ISH và khuyến cáo của Hội Tim Mạch Việt
Khái niệm HATT (mmHg) HATTr (mmHg)
HA bình thường cao 130-139 Và/hoặc 85-89
Theo WHO - ISH và Hội Tim Mạch Việt Nam năm 2010, nếu một người có cả tăng huyết áp tâm thu (HATT) và tăng huyết áp tâm trương (HATTr), thì việc phân độ tăng huyết áp (THA) sẽ dựa trên mức huyết áp cao hơn.
1.1.1.3 Tỷ lệ tăng huyết áp
Nghiên cứu về tăng huyết áp (THA) đã được công bố rộng rãi trên toàn cầu, với tỷ lệ mắc bệnh ở các nước phát triển như Châu Âu dao động từ 30-45% trong tổng dân số, tỷ lệ này tăng theo độ tuổi Tại Mỹ, theo báo cáo của Hiệp hội Tim và Đột quỵ Hoa Kỳ (AHA/ASH), có 77,9 triệu người lớn mắc THA vào năm 2013, và dự kiến sẽ tăng 7,2% vào năm 2030 Ở Việt Nam, nghiên cứu của Phạm Gia Khải vào năm 1998 cho thấy tỷ lệ mắc THA là 16,09%, tăng lên 16,32% trong giai đoạn 2001-2002, và 18,69% theo nghiên cứu của Tô Văn Hải năm 2002 Tại Huế, tỷ lệ THA tại Bệnh viện Trung ương Huế đã tăng từ 1% năm 1980 lên 10% năm 1990 và 21% vào năm 2007 Kết quả nghiên cứu của Hồ Thanh Tùng năm 2004 cho thấy tỷ lệ THA tại Thành phố Hồ Chí Minh là 20,5%.
1.1.1.4 Nguyên nhân của tăng huyết áp
Khoảng 90 - 95% các trường hợp bị THA là không có nguyên nhân trực tiếp (hay còn gọi là THA nguyên phát) Còn lại 5-10% các trường hợp có nguyên nhân gây lên (hay còn gọi là THA thứ phát) [14]
* Tăng huyết áp thứ phát:
- Bệnh thận: Viêm cầu thận cấp, viêm cầu thận mạn hai bên do mắc phải thận đa nang, ứ nước bể thận, u thận làm tiết rénin, hẹp động mạch thận
Bệnh vỏ tuyến thượng thận, hội chứng Cushing, u sản xuất quá thừa các Corticosteroid khác (Corticosterone, desoxycortisone), sai lạc trong sinh tổng hợp Corticosteroid
Bệnh tủy thượng thận, u tủy thượng thận (Pheochromocytome)
Bệnh tim mạch: Bệnh hẹp eo động mạch chủ, viêm hẹp động mạch chủ bụng chỗ xuất phát động mạch thận, hở van động mạch chủ
Thuốc: Các Hormone ngừa thai, cam thảo, carbenoxolone, A.C.T.H Corticoides, Cyclosporine, các chất gây chán ăn, các IMAO, chất chống trầm cảm vòng
- Các nguyên nhân khác: Bệnh cường giáp, bệnh Beri-beri Bệnh Paget xương, bệnh đa hồng cầu, hội chứng carcinoid, toan hô hấp, tăng áp sọ não
1.1.1.5 Biểu hiện lâm sàng của tăng huyết áp
THA thường không có triệu chứng rõ ràng, khiến nhiều người không nhận ra mình mắc bệnh cho đến khi gặp phải các biến chứng nghiêm trọng như THA kịch phát, tai biến mạch não hay đột quỵ Theo thông tin từ NNANES năm 2007, chỉ có 81,5% người mắc THA ở Mỹ nhận thức được tình trạng của mình Do đó, THA được coi là "kẻ giết người thầm lặng".
Đa số người bệnh tăng huyết áp không có triệu chứng rõ ràng cho đến khi được chẩn đoán Triệu chứng thường gặp nhất là đau đầu vùng chẩm, bên cạnh đó, người bệnh có thể cảm thấy hồi hộp, mệt mỏi, khó thở và mờ mắt, nhưng những triệu chứng này không đặc hiệu Ngoài ra, một số triệu chứng khác có thể xuất hiện tùy thuộc vào nguyên nhân hoặc biến chứng của bệnh tăng huyết áp.
- Triệu chứng thực thể Đo huyết áp: Là động tác quan trọng, cần bảo đảm một số quy định
Bệnh nhân mắc hội chứng Cushing thường có biểu hiện béo phì và mặt tròn, trong khi bệnh nhân bị hẹp eo động mạch chủ thường phát triển cơ chi trên vượt trội hơn cơ chi dưới Ngoài ra, cần chú ý đến các dấu hiệu xơ vữa động mạch trên da như u vàng, u mỡ và cung giác mạc.
Khám tim mạch giúp phát hiện sớm các dấu hiệu như dày thất trái và suy tim trái, cũng như tình trạng hẹp eo động mạch chủ qua việc kiểm tra các động mạch gian sườn Ngoài ra, việc sờ và nghe động mạch còn giúp nhận diện các trường hợp nghẽn hoặc tắc động mạch cảnh trong động mạch chủ bụng.
Cần chú ý đến hiện tượng huyết áp giả ở người cao tuổi mắc bệnh tiểu đường và suy thận, do xơ cứng vách động mạch khiến trị số huyết áp đo được cao hơn huyết áp nội mạch Để loại trừ hiện tượng này, có thể áp dụng thủ thuật Osler hoặc đo huyết áp trực tiếp Ngoài ra, hiện tượng "áo choàng trắng" cũng đang được cố gắng loại trừ thông qua phương pháp đo huyết áp liên tục (Holter tensionnel).
Khám bụng có thể giúp phát hiện tiếng thổi tâm thu hai bên rốn, dấu hiệu của hẹp động mạch thận hoặc phồng động mạch chủ Ngoài ra, việc khám cũng có thể phát hiện sự hiện diện của thận to hoặc thận đa nang.
Khám thần kinh có thể phát hiện các tai biến mạch não cũ hoặc nhẹ
Cần đơn giản, mục đích để đánh giá nguy cơ tim mạch, tổn thương thận và tìm nguyên nhân
Billan tối thiểu (theo Tổ chức Y tế thế giới):
Máu: Kali máu, creatinine máu, cholesterol máu, đường máu, hematocrite, acide Uric máu
Nước tiểu: Hồng cầu, protein
Nếu có điều kiện nên làm thêm soi đáy mắt, điện tim, X quang tim, siêu âm
Các xét nghiệm hay trắc nghiệm đặc biệt
Đối với tăng huyết áp thứ phát hay tăng huyết áp khó xác định Ví dụ: Bệnh mạch thận: cần chụp U I V nhanh, thận đồ, trắc nghiệm Saralasin
1.1.1.6 Tổn thương cơ quan đích có thể gặp ở người tăng huyết áp
Suy tim và bệnh mạch vành là nguyên nhân chính gây tử vong ở bệnh nhân tăng huyết áp (THA) Dày thất trái dẫn đến suy tim toàn bộ, trong khi suy mạch vành có thể gây nhồi máu cơ tim và phù phổi cấp Suy tim thường xảy ra do THA kéo dài, khiến thất trái phình to và giảm sức bóp của cơ tim Ban đầu, bệnh nhân sẽ gặp triệu chứng mệt mỏi và khó thở khi gắng sức, sau đó tiến triển thành khó thở ngay cả khi nghỉ ngơi Ngoài ra, bệnh nhân có thể xuất hiện triệu chứng như da xanh, niêm mạc nhợt nhạt, phù và tím tái.
Tai biến mạch máu não có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng, dẫn đến di chứng nặng nề cho người bệnh, thậm chí là tàn tật hoặc tử vong, bao gồm nhũn não, tắc mạch não và xuất huyết não Bên cạnh đó, người bệnh cũng có thể trải qua các cơn tai biến mạch máu não thoáng qua với triệu chứng như lú lẫn, yếu nửa người, co giật, nôn mửa và đau đầu dữ dội Mặc dù những cơn này không để lại di chứng nặng, nhưng chúng vẫn là dấu hiệu của tổn thương mạch não cần được chú ý.
Thận là một trong những cơ quan bị ảnh hưởng bởi bệnh tăng huyết áp (THA), dẫn đến các vấn đề như xơ vữa động mạch sớm, sự xuất hiện của albumin vi niệu, protein niệu và suy thận Những tổn thương này sẽ được phân tích chi tiết trong phần về tổn thương thận ở bệnh nhân THA.
Cơ sở thực tiễn
Nghiên cứu về tình trạng tuân thủ điều trị trên người bệnh tăng huyết áp có tổn thương thận tại Việt Nam
Hiện nay, các nghiên cứu về lo âu của người bệnh tăng huyết áp có tổn thương thận ở Việt Nam và trên thế giới
1.2.1 Thực trạng tuân thủ điều trị tăng huyết áp trên thế giới?
THA là một yếu tố nguy cơ cao đối với bệnh tim mạch ở các nước phát triển và đang trở thành một vấn đề sức khỏe toàn cầu do gia tăng tuổi thọ và tần suất các yếu tố nguy cơ Theo ước tính, THA gây tử vong cho 7,1 triệu người trẻ tuổi và chiếm 4,5% gánh nặng bệnh tật toàn cầu Nhiều thử nghiệm lớn trên thế giới đã chứng minh rằng điều trị THA có tác dụng giảm đáng kể tỷ lệ bệnh lý, biến chứng và tử vong liên quan đến tim mạch.
Tuân thủ điều trị là yếu tố quyết định trong việc quản lý bệnh tăng huyết áp (THA), nhưng không phải bệnh nhân nào cũng thực hiện đúng và đầy đủ Nghiên cứu của Ezulier và Hussain (2000) cho thấy rằng 92% bệnh nhân tuân thủ điều trị đã kiểm soát được huyết áp, trong khi chỉ có 18% bệnh nhân không tuân thủ đạt được kết quả tương tự Tỷ lệ biến chứng ở nhóm bệnh nhân tuân thủ là 30,1%, so với 46,3% ở nhóm không tuân thủ Đặc biệt, 36,8% bệnh nhân không tuân thủ cho biết họ không đủ khả năng tài chính để mua thuốc hạ huyết áp.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang năm 2013 tại Serbia với 170 bệnh nhân điều trị tăng huyết áp cho thấy các yếu tố quan trọng dẫn đến việc không tuân thủ điều trị bao gồm: không tuân thủ liều dùng (27,27%), hay quên (22,73%) và không thường xuyên kiểm tra sức khỏe (11,36%) Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỷ lệ tác dụng phụ ở nhóm không tuân thủ chế độ điều trị cao hơn nhiều so với nhóm tuân thủ.
Biểu đồ 1.1 Các nguyên nhân hàng đầu của sự ít tuân thủ thuốc điều trị
Nghiên cứu năm 2011 của Osamor Pauline và Owumi Bernard tại Tây Nam Nigeria chỉ ra rằng chỉ có 51% người tham gia đạt được kiểm soát huyết áp, với các yếu tố quan trọng như việc khám sức khỏe định kỳ và sự hỗ trợ từ gia đình hoặc bạn bè trong việc nhắc nhở uống thuốc.
Một nghiên cứu tại Brazil của Daniel và Eugenia (2013) cho thấy tỷ lệ bệnh nhân bỏ trị trong năm đầu điều trị lên đến 16 - 50% Hầu hết bệnh nhân cần ít nhất 2 loại thuốc chống tăng huyết áp, với khoảng 30% cần 3 loại thuốc hoặc nhiều hơn Đáng chú ý, một nửa số bệnh nhân ngừng điều trị trong vòng một năm sau khi được chẩn đoán Chỉ có 50% bệnh nhân tuân thủ điều trị, và mức độ tuân thủ này bị ảnh hưởng bởi lựa chọn thuốc, bệnh lý kèm theo và việc sử dụng dịch vụ y tế Nhiều khảo sát cho thấy khoảng 75% bệnh nhân tăng huyết áp không đạt được huyết áp tối ưu, với lý do thất bại bao gồm việc không phát hiện sớm tăng huyết áp và sự tuân thủ điều trị không đầy đủ.
NB, thiếu hướng dẫn của thầy thuốc và những liệu pháp đầy đủ [15]
Nghiên cứu quốc tế cho thấy rằng tỷ lệ điều trị tăng huyết áp (TTĐT) cao có khả năng kiểm soát huyết áp hiệu quả và giảm thiểu các biến chứng liên quan Ngược lại, một tỷ lệ bệnh nhân không được điều trị liên quan đến khả năng tài chính hạn chế trong việc mua thuốc.
1.2.2.Thực trạng tuân điều trị tăng huyết áp ở Việt Nam
Nghiên cứu đánh giá TTĐT của người bệnh THA điều trị ngoại trú tại bệnh viện
Nghiên cứu của Trần Thị Loan (2012) tại tỉnh Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ thuốc đạt 51,4%, tuân thủ thay đổi lối sống là 47,1%, và tỷ lệ tuân thủ điều trị tăng huyết áp chung chỉ đạt 35,7% Bệnh nhân có kiến thức về bệnh và chế độ điều trị đạt 57,6% Phân tích hồi quy đa biến chỉ ra rằng giới tính, trình độ học vấn, sự hướng dẫn của cán bộ y tế, mức độ nhắc nhở về điều trị, biến chứng của bệnh và mức độ tăng huyết áp là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tuân thủ chế độ điều trị tăng huyết áp.
Một nghiên cứu của Nguyễn Hữu Đức (2012) tại bệnh viện Bạch Mai cho thấy trong số 194 hội viên Câu lạc bộ NB THA, nữ chiếm 63,4% và nam 36,6%, với 72,27% người trên 60 tuổi Đáng chú ý, 86,6% đối tượng đã nghỉ hưu, trong đó 77,8% mắc bệnh THA mức độ vừa và nặng, và 80,4% có biến chứng Tỷ lệ người bệnh đạt kiến thức về bệnh và tuân thủ điều trị là 84,5%, với kiến thức về chế độ ăn, tập luyện và dùng thuốc đạt trên 90% Tuy nhiên, 33% người bệnh hiểu sai rằng THA có thể chữa khỏi Tỷ lệ tuân thủ điều trị là 85,6%, với tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc, chế độ ăn nhạt và không hút thuốc lần lượt là 75,8%, 92,8% và 97,45%.
Kết quả khảo sát về sự tuân thủ điều trị (TTĐT) của bệnh nhân (NB) tại Khoa Nội Tim mạch Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang do Nguyễn Tuấn Khanh thực hiện vào năm 2013 cho thấy các yếu tố liên quan đến việc tuân thủ điều trị của bệnh nhân Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến TTĐT để cải thiện kết quả điều trị cho bệnh nhân tim mạch.
Theo khảo sát, 86,9% bệnh nhân (NB) uống thuốc mỗi ngày và 87,4% tuân thủ theo toa bác sĩ Tỷ lệ NB tái khám đúng hẹn đạt 78,1% và có thực hành hạn chế ăn mặn trong điều trị bệnh tăng huyết áp (THA) Ngoài ra, 73,2% NB đã bỏ thuốc lá và 71% hạn chế uống rượu Tuy nhiên, lý do chính dẫn đến việc không tuân thủ điều trị là sợ hạ huyết áp (65%), lo ngại về tác dụng phụ của thuốc (53%), và khó khăn về kinh tế (48,6%) Nguyên nhân quên uống thuốc chỉ chiếm 19,7% Tổng tỷ lệ NB tuân thủ điều trị THA là 26,3%.
Tỷ lệ tuân thủ các khuyến cáo về điều trị thuốc, chế độ ăn uống, không hút thuốc, hạn chế uống rượu/bia, tập thể dục và theo dõi huyết áp thường xuyên lần lượt đạt 61,5%; 40,4%; 95,4%; 21,9%; 20% Đặc biệt, tỷ lệ tuân thủ đồng thời cả 6 khuyến cáo chỉ đạt 1,9% Đây là kết quả từ nghiên cứu cắt ngang có phân tích của Nguyễn Hải Yến.
260 NB THA đến khám và điều trị ngoại trú tại Khoa Khám Bệnh, bệnh viện E, năm 2011[17]
Theo nghiên cứu của Đỗ Thị Bích Hạnh (2013) về thực trạng điều trị tăng huyết áp (THA) tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước, tỷ lệ điều trị đạt thấp, chỉ 33,3% Trong đó, điều trị bằng thuốc đạt 56,3%, tuân thủ chế độ ăn uống chỉ 27,4%, và tuân thủ không hút thuốc đạt 84,7% Tỷ lệ người bệnh tuân thủ đo huyết áp và tái khám định kỳ là 31,3%, trong khi tuân thủ chế độ tập luyện và hạn chế uống bia/rượu đạt 82,6% Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc điều trị có liên quan đến sự giải thích của cán bộ y tế về chế độ điều trị, với những người được giải thích rõ có khả năng tuân thủ điều trị bằng thuốc cao gấp 3,5 lần Tuân thủ chế độ ăn có mối liên quan thống kê với thời gian điều trị, kiến thức về bệnh và chế độ điều trị THA Ngoài ra, các yếu tố như nhóm tuổi, nghề nghiệp, thời gian điều trị, tiền sử bản thân có biến chứng, trình độ của cán bộ y tế và sự hỗ trợ từ cơ quan, đoàn thể xã hội cũng có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ tuân thủ điều trị.
Theo tác giả Lý Huy Khanh, nghiên cứu tại bệnh viện Trưng Vương cho thấy tỷ lệ NB THA bỏ trị sau 6 tháng điều trị là 79% [12]
Năm 2017, nghiên cứu của Kiên Sóc Kha về tình hình điều trị tăng huyết áp (THA) tại Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh Trà Vinh cho thấy tỷ lệ tuân thủ điều trị chung đạt 48,57% Trong đó, 72,57% bệnh nhân giảm ăn mặn, 95,4% hạn chế rượu bia, và 74,3% không hút thuốc lá trong quá trình điều trị Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ chế độ tập luyện hàng ngày từ 30-60 phút đạt 89,71% Hầu hết bệnh nhân được tái khám định kỳ hàng tháng với tỷ lệ đạt 99,10%, và tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc điều trị THA là 94,86% Tuy nhiên, chỉ có 28% bệnh nhân theo dõi huyết áp tại nhà hàng ngày, và 52,57% bệnh nhân đạt được trị số huyết áp mục tiêu.
Nghiên cứu trong nước cho thấy tỷ lệ không tuân thủ điều trị thuốc, chế độ ăn uống, không hút thuốc, hạn chế uống rượu, tập thể dục và theo dõi huyết áp tại nhà vẫn còn cao Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ điều trị tăng huyết áp (THA) bao gồm giới tính, trình độ học vấn, sự hướng dẫn từ cán bộ y tế về chế độ điều trị, mức độ nhắc nhở từ cán bộ y tế, cũng như các biến chứng và mức độ nghiêm trọng của bệnh THA.
MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT Error! Bookmark not defined 2.1 Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh THA có tổn thương thận điều trị ngoại trú tại KKB - BVBM tháng 9, 10 năm 2020
Giới thiệu sơ lược về Bệnh viện Bạch Mai, Khoa Khám Bệnh - BVBM
Bệnh viện Bạch Mai là một trong những bệnh viện đa khoa hàng đầu tại Việt Nam, có lịch sử hoạt động hơn 100 năm Với nhiều chuyên khoa đầu ngành và đội ngũ cán bộ y tế có trình độ chuyên môn cao, bệnh viện cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân.
Khoa Khám Bệnh - Bệnh viện Bạch Mai, được thành lập vào tháng 10 năm 1954, hàng năm điều trị ngoại trú cho khoảng 550.000 lượt bệnh nhân Hiện tại, mỗi ngày có từ 3.000 đến 3.500 người đến khám, trong đó có từ 150 đến 200 bệnh nhân tăng huyết áp, và khoảng 30 đến 40 người có tổn thương thận do tăng huyết áp Tất cả bệnh nhân tăng huyết áp tại Khoa Khám Bệnh đều được tham gia chương trình quản lý bệnh mãn tính.
Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh THA có tổn thương thận điều trị ngoại trú tại KKB - BVBM tháng 9, 10 năm 2020
2.1.1 Giới thiệu sơ lược về Bệnh viện Bạch Mai, Khoa Khám Bệnh - BVBM
Bệnh viện Bạch Mai, một trong những bệnh viện đa khoa hàng đầu tại Việt Nam, đã có hơn 100 năm hoạt động và cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao Với đội ngũ bác sĩ chuyên môn giỏi và nhiều chuyên khoa đầu ngành, bệnh viện cam kết mang đến sự chăm sóc sức khỏe tốt nhất cho bệnh nhân.
Khoa Khám Bệnh - Bệnh viện Bạch Mai, được thành lập vào tháng 10 năm 1954, hàng năm phục vụ khoảng 550.000 lượt người bệnh ngoại trú Hiện tại, mỗi ngày có từ 3.000 đến 3.500 bệnh nhân đến khám, trong đó có khoảng 150 đến 200 người mắc tăng huyết áp (THA) và từ 30 đến 40 người có tổn thương thận do THA Tất cả bệnh nhân THA được khám tại Khoa đều tham gia chương trình quản lý bệnh mãn tính THA.
2.1.2 Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh THA có tổn thương thận điều trị ngoại trú tại KKB - BVBM tháng 9, 10 năm 2020
2.1.2.1 Đối tượng khảo sát và phương pháp thu thập số liệu Đối tượng khảo sát: Người bệnh đã được chẩn đoán xác định THA có tổn thương thận đang điều trị ngoại trú trong chương trình quản lý bệnh THA tại Khoa Khám Bệnh - Bệnh viên Bạch Mai trong thời gian từ 01/09/2020 đến 30/10/2020 Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Người bệnh đang điều trị ngoại trú trong chương trình quản lý bệnh THA từ 01/09/2020 đến 30/10/2020
- Người bệnh tăng huyết áp có tổn thương thận
- Người bệnh từ 18 tuổi trở lên
- Người bệnh có khả năng giao tiếp và sẵn sàng trả lời câu hỏi
- Người bệnh đồng ý tham gia khảo sát
- Người bệnh không điều trị trong chương trình quản lý bệnh THA
- Người bệnh tăng huyết áp nhưng không có tổn thương thận
Người bệnh gặp khó khăn trong việc nghe và nói, đồng thời được xác định không đủ sức khỏe thể chất và tinh thần để hoàn thành khảo sát hoặc phỏng vấn do điều tra viên thực hiện Tình trạng này có thể do mê sảng hoặc mất trí nhớ liên quan đến các bệnh lý tâm thần đã được chẩn đoán.
- Người bệnh không có BHYT
- Người bệnh không đồng ý tham gia khảo sát
Thời gian và địa điểm khảo sát:
Khảo sát được tiến hành từ 01/09/2020 đến 30/10/2020 tại phòng quản lý bệnh THA - Khoa Khám Bệnh - Bệnh viện Bạch Mai
Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu bằng kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện, thống kê danh sách bệnh nhân tăng huyết áp (THA) điều trị ngoại trú tại Khoa Khám Bệnh - Bệnh viện Bạch Mai trong tháng 9 và tháng 10/2020 Sau khi tiến hành xét nghiệm máu và nước tiểu, chúng tôi đã chọn ra 216 bệnh nhân THA có tổn thương thận thỏa mãn các tiêu chí lựa chọn trong thời gian khảo sát.
Công cụ thu thập thông tin:
Thông tin thu thập qua bệnh án khảo sát và bộ câu hỏi có sẵn (chi tiết xem tại phụ lục)
Bài viết này trình bày quy trình thu thập số liệu từ bệnh nhân bị tăng huyết áp (THA) có tổn thương thận, bao gồm việc thực hiện xét nghiệm máu và nước tiểu Tất cả bệnh nhân sẽ được ghi nhận thông tin chung và một số thông tin cá nhân trong hồ sơ bệnh án trong chương trình quản lý bệnh THA Sau đó, các bệnh nhân sẽ được phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi phỏng vấn đã được chuẩn bị.
2) nhằm trả lời mục tiêu mô tả thực trạng tuân thủ điều trị THA có TTH gồm 4 phần:
- Phần A: Một số thông tin chung của ĐTKS (gồm 10 câu hỏi)
- Phần B: Thông tin kiến thức của NB về bệnh và chế độ điều trị của ĐTKS (gồm 12 câu hỏi)
Phần C của bài viết tập trung vào thông tin tuân thủ điều trị thuốc của ĐTKS, bao gồm 9 câu hỏi đánh giá Tiêu chuẩn đánh giá cho phần này là xác định đạt hoặc không đạt dựa trên câu trả lời của người bệnh cho các câu hỏi C1 đến C10 Cụ thể, để được đánh giá là đạt, người bệnh cần trả lời đúng các câu hỏi: C1 (ý 2), C2 (ý 1), C3 (ý 1), C4 (ý 1), và C5 (ý 1).
4); câu C6 (ý 1); câu C7 (ý 2); câu C8 (ý 1); câu C9 (ý 1) Nếu NB trả lời không đúng đáp án cho từng câu như trên sẽ được tính không đạt
- Phần D: Thông tin tuân thủ các biện pháp thay đổi lối sống và khám định kỳ của ĐTKS (gồm 05 câu hỏi)
Tổng số người bệnh thực hiện khảo sát: 216 người bệnh
Kết quả khảo sát
2.1.3.1 Thông tin chung của đối tượng khảo sát
Biểu đồ 2.1 Đặc điểm giới tính của đối tượng khảo sát (n!6)
Biểu đồ 2.1 cung cấp thông tin tổng quát về đối tượng khảo sát, trong đó có 216 người bệnh tham gia Cụ thể, 101 người bệnh nam giới chiếm 47%, trong khi 115 người bệnh nữ giới chiếm 53% Tỷ lệ giới tính trong khảo sát này khá cân bằng.
Biểu đồ 2.2 Đặc điểm nhóm tuổi của đối tượng khảo sát (n = 216)
Dưới 70 tuổi Từ trên 70 tuổi
Theo Biểu đồ 2.2, trong khảo sát, nhóm đối tượng trên 70 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 118 người, tương đương 55% Trong khi đó, nhóm tuổi dưới 70 chỉ có 97 người, chiếm 45% Tuổi trung bình của các đối tượng tham gia khảo sát là 70,5 với độ lệch chuẩn SD = 9,2.
Bảng 2.1 Một số thông tin chung của đối tượng khảo sát (n = 216) Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Số lượng Tỷ lệ (%)
Tình trạng hôn nhân Độc thân 16 7,4%
Tình trạng hút thuốc lá, thuốc lào
Tình trạng uống rượu Có 48 22,2%
Tình trạng dùng muối Ăn như mọi người 191 88,4%
Thói quen thích ăn mặn 25 11,6%
Chế độ luyện tập thể chất Có 192 88,9%
Theo số liệu từ bảng 2.1, nghề nghiệp chủ yếu của người bệnh tham gia khảo sát là hưu trí, chiếm 86,6%, trong khi đó, tỷ lệ người bệnh trong độ tuổi lao động chỉ là 13,4%.
Trong số người bệnh tham gia khảo sát thì đa số đều đã kết hôn, nhóm này chiếm 92,6%; còn lại nhóm người bệnh ly dị, độc thân chiếm 7,4%
Tỷ lệ người bệnh hút thuốc lá và thuốc lào chỉ chiếm 13,9%, trong khi nhóm không hút chiếm đa số với 86,1% Đối với tình trạng uống rượu, chỉ có 22,2% người bệnh uống rượu, còn lại 77,8% không uống hoặc uống không đáng kể.
Về tình trạng dùng muối, chỉ có 25 đối tượng có thói quen ăn mặn chiếm 11,6%; ăn như mọi người bình thường chiếm 88,4%
Trong một nghiên cứu, tỷ lệ người bệnh tham gia có thói quen tập thể dục thể thao thường xuyên đạt 88,9%, trong khi chỉ có 11,1% số người bệnh không thực hiện hoạt động thể chất hàng ngày.
Bảng 2.2 Thông tin chung của đối tượng khảo sát (n = 216) Đặc điểm của đối tượng khảo sát Số lượng Tỷ lệ (%)
Khoảng cách đến viện < 50km 105 48,6%
Chỗ ở khi đi điều trị bệnh Nhà riêng 165 76,4%
Theo số liệu trong bảng 2.2, nhóm đối tượng tham gia khảo sát cho thấy khoảng cách đến viện trên 50 km chiếm 51,4%, trong khi khoảng cách ≤ 50 km là 48,6% Tỷ lệ này tương đương nhau.
Chỗ ở trong thời gian điều trị bệnh, 76,4% số người bệnh ở tại nhà riêng; 23,6% số người bệnh ở nhờ nhà người thân hoặc phải thuê nhà trọ để ở
Bảng 2.3 Đặc điểm hoàn cảnh kinh tế, thu nhập của đối tượng khảo sát
(n = 216) Hoàn cảnh kinh tế, thu nhập Số lượng Tỷ lệ (%)
Theo số liệu từ bảng 2.3, chỉ có 2 người bệnh tham gia khảo sát (chiếm 0,9%) thuộc hộ nghèo, trong khi 99,1% còn lại có tình hình kinh tế bình thường.
Bảng 2.4 Mức độ tăng huyết áp của đối tượng khảo sát (n = 216)
Mức độ tăng huyết áp Số lượng Tỷ lệ (%)
Theo số liệu từ bảng 2.4, mức độ tăng huyết áp của đối tượng khảo sát cho thấy: 30,1% người bệnh mắc tăng huyết áp độ I, 42,6% ở độ II và 27,3% ở độ III.
Bảng 2.5 Phân bố thời gian phát hiện THA của đối tượng khảo sát (n = 216) Thời gian mắc THA (năm) Số lượng Tỷ lệ (%)
Theo số liệu từ bảng 2.5, thời gian phát hiện bệnh tăng huyết áp ở đối tượng khảo sát cho thấy 56,5% người bệnh có thời gian mắc bệnh dưới 5 năm Trong khi đó, 42,6% bệnh nhân, tương đương 92 người, có thời gian mắc bệnh từ 5 đến 10 năm Chỉ có 2 người bệnh có tiền sử mắc bệnh tăng huyết áp trên 10 năm, chiếm tỷ lệ nhỏ nhất.
Trong một nghiên cứu kéo dài 10 năm, tỷ lệ người mắc bệnh tăng huyết áp (THA) chiếm 0,9% Tác giả đã gộp hai nhóm cuối lại với nhau, cho thấy nhóm người bệnh có thời gian mắc THA từ 5 năm trở lên chiếm tới 43,5%.
Bảng 2.6 Phân bố đối tượng KS theo các mức độ tổn thương thận (n = 216) Mức độ tổn thương thận Số lượng Tỷ lệ (%)
Bệnh thận mạn giai đoạn 1,2 19 8,8%
Bệnh thận mạn giai đoạn 3 172 79,6%
Bệnh thận mạn giai đoạn 4,5 25 11,6%
Bảng 2.6 cung cấp số liệu về mức độ tổn thương thận, được đánh giá qua chỉ số MLCT, của đối tượng khảo sát Trong đó, có một số lượng người bệnh mắc bệnh thận mạn ở giai đoạn hiện tại.
Trong nghiên cứu về bệnh thận mạn, giai đoạn 1 và 2 chiếm tỷ lệ 8,8% với 19 trường hợp, trong khi giai đoạn 4 và 5 có 25 trường hợp, tương đương 11,6% Đặc biệt, giai đoạn 3 có số lượng bệnh nhân cao nhất với 172 trường hợp, chiếm tỷ lệ 79,6%.
Bảng 2.7 Thông tin chung về đặc điểm tình trạng bệnh của đối tượng KS (n = 216) Đặc điểm tình trạng bệnh Số lượng Tỷ lệ (%)
Tiến triển bệnh Bình thường và xấu đi 38 17,6%
Tác dụng phụ khi điều trị
Số liệu bảng 2.7: Cho thấy tiến triển bệnh tốt chiếm 82,4%; bình thường và xấu đi chiếm tỷ lệ 17,6%
- Tỷ lệ các bệnh mắc kèm lần lượt là: Đái tháo đường chiếm 50,0%; Rối loạn mỡ máu chiếm 56,9%, TBMMN chiếm 18,5% và 12,0% trường hợp mắc suy tim
- Số người bệnh bị tác dụng phụ: Không và ít chiếm 22,2%; số lượng phỏng vấn có ghi nhận tác dụng phụ trung bình và nhiều là đáng kể chiếm 77,8%.
Phân tích sự hiểu biết và tuân thủ điều trị của đối tượng khảo sát
2.2.1 Hiểu biết của NB về bệnh và chế độ điều trị THA có tổn thương thận
Biểu đồ 2.3 cho thấy rằng 99% bệnh nhân (214 người) nắm rõ tình trạng bệnh thận của mình, trong khi chỉ có 2 người, chiếm chưa tới 1%, không biết về bệnh Điều này cho thấy ý thức theo dõi bệnh của bệnh nhân rất tốt.
Bảng 2.8 Số lượng người bệnh biết tình trạng THA có kèm theo tổn thương thận
Nặng Trung Bình Nhẹ Không nắm được
Kiến thức về bệnh Số lượng Tỷ lệ (%)
Nắm đuợc về tình trạng
THA có tổn thương thận
Số liệu bảng 2.8: Cho thấy đa số NB nắm được về tình trạng THA có TTH là
Trong số 205 người, 77,8% đã nhận thức được tình trạng tổn thương thận nguy hiểm kèm theo bệnh tăng huyết áp Tuy nhiên, vẫn còn 11 người bệnh, chiếm khoảng 5,1%, chưa nắm rõ tình trạng này Mặc dù tỷ lệ này có vẻ nhỏ, nhưng nó phản ánh sự thiếu hiểu biết sâu sắc về bệnh tật của chính người bệnh, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao nhận thức và giáo dục về sức khỏe.
Biểu đồ 2.4 Hiểu biết của NB về tiến triển bệnh của bản thân
Biểu đồ 2.4 cho thấy rằng phần lớn người bệnh (82,4%) có hiểu biết tốt về tiến triển bệnh của mình, với 178 người nhận định tình trạng bệnh đang cải thiện Trong khi đó, 37 người (17,1%) cho rằng tiến triển bệnh là bình thường, chỉ có 1 người (0,5%) cảm thấy tình trạng bệnh xấu đi.
Bảng 2.9 Hiểu biết của NB về các bệnh mắc kèm
Kiến thức về bệnh Số lượng Tỷ lệ (%) Nắm được bản thân có các bệnh mắc kèm theo không
Tốt Bình thường Xấu đi
Theo số liệu từ bảng 2.9, 87% bệnh nhân (188 người) nhận thức được rằng họ có các bệnh mắc kèm, trong khi chỉ có 13% (28 người) không biết về tình trạng sức khỏe của mình.
Bảng 2.10 Hiểu biết của NB về các loại thuốc đang điều trị
Kiến thức về bệnh Số lượng Tỷ lệ (%)
NB hiểu hết công dụng của các thuốc đang sử dụng để điều trị
Theo số liệu từ bảng 2.10, 94,4% bệnh nhân (204 người) hiểu rõ công dụng của các loại thuốc họ đang sử dụng để điều trị, trong khi chỉ có 5,6% (12 người) không nắm bắt được thông tin này.
Biểu đồ 2.5 cho thấy rằng đa số bệnh nhân (79,1%) có hiểu biết hạn chế về tác dụng phụ của thuốc, với 171 người có kiến thức ít Chỉ có 44 người (20,4%) có hiểu biết trung bình, trong khi chỉ 1 người (0,5%) thể hiện hiểu biết nhiều về tác dụng phụ của thuốc đối với cơ thể.
Biểu đồ 2.6 Hiểu biết của NB về tiền sử THA của gia đình mình
Theo biểu đồ 2.6, đa số người bệnh (NB) không nắm rõ tiền sử tăng huyết áp (THA) trong gia đình, với 83 người chiếm 38,4% Có 70 người, tương đương 32,4%, cũng không biết về tiền sử THA của gia đình Chỉ có 63 người, chiếm 29,2%, hiểu biết về vấn đề này.
Biểu đồ 2.7 Tỷ lệ sử dụng thuốc điều trị đúng hướng dẫn
Biểu đồ 2.7 cho thấy tỷ lệ người bệnh sử dụng thuốc điều trị theo đúng hướng dẫn của bác sĩ là khá cao, với 186 người chiếm 86% Trong khi đó, có 30 người, tương đương 14%, chỉ uống thuốc khi xuất hiện triệu chứng của cơn tăng huyết áp.
Biểu đồ 2.8 Số lượng NB hiểu biết kiến thức điều trị phải tuân thủ yêu cầu của
BS trong quá trình điều trị (n!6)
Uống thường xuyên theo hướng dẫn của BS
Chỉ uống khi có biểu hiện của cơn THA
Uống thuốc theo đúng chỉ dẫn của BS
Chế độ ăn hạn chế muối, chất béo
Hạn chế uống rượu bia
Không hút thuốc lá/lào
Tập thể dục 30-60 phút/ngày Đo và ghi số đo HA vào sổ theo dõi
HA tại nhà thường xuyên
Biểu đồ 2.8 cho thấy, trong số bệnh nhân (NB), có 161 người (74,5%) hiểu biết về việc tuân thủ chế độ ăn hạn chế muối và chất béo theo yêu cầu của bác sĩ (BS) Ngoài ra, 152 người (70,4%) nhận thức được tầm quan trọng của việc uống thuốc đúng chỉ dẫn của BS, và 146 người (67,6%) biết cần phải hạn chế rượu bia trong quá trình điều trị.
Trong một nghiên cứu, có 134 người không hút thuốc lá hoặc thuốc lào, chiếm 62% tổng số Bên cạnh đó, 137 người, tương đương 63,4%, thực hiện tập thể dục từ 30 đến 60 phút mỗi ngày Ngoài ra, 128 người, chiếm 59%, thường xuyên đo và ghi số đo huyết áp vào sổ theo dõi tại nhà.
Bảng 2.11 Tình trạng cơ bản về kiến thức và điều trị bệnh của đối tượng khảo sát
Tình trạng cơ bản về kiến thức và điều trị bệnh của đối tượng khảo sát Số lượng Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ tuân thủ chế độ ăn nói chung của NB trong quá trình điều trị
Giảm ăn mặn ( 200g thịt/ngày 172 79,6% Nhận thức được người bệnh THA cần phải điều trị suốt đời
Tỷ lệ nhận thức việc cần phải bỏ hút thuốc của NB
Theo số liệu từ bảng 2.11, đa số bệnh nhân (89,4%) đã thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh bằng cách giảm tiêu thụ muối (dưới 6g/ngày), hạn chế mỡ động vật, và tăng cường ăn rau xanh, hoa quả tươi Tuy nhiên, vẫn còn 10,6% bệnh nhân (23 người) duy trì thói quen ăn uống bình thường.
Về tỷ lệ tuân thủ chế độ ăn thịt hằng ngày của NB: NB ăn > 200g thịt/ngày là
172 người chiếm 79,6% < 200g thịt/ngày là 44 người chiếm 20,4 %
Trong một nghiên cứu, có tới 180 người (chiếm 83,3%) nhận thức rằng bệnh nhân tăng huyết áp (THA) cần phải điều trị suốt đời Tuy nhiên, vẫn còn 36 người bệnh (chiếm 16,7%) chưa nhận thức được rằng THA là một tình trạng cần được quản lý liên tục.
Tỷ lệ nhận thức của người bệnh (NB) về việc cần bỏ hoàn toàn thuốc lá là rất cao, với 141 người, chiếm 65,3% Bên cạnh đó, có 71 người, tương đương 32,9%, nhận thức được rằng cần giảm bớt việc hút thuốc Chỉ có 4 người, chiếm 1,9%, cho rằng không cần thiết phải bỏ thuốc.
2.2.2 Thông tin tuân thủ điều trị thuốc
Biểu đồ 2.9 cho thấy lý do chính khiến bệnh nhân quên uống thuốc là do không có người nhắc nhở, chiếm 74,5% với 161 người Tiếp theo, lý do tuổi cao dẫn đến khó nhớ chiếm 70,4% với 152 người Bận rộn với công việc là lý do của 67,6% bệnh nhân, tương đương 146 người Ngoài ra, việc phải uống nhiều loại thuốc cũng là nguyên nhân khiến 62% bệnh nhân quên, tức 134 người Cuối cùng, lý do khác được ghi nhận là 63,4% với 137 người Bảng 2.12 cung cấp thông tin chi tiết về tình trạng tuân thủ sử dụng thuốc trong điều trị bệnh.
Tình trạng tuân thủ sử dụng thuốc trong điều trị bệnh Số lượng Tỷ lệ (%)
Sự tin tưởng của NB vào bác sỹ điều trị
Tuổi cao khó nhớ Không có người nhắc Bận công việc Do phải uống nhiều loại thuốc Lý do khác
Tuân thủ uống thuốc mỗi ngày từ lúc bắt đầu điều trị THA có tổn thương thận tại BV
31,0% Trong tuần qua ông/bà có quên uống thuốc hạ HA, thuốc tổn thương thận
Khi có việc đi xa nhà, ông/bà có quên mang thuốc
Khi thấy HA đã được kiểm soát ông/bà có bao giờ tự ý ngừng uống thuốc
Có 70 32,4% Ông/bà có thấy phiền toái vì ngày nào cũng phải uống thuốc
Có 80 37,0% Ông/bà có thấy khó khăn khi phải nhớ uống tất cả các loại thuốc
Theo số liệu từ bảng 2.12, đa số bệnh nhân thể hiện sự tin tưởng cao vào bác sĩ điều trị, với 209 người, chiếm 96,8% Chỉ có 7 người, tương đương 3,2%, có mức độ tin tưởng bình thường đối với bác sĩ Đáng chú ý, không có bệnh nhân nào tỏ ra thiếu niềm tin vào bác sĩ điều trị.
Các vấn đề còn tồn tại
Nhiều bệnh nhân có thói quen khám bệnh vào buổi sáng, dẫn đến tình trạng quá tải tại thời điểm này, trong khi số lượng khám vào buổi chiều rất ít Điều này xuất phát từ mong muốn hoàn tất cả các xét nghiệm và quy trình khám trong cùng một buổi.
Nhân viên y tế làm việc theo ca vào buổi sáng nhưng thiếu hụt nhân lực vào buổi chiều do tình hình dịch Covid vẫn còn phức tạp Họ phải hướng dẫn bệnh nhân khai báo thông tin y tế, phân luồng, sàng lọc và thực hiện các biện pháp phòng dịch Điều này dẫn đến việc Khoa không đủ nhân lực để tư vấn và hướng dẫn bệnh nhân về việc tuân thủ sử dụng thuốc Đối tượng bệnh nhân đến khám và điều trị chủ yếu là người cao tuổi, trong đó nhóm trên 70 tuổi chiếm 55% Tỷ lệ bệnh nhân tăng huyết áp có tổn thương thận và mắc các bệnh kèm theo cũng khá cao, với 50% mắc bệnh tiểu đường, 57% mắc rối loạn chuyển hóa lipid và 18,5% mắc bệnh gout, tất cả đều cần điều trị bằng thuốc thường xuyên.
43,5% là tỷ lệ NB có thời gian điều trị THA có tổn thương thận tại bệnh viện trên 05 năm khá đồng đều so với nhóm mắc bệnh dưới 5 năm;
94,9% bệnh nhân nhận thức được tình trạng biến chứng do tăng huyết áp (THA) liên quan đến tổn thương thận, trong khi chỉ có 5,1% bệnh nhân khảo sát không biết về tình trạng này.
Trong một cuộc khảo sát, 36 đối tượng, chiếm 16,7%, cho rằng bệnh tăng huyết áp (THA) có tổn thương thận không nhất thiết phải điều trị suốt đời Đáng chú ý, một số người vẫn giữ quan điểm rằng khi mắc THA có tổn thương thận, họ không cần phải bỏ thuốc lá hoặc thuốc lào Điều này cũng phản ánh qua tỷ lệ người bệnh không thường xuyên đo và ghi số đo huyết áp vào sổ theo dõi.
Mặc dù bệnh nhân (NB) có trình độ cao và kiến thức tốt về bệnh tăng huyết áp (THA) có tổn thương thận, nhưng việc tuân thủ điều trị vẫn chưa đạt yêu cầu Tỷ lệ bệnh nhân quên uống thuốc từ khi bắt đầu điều trị chiếm 8,3%, trong đó 31% quên uống thuốc trong tuần qua và 30,1% quên mang theo thuốc hạ huyết áp khi đi xa Đặc biệt, có tới 32,4% bệnh nhân tự ý ngừng hoặc đổi thuốc khi cảm thấy khó chịu Nguyên nhân chính dẫn đến việc quên uống thuốc chủ yếu là do tuổi cao và thiếu sự nhắc nhở từ người khác, chiếm trên 70%, bên cạnh đó, 67,6% cho biết do bận rộn với công việc.
Mặc dù việc tuân thủ các biện pháp thay đổi lối sống, theo dõi huyết áp và tái khám định kỳ là rất quan trọng, nhưng vẫn có một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân không tuân thủ tốt Cụ thể, có 22% bệnh nhân vẫn thường xuyên uống rượu hoặc bia trong quá trình điều trị tăng huyết áp có tổn thương thận, 11% không thực hiện chế độ luyện tập hoặc đi bộ thường xuyên, 11% vẫn duy trì thói quen ăn mặn như trước khi mắc bệnh, và 10,6% không thay đổi chế độ làm việc, không thực hiện nghỉ ngơi hợp lý.
Trong số 216 bệnh nhân được khảo sát, có 30 người (chiếm 13,9%) cho biết đã từng hút thuốc lá hoặc thuốc lào Đáng chú ý, một số bệnh nhân mặc dù đang điều trị tăng huyết áp và có tổn thương thận vẫn tiếp tục duy trì thói quen hút thuốc.
NB không đo và ghi số đo HA vào sổ theo dõi thường xuyên chiếm tỷ lệ 14%
NB không tuân thủ chế độ tái khám là 11,6%; trong đó 15,2% chỉ tái khám khi có dấu hiệu bất thường.
Nguyên nhân
Khoa Khám Bệnh tại Bệnh viện Bạch Mai hiện đang thiếu các thiết bị như tivi, pano và bảng treo thông tin y tế, đồng thời chưa có phòng tư vấn và giáo dục sức khỏe riêng Đối tượng bệnh nhân chủ yếu là người cao tuổi, thường gặp nhiều biến chứng do tăng huyết áp và tổn thương thận, cùng với sự lão hóa dẫn đến suy giảm trí nhớ Điều này khiến nhiều bệnh nhân quên uống thuốc đúng giờ.
Tỷ lệ bệnh nhân mắc 2-3 bệnh kèm theo khá cao, với 50% mắc bệnh tiểu đường, 56,9% mắc rối loạn chuyển hóa lipid, 18,5% mắc bệnh thiếu máu não và 12% mắc suy tim Những bệnh này đều yêu cầu điều trị bằng thuốc thường xuyên, dẫn đến việc bệnh nhân phải uống nhiều loại thuốc mỗi ngày, gây phiền toái và khó nhớ.
Tỷ lệ NB có thời gian điều trị THA tại bệnh viện đa phần ở nhóm trên và dưới
Trong 5 năm qua, tỷ lệ người tham gia khảo sát trên 10 năm là rất thấp, dẫn đến việc nhiều người bệnh (NB) có phần chủ quan và chưa nhận thức đầy đủ về vai trò cũng như tầm quan trọng của việc tuân thủ sử dụng thuốc theo chỉ định.
Nhiều bệnh nhân (NB) thiếu sự quan tâm và nhắc nhở từ người thân trong việc tuân thủ chế độ điều trị, đồng thời cũng không có hệ thống nhắc nhở và cảnh báo thường xuyên để hỗ trợ họ.
Cán bộ y tế nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị tăng huyết áp (THA) cho bệnh nhân có tổn thương thận, vì sự chủ quan có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng Nhiều bệnh nhân cao cấp, mặc dù có trình độ hiểu biết cao và đã điều trị lâu năm, vẫn cần được nhắc nhở thường xuyên về yêu cầu điều trị để đảm bảo sức khỏe.
Công tác tư vấn và giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân của bác sĩ và điều dưỡng trong khoa chưa đạt hiệu quả cao do sự quá tải vào những thời điểm nhất định Đội ngũ điều dưỡng còn thiếu kinh nghiệm và khả năng truyền đạt thông tin chưa thuyết phục, dẫn đến thiếu tự tin khi tư vấn cho bệnh nhân là cán bộ cao cấp.
Hình thức tư vấn GDSK hiện tại vẫn mang tính một chiều và chủ yếu là hình thức, thiếu thời gian thảo luận và hướng dẫn cụ thể cho từng cá nhân Mặc dù các buổi tư vấn của Câu lạc bộ NB THA thu hút đông đảo người tham gia, nhưng chưa tạo ra môi trường thuận lợi cho việc chia sẻ kinh nghiệm giữa các thành viên.
Quan điểm nhận thức về tuân thủ các biện pháp thay đổi lối sống và kiến thức điều trị bệnh của bệnh nhân còn hạn chế Cụ thể, 10,6% bệnh nhân vẫn ăn uống bình thường mà không theo chế độ bệnh, trong khi 79,6% tiêu thụ hơn 200g thịt mỗi ngày Đặc biệt, 39,8% bệnh nhân có tiền sử sử dụng thuốc nam và thuốc không rõ nguồn gốc Hơn nữa, 27% bệnh nhân chưa đến tái khám đúng hẹn, và 15% cho biết chỉ quay lại khám khi có dấu hiệu bất thường trên cơ thể.