CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khái niệm về tuân thủ điều trị thuốc
Tuân thủ điều trị thuốc là việc sử dụng đúng cách tất cả các loại thuốc được bác sĩ kê đơn, bao gồm việc uống thuốc thường xuyên và theo đúng liều lượng, ngay cả khi huyết áp đã trở lại bình thường Người bệnh không nên tự ý thay đổi thuốc hoặc liều lượng mà không có sự hướng dẫn của cán bộ y tế.
Bệnh THA
THA là khi huyết áp tâm thu ≥ 140mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90mmHg [1]
2.2 Nguyên nhân gây tăng huyết áp
2.2.1 Tăng huyết áp thứ phát
Tăng huyết áp triệu chứng, hay còn gọi là tăng huyết áp có nguyên nhân, chiếm khoảng 5-15% tổng số trường hợp tăng huyết áp, thường gặp ở người trẻ tuổi Các nguyên nhân phổ biến dẫn đến tình trạng này bao gồm nhiều yếu tố khác nhau.
Bệnh thận bao gồm nhiều loại, như viêm cầu thận cấp và mạn tính, viêm thận mạn tính (cầu thận và kẽ thận), bệnh thận bẩm sinh, thận đa nang, ứ nước bề thận, u tăng tiết renin, hẹp động mạch thận và suy thận Các vấn đề này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng thận và sức khỏe tổng thể của người bệnh.
Bệnh nội tiết bao gồm các rối loạn như cường aldosterol tiên phát (hội chứng Conn), cường tuyến thượng thận (hội chứng Cushing), phì đại tuyến thượng thận bẩm sinh, u tủy thượng thận, tăng calci máu, cường tuyến giáp và bệnh to các đầu chi Những tình trạng này ảnh hưởng đến chức năng hormone trong cơ thể, dẫn đến nhiều triệu chứng và biến chứng khác nhau Việc nhận biết và điều trị kịp thời các bệnh nội tiết này là rất quan trọng để duy trì sức khỏe và chất lượng cuộc sống.
Bệnh mạch máu có thể bao gồm các vấn đề như hẹp eo động mạch chủ, dẫn đến tăng huyết áp ở chi trên và giảm huyết áp ở chi dưới Ngoài ra, hở van động mạch chủ gây ra tăng huyết áp tâm thu và giảm huyết áp tâm trương Một tình trạng khác là rò động tĩnh mạch, ảnh hưởng đến lưu thông máu.
Một số nguyên nhân khác: Nhiễm độc thai nghén, bệnh đa hồng cầu, nhiễm toan hô hấp (nguyên nhân thần kinh)
2.2.2 Tăng huyết áp nguyên phát
Tăng huyết áp nguyên phát, hay còn gọi là tăng huyết áp vô căn, là tình trạng không xác định được nguyên nhân và chiếm hơn 95% các trường hợp tăng huyết áp Tình trạng này thường gặp ở người trung niên và người cao tuổi.
Mặc dù nguyên nhân cụ thể của tăng huyết áp chưa được xác định, nhưng một số yếu tố đã được xác nhận là nguy cơ chính, bao gồm: hút thuốc lá, rối loạn chuyển hóa lipid, tiểu đường, tuổi tác (nam giới trên 55 tuổi, nữ giới trên 65 tuổi, và những người đã mãn kinh), cùng với tiền sử gia đình có bệnh tim mạch sớm (nam dưới 65 tuổi, nữ dưới 55 tuổi) Ngoài ra, các yếu tố khác như béo phì, thiếu hoạt động thể lực, sang chấn tinh thần và nghiện rượu cũng góp phần làm tăng nguy cơ.
2.2.3 Tăng huyết áp ở phụ nữ mang thai
Trong giai đoạn mang thai, huyết áp của phụ nữ thường không thay đổi trong ba tháng đầu, giảm nhẹ trong ba tháng giữa, và có thể trở về mức ban đầu hoặc tăng nhẹ trong ba tháng cuối.
Tăng huyết áp ở phụ nữ mang thai, đặc biệt là trong tiềm sản giật làm tăng nguy cơ xảy ra biến cố đối với bà mẹ và thai nhi [17]
Cơ chế sinh bệnh của tăng huyết áp nguyên phát
Tăng huyết áp động mạch thường liên quan đến những biến đổi sinh lý bệnh trong hệ thần kinh giao cảm, thận và hệ renin - angiotensin, cùng với các cơ chế huyết động dịch thể khác.
Biến đổi về huyết động
Tần số tim và lưu lượng tim tăng lên, trong giai đoạn đầu, có hiện tượng co mạch để phân bổ lại máu từ ngoại vi về tim phổi, dẫn đến sự gia tăng sức cản mạch máu Tim phản ứng bằng cách tăng cường hoạt động bù trừ, gây ra hiện tượng dày thất trái Huyết áp và sức cản ngoại biên cũng tăng dần, trong khi lưu lượng tim và lưu lượng tâm thu giảm, cuối cùng dẫn đến suy tim.
Trong các biến đổi huyết động, hệ thống động mạch thường bị tổn thương sớm Trước đây, chỉ có tiểu động mạch bị coi là nguyên nhân làm gia tăng sức cản ngoại biên, nhưng hiện nay đã nhận thấy vai trò của các mạch máu lớn trong huyết động học của tăng huyết áp Các động mạch lớn có chức năng giảm xung động và lưu lượng máu từ tim, do đó, độ giãn động mạch là chỉ số quan trọng phản ánh khả năng của chúng Sự giảm độ giãn này cho thấy độ cứng của động mạch lớn, là dấu hiệu của tăng huyết áp, có thể dẫn đến phì đại thất trái và tổn thương cấu trúc đàn hồi của vách động mạch.
Tăng sức cản mạch thận dẫn đến giảm lưu lượng máu và suy giảm chức năng thận Mặc dù trong giai đoạn đầu, tốc độ lọc cầu thận và hoạt động chung của thận vẫn còn được duy trì.
Tại não, lưu lượng vẫn giữ được thăng bằng trong một giới hạn nhất định ở thời kỳ có tăng huyết áp rõ
Khi huyết áp tăng, sức cản ngoại biên tăng và thể tích huyết tương có xu hướng giảm cho đến khi thận suy
Biến đổi thần kinh trong giai đoạn đầu của bệnh tăng huyết áp thể hiện qua sự gia tăng tần số và lưu lượng tim, do ảnh hưởng của hệ thần kinh giao cảm Sự hoạt động của hệ này còn được phản ánh qua nồng độ catecholamin, bao gồm adrenaline và noradrenalin, trong huyết tương và dịch não tủy, tuy nhiên, nồng độ của các chất này có thể thay đổi đáng kể trong tình trạng tăng huyết áp.
Hệ thần kinh tự động giao cảm được điều chỉnh bởi hệ thần kinh trung ương, bao gồm hành não và tủy sống, với sự kết nối giữa hai hệ này thông qua các thụ cảm áp lực.
Trong tăng huyết áp các thụ cảm áp lực được điều chỉnh đến mức cao nhất và với ngưỡng nhạy cảm cao nhất
Biến đổi về dịch thể
Hệ renin – Angiotensin - Aldosteron (RAA) đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh huyết áp, không chỉ thông qua tác dụng ngoại vi mà còn tác động trung ương tại não thông qua các thụ thể angiotensin II Nghiên cứu cho thấy, tăng huyết áp nguyên phát có thể được phân loại dựa trên nồng độ renin trong huyết tương, với sự tỷ lệ nghịch giữa nồng độ renin và angiotensin II theo độ tuổi.
Angiotensin II được tổng hợp ở gan và dưới tác dụng renin sẽ tạo thành angiotensin I rồi chuyển thành angiotensine II là một chất co mạch rất mạnh và làm tăng tiết aldosteron Sự phóng thích renin được điều khiển qua ba yếu tố: Áp lực tưới máu thận, lượng Na+ đến từ ống lượn xa, hệ thần kinh giao cảm
Vasopressin (ADH): có vai trò khá rõ ràng trong cơ chế sinh bệnh tăng huyết áp, tác dụng ngoại vi co mạch
Chất prostaglandin: tác dụng trung ương làm tăng huyết áp, tác dụng ngoại vi làm giảm huyết áp
Cơ chế sinh bệnh của tăng huyết áp thứ phát: Tùy vào nguyên nhân gây bệnh [15]
2.4 Biểu hiện lâm sàng của tăng huyết áp Đa số người bệnh tăng huyết áp không có biểu hiện lâm sàng, trừ khi đo huyết áp thấy tăng
CƠ SỞ THỰC TIỄN
Thực trạng THA và tuân thủ điều trị thuốc THA trên thế giới
Một nghiên cứu năm 2001 về tỷ lệ hiện mắc, kiểm soát và điều trị tăng huyết áp (THA) ở người cao tuổi tại Bangladesh và Ấn Độ cho thấy tỷ lệ mắc THA lên tới 65% Trong số này, chỉ 45% người cao tuổi được phát hiện và điều trị, trong đó 40% được điều trị bằng thuốc, nhưng chỉ có 10% điều trị đạt hiệu quả.
Tăng huyết áp (THA) đang trở thành một vấn đề cấp bách tại các nước đang phát triển do sự gia tăng nhanh chóng trong cộng đồng Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có khoảng 1,5 tỷ người trên toàn cầu mắc THA Tại Hoa Kỳ, vào năm 2006, số người bị THA ước tính lên tới 74,5 triệu.
Tại Mỹ, tỷ lệ người mắc tăng huyết áp (THA) rất cao, với khoảng 1 trong 3 người lớn bị ảnh hưởng Đặc biệt, tình trạng này đang gia tăng nhanh chóng ở các quốc gia đang phát triển tại châu Á và châu Phi.
Năm 2007, một nghiên cứu tại miền Nam Đài Loan cho thấy tỷ lệ tuân thủ thuốc điều trị tăng huyết áp ở người cao tuổi chỉ đạt 57,6%.
Đến năm 2008, nghiên cứu của Sharon B W at el cho thấy rằng trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi, có 83,2% bệnh nhân tăng huyết áp được điều trị bằng thuốc, trong khi 66,4% trong số đó đã kiểm soát được huyết áp của mình.
Theo khảo sát tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe cộng đồng (NHANES) từ năm 1991-1994, có 32% người Mỹ mắc bệnh tăng huyết áp (THA) không chú ý đến tình trạng của mình Tại châu Âu và Bắc Mỹ, tỷ lệ người lớn mắc bệnh THA dao động từ 15-20%.
Một nghiên cứu về sức khoẻ tim mạch tại Canada năm 1995 đã khảo sát 23.129 người từ 18 đến 74 tuổi ở 20 tỉnh thành, xác định tỷ lệ tăng huyết áp (THA) chung là 22,0%, trong đó nam giới chiếm 26% và nữ giới chiếm 19% Tương tự, một nghiên cứu ở Ấn Độ năm 1997 cho thấy tỷ lệ THA là 23,7%, trong khi nghiên cứu tại Venezuela cùng năm ghi nhận tỷ lệ THA lên tới 36,9%, với 45,2% ở nam và một tỷ lệ đáng kể ở nữ giới.
Nghiên cứu của Sonia Hammami tại Tunisia vào năm 2011 cho thấy 81% người tham gia nhận thức được tình trạng tăng huyết áp của mình Trong số những người cao tuổi mắc bệnh, 78,4% đã được điều trị, nhưng chỉ có 30,7% thực hiện điều trị đúng cách.
Thực trạng THA và tuân thủ diều trị thuốc THA tại Việt Nam
Tại Việt Nam gần đây bệnh THA có xu hướng tăng rõ rệt Sau hơn 30 năm, từ
1960 đến 1999, tỷ lệ THA tăng từ 2 - 3% lên thành 16,05% (tăng 6 - 8 lần) [13] Kết quả từ một đề tài cấp tỉnh ở Hải Dương năm 2000 cho thấy có 50% người trên 65 bị
Tỷ lệ THA trên toàn quốc năm 1992 là 11.78%, năm 2002 ở miền Bắc là
16.62% và Hà Nội là 23.2%, năm 2004 ở thành phố Hồ Chí Minh là 20.52% [13]
Nghiên cứu của Vương Thị Hồng Hải năm 2007 cho thấy, trong số bệnh nhân tăng huyết áp điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên, có 45% nhận thức được rằng việc điều trị cần phải kéo dài Tỷ lệ tuân thủ sử dụng thuốc đạt 73,4%, trong khi đó, tỷ lệ chưa tuân thủ còn lại vẫn chưa tốt.
Theo nghiên cứu của Phan Anh Phong và Lê Quang Minh năm 2010 về bệnh tăng huyết áp tại tỉnh Hà Nam, tỷ lệ kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu là 23,7% Ngoài ra, việc tuân thủ chế độ ăn kiêng và thay đổi lối sống đóng góp quan trọng với tỷ lệ 63,3%.
Tỷ lệ người mắc huyết áp cao không được kiểm soát lên đến 74,9%, trong khi 9,8% bệnh nhân không kiểm soát được huyết áp Đặc biệt, 15,3% người bệnh không tuân thủ điều trị do thiếu thông tin về bệnh tăng huyết áp, nhận thức kém, gặp khó khăn về bảo hiểm y tế, điều kiện kinh tế và vấn đề di chuyển.
Nghiên cứu của Chu Hồng Thắng năm 2008 tại xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp (THA) ở người từ 25 đến 64 tuổi là 17,7%, trong đó nam giới chiếm 20,3% và nữ giới chiếm 15,4% Đáng chú ý, có đến 75,3% người bị THA không nhận thức được tình trạng của mình, và 57,89% trong số họ chưa được điều trị thường xuyên.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Mỹ Hạnh và cộng sự chỉ ra rằng tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc ở người bệnh tăng huyết áp (THA) đang điều trị ngoại trú đạt 69,4%.
Theo nghiên cứu của Huỳnh Ngọc Diệp và Huỳnh Kim Phượng (2015) tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Tháp Mười, tỷ lệ tuân thủ điều trị của bệnh nhân tăng huyết áp (THA) chỉ đạt 23,8%.
Liên hệ thực tiễn thực trạng tuân thủ sử dụng thuốc THA tại Bệnh viện đa khoa Vân Đình – Hà Nội
3.1 Thông tin chung về Bệnh viện đa khoa Vân Đình
Bệnh viện đa khoa Vân Đình, tọa lạc tại Hà Nội, là bệnh viện hạng II và là tuyến thành phố trực thuộc Sở Y tế Hà Nội, phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân huyện Ứng Hòa và các huyện lân cận Bệnh viện có quy mô 320 giường bệnh kế hoạch và 427 giường thực kê, bao gồm 24 khoa phòng với 13 khoa lâm sàng, 6 khoa cận lâm sàng và 5 phòng chức năng Đội ngũ nhân viên gồm 420 cán bộ viên chức, trong đó có nhiều bác sĩ chuyên môn cao.
84, Điều dưỡng 290, cán bộ khác là 46 Trình độ điều dưỡng có 24 cử nhân đại học,
29 điều dưỡng cao đẳng, 237 điều dưỡng trung cấp
Bệnh viện có 13 khoa lâm sàng, bao gồm 9 khoa thuộc Khối Nội như Hồi sức tích cực – Chống độc, Nội Tim mạch Lão khoa, và Nhi, cùng 4 khoa thuộc Khối Ngoại như Khoa Phụ Sản và Phẫu thuật - Gây mê hồi sức Bệnh viện quản lý khám chữa bệnh cho 1820 người mắc bệnh tăng huyết áp (THA) tại 2 phòng khám Người bệnh THA điều trị nội trú chủ yếu tại Khoa Nội Tim mạch – Lão khoa và Khoa Nội Tổng hợp, trong khi Khoa Hồi sức tích cực – Chống độc tiếp nhận bệnh nhân có biến chứng Khoa Y học Cổ truyền và Vật lý trị liệu phục vụ cho việc phục hồi chức năng sau tai biến, và bệnh nhân mắc các bệnh khác có THA kèm theo được điều trị tại nhiều khoa trong bệnh viện.
3.2 Quy trình quản lý và điều trị bệnh THA trong bệnh viện
Theo Quyết định số 3192/QĐ-BYT ngày 31/8/2010, hướng dẫn chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp (THA) đã được ban hành cho các cơ sở khám chữa bệnh Năm 2011, Bệnh viện đa khoa Vân Đình được Sở Y tế Hà Nội giao nhiệm vụ khám, quản lý và điều trị có kiểm soát cho bệnh nhân THA trong huyện và các huyện lân cận Trong những năm gần đây, số lượng bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh viện ngày càng tăng, và những người được phát hiện mắc THA sẽ được theo dõi và hướng dẫn chăm sóc theo đúng chỉ dẫn của Bộ Y tế.
Quy trình quản lý và điều trị bệnh THA được thực hiện như sau:
- Khám chẩn đoán xác định bệnh và làm hồ sơ bệnh án
- Phổ biến quy định của bệnh viện đối với người bệnh:
+ NB được bác sĩ khám bệnh, CBYT tư vấn giải thích về bệnh THA, các nguy hiểm của bệnh và cách phòng ngừa biến chứng
+ Hàng ngày người bệnh phải tuân thủ chế độ điều trị dùng thuốc đúng giờ, đúng liều và tích cực thực hiện lối sống lành mạnh
+ Hàng ngày người bệnh đo huyết áp và ghi số đo huyết áp vào sổ theo dõi tại nhà
+ Hàng tháng NB đến khám đúng hẹn theo hướng đẫn của CBYT hoặc khám lại khi có bất kỳ dấu hiệu nào làm ảnh hưởng tới sức khỏe
Khi đi khám, bệnh nhân cần mang theo vỉ thuốc đã sử dụng để trả lại cho khoa Dược Theo báo cáo từ Khoa Khám bệnh, tỷ lệ mắc bệnh tăng huyết áp (THA) so với các bệnh nội khoa khác dao động từ 17,1% đến 19,6% Bệnh THA xuất hiện ở mọi ngành nghề trong xã hội, nhưng chủ yếu tập trung ở đối tượng từ 50 tuổi trở lên, với nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới Thời gian mắc bệnh từ 1 đến 5 năm chiếm tỷ lệ lớn nhất, tiếp theo là những người mắc bệnh trên 5 năm, trong khi tỷ lệ người mắc bệnh dưới 1 năm là thấp nhất.
3.3 Các ưu điểm và tồn tại:
Bệnh viện đã áp dụng quy trình 4 bước điều trị tăng huyết áp (THA) tại tuyến cơ sở, theo Quyết định số 3192/QĐ-BYT, nhằm quản lý và điều trị hiệu quả cho người bệnh THA.
Vào ngày 31 tháng 8 năm 2010, Bộ Y tế đã ban hành quy định nhằm đảm bảo bệnh nhân nhận được thuốc một cách đúng đắn, đầy đủ và đều đặn Quy định này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giám sát quá trình điều trị, tái khám, và phát hiện sớm các biến chứng cũng như tác dụng phụ của thuốc.
Bệnh viện đã thực hiện thành công chiến lược điều trị tăng huyết áp (THA) dựa trên mức huyết áp và nguy cơ tim mạch, theo Quyết định số 3192/QĐ-BYT ngày 31 tháng 8 năm 2010 của Bộ Y tế Chiến lược này áp dụng cho bệnh nhân THA được chuyển từ tuyến dưới lên và những bệnh nhân có biến chứng do THA.
- Bệnh viện có 02 phòng khám quản lý bệnh THA ở 02 tầng của khoa Khám bệnh, mỗi tầng đều bố trí một phòng lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm
Mỗi phòng khám được trang bị một bác sĩ và hai điều dưỡng, cùng với đầy đủ trang thiết bị và dụng cụ phục vụ cho công tác khám chữa bệnh Phòng khám còn có hệ thống điều hòa hai chiều và máy tính được kết nối mạng đầy đủ.
Các chỉ định cận lâm sàng cần phải phù hợp với tình trạng bệnh của người bệnh Kết quả các chỉ định này được chuyển trực tiếp từ các khoa đến các phòng khám, giúp người bệnh nhận được giải quyết ngay trong một buổi khám.
Bệnh nhân được lập hồ sơ bệnh án điều trị ngoại trú và theo dõi trong 1 năm tại phòng khám, đồng thời nhận sổ khám bệnh để tự theo dõi tại nhà Mỗi lần khám, bác sĩ sẽ ghi nhận đầy đủ nhận xét, chỉ định và hướng dẫn sử dụng thuốc vào đơn thuốc Đơn thuốc này được in thành 3 liên: một liên lưu trong hồ sơ bệnh án, một liên lưu tại khoa Dược và một liên lưu vào sổ khám bệnh của bệnh nhân.
- Thực hiện tốt việc phát giấy hẹn tái khám cho người bệnh
- Danh mục thuốc điều trị THA đa dạng và đầy đủ
- Hiệu quả điều trị: NB đạt huyết áp mục tiêu, giảm tỷ lệ NB bị biến chứng phải tái nhập viện
- NVYT có ít thời gian giành cho công tác tư vấn GDSK cho NB THA
- Công tác tư vấn GDSK cho NB THA chưa được chú trọng, thực hiện còn mang tính hình thức
- Thực tế theo dõi tại khoa khám bệnh còn tình trạng:
+ NB đến khám muộn hơn so với thời gian ghi trên giấy hẹn
+ Còn nhiều NB phải nhập viện điều trị nội trú do biến chứng của THA
- Thời gian NB phải chờ khám còn lâu
- Chưa giám sát được công tác sàng lọc THA, truyền thông về phòng, kiểm soát các yếu tố nguy cơ của bệnh THA trong cộng đồng
* Nguyên nhân chưa làm được:
Số lượng bệnh nhân đến khám ngày càng tăng, dẫn đến tình trạng quá tải tại các bệnh viện Trung bình, mỗi phòng khám tiếp nhận từ 80 đến 100 bệnh nhân mỗi ngày, trong khi chỉ có một bác sĩ và hai điều dưỡng phục vụ.
- Công tác tư vấn GDSK cho NB THA chưa được chú trọng:
+ Chưa có quy định cụ thể về GDSK cho NB tăng HA
+ Tài liệu tư vấn GDSK còn thiếu
- NB đến khám quá thời gian hẹn do:
+ Do tác dụng phụ của thuốc
+ Không có người đưa đi khám
- NB quên uống thuốc do:
Hầu hết người bệnh cao tuổi trên 60 tuổi thường gặp phải tình trạng suy giảm trí nhớ và có nhiều bệnh mạn tính kèm theo Do phải uống nhiều loại thuốc trong ngày, họ dễ dàng quên việc sử dụng thuốc điều trị huyết áp.
Khi tư vấn cho người bệnh, NVYT thường chỉ đưa ra thông tin chung chung mà chưa giải thích rõ về bệnh lý, đồng thời chưa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ sử dụng thuốc.
Kỹ năng tư vấn và hướng dẫn của nhân viên y tế đối với người bệnh hiện còn yếu, thường chỉ dừng lại ở việc tư vấn một chiều Họ chưa thực sự thảo luận và hỗ trợ người bệnh trong việc lựa chọn các biện pháp khắc phục tình trạng quên sử dụng thuốc.
Một số nhân viên y tế mới có ít kinh nghiệm công tác, dẫn đến khả năng giao tiếp với bệnh nhân chưa tốt Kiến thức về bệnh tăng huyết áp (THA) còn hạn chế và thiếu kỹ năng truyền thông như lắng nghe, giải thích, hướng dẫn và động viên Do đó, công tác tư vấn giáo dục sức khỏe (GDSK) cho bệnh nhân chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
+ Triệu chứng của bệnh THA không đặc hiệu nên một số NB chủ quan không sử dụng thuốc theo hướng dẫn của CBYT
Đối với bệnh viện và nhân viên y tế
- Các biện pháp góp phần làm giảm quá tải cho các phòng khám quản lý, điều trị THA để NVYT có nhiều thời gian tư vấn GDSK cho NB:
Tăng cường nguồn nhân lực cho các phòng khám chuyên quản lý và điều trị tăng huyết áp, bao gồm các bộ phận tiếp đón bệnh nhân, lấy mẫu xét nghiệm, thực hiện các kỹ thuật y tế, thu viện phí và cấp phát thuốc.
+ Tổ chức thêm phòng khám, thêm bàn lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm, thêm bàn tại khu vực cấp phát thuốc bảo hiểm
+ Thay thế phần mềm đã lạc hậu trong quản lý khám chữa bệnh
- Tổ Công tác xã hội phối hợp với khoa khám bệnh làm tốt công tác tiếp đón, hướng dẫn quy trình khám bệnh cho NB
- Tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện quy trình, quy định trong khám chữa bệnh, quản lý NB THA
1.2 Tăng cường truyền thông giáo dục sức khỏe về tầm quan trọng của việc tuân thủ chế độ điều trị và hậu quả của việc không tuân thủ điều trị
- Xây dựng những quy định cụ thể về GDSK cho NB THA
- Xây dựng nội dung, chương trình GDSK cụ thể cho NB THA:
Khi tư vấn về Giám sát Sức khỏe, cần nhấn mạnh những thông tin mà người bệnh còn chưa biết hoặc chưa hiểu rõ về tăng huyết áp (THA) Điều này bao gồm khái niệm cơ bản về THA, các biến chứng có thể xảy ra do bệnh, cũng như cách theo dõi và phòng ngừa THA hiệu quả.
Để đảm bảo hiệu quả điều trị, bệnh nhân và người nhà cần tuân thủ nghiêm ngặt hướng dẫn sử dụng thuốc được kê đơn bởi nhân viên y tế, ngay cả khi huyết áp đã trở về mức bình thường Việc tự ý thay đổi loại thuốc và liều lượng là không được phép; do đó, hãy uống thuốc theo đơn một cách đầy đủ và đúng giờ.
Trong quá trình giáo dục sức khỏe (GDSK), việc xác định đối tượng là rất quan trọng để áp dụng biện pháp phù hợp Đối với những bệnh nhân (NB) hay quên uống thuốc, cần đưa ra các biện pháp nhắc nhở hiệu quả như đặt đồng hồ báo thức, để thuốc ở nơi dễ thấy như bàn ăn, hoặc nhờ người thân hỗ trợ nhắc nhở.
Để giảm bớt gánh nặng kinh tế trong quá trình điều trị lâu dài, người bệnh không có thẻ bảo hiểm y tế có thể được tư vấn và hướng dẫn mua thẻ bảo hiểm y tế Việc này giúp họ có thể sử dụng thuốc bảo hiểm y tế cấp hàng tháng một cách hiệu quả.
Hướng dẫn người bệnh kiểm soát chỉ số huyết áp tại nhà bằng cách tự đo huyết áp bằng máy đo điện tử hoặc đến trạm y tế xã, phường Việc theo dõi huyết áp định kỳ giúp phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe và quản lý bệnh hiệu quả hơn.
+ Hướng dẫn cho người bệnh theo dõi các tác dụng phụ của thuốc huyết áp như: Ho khan, chóng mặt, mệt mỏi, buồn ngủ, khô miệng…
- Đa dạng hóa các hình thức GDSK cho người bệnh:
Để nâng cao nhận thức về bệnh tăng huyết áp (THA) trong cộng đồng, việc phối hợp với các cơ quan truyền thông địa phương như đài truyền thanh huyện và đài truyền thanh xã là rất quan trọng Những cơ quan này sẽ thực hiện các chương trình tuyên truyền nhằm cung cấp thông tin cần thiết về bệnh THA cho người dân trong khu vực.
Bệnh viện tổ chức tuyên truyền về bệnh tăng huyết áp (THA) thông qua các phương tiện truyền thông như loa, ti vi, tài liệu và tờ rơi tại các góc truyền thông của các khoa Ngoài ra, bệnh viện cũng tiến hành tuyên truyền trong các buổi họp Hội đồng người bệnh cấp khoa và cấp bệnh viện để nâng cao nhận thức về bệnh THA.
Câu lạc bộ THA được thành lập tại bệnh viện nhằm tổ chức các buổi sinh hoạt nhằm nâng cao nhận thức về bệnh tăng huyết áp Các buổi nói chuyện sẽ tập trung vào nhiều chủ đề quan trọng như định nghĩa bệnh THA, cách phòng ngừa và biến chứng có thể xảy ra, tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị, cũng như hậu quả nghiêm trọng khi không tuân thủ Ngoài ra, câu lạc bộ cũng sẽ chia sẻ thông tin về chế độ ăn uống hợp lý, chế độ luyện tập thể dục thể thao, và các tác dụng phụ của thuốc điều trị.
1.3 Thực hiện một số chương trình giáo dục, tập huấn cập nhật kiến thức về bệnh THA, cách dự phòng, quản lý bệnh và kỹ năng tư vấn giáo dục sức khỏe cho nhân viên y tế
Định kỳ tổ chức phổ biến và tập huấn cho nhân viên y tế về Quyết định số 3192/QĐ-BYT ngày 31/8/2010, nhằm hướng dẫn chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp (THA) theo chỉ đạo của Bộ Y tế.
- Tập huấn, phổ biến cho NVYT các quy định, các nội dung về GDSK cho NB THA
- Tổ chức tập huấn về kỹ năng tư vấn giáo dục sức khỏe cho nhân viên y tế đặc biệt là nhân viên mới
- Cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo, hội thảo về dự phòng, quản lý tăng huyết áp và bệnh tim mạch
Bổ sung tài liệu về bệnh tăng huyết áp và trang bị máy vi tính có kết nối mạng cho phòng đọc nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu của nhân viên y tế.
Để nâng cao hiệu quả quản lý và chăm sóc sức khỏe ban đầu, cần tăng cường công tác đào tạo và chỉ đạo tuyến về bệnh tăng huyết áp (THA) cho các cơ sở y tế, đặc biệt là Bệnh viện đa khoa huyện Mỹ Đức, Bệnh viện đa khoa huyện Phú Xuyên và Trung tâm Y tế huyện Ứng Hòa.
Đối với người bệnh THA
- Khuyến khích NB tham gia vào câu lạc bộ THA tại cộng đồng
- Tham gia mua Bảo hiểm y tế để được sử dụng thuốc BHYT cấp hàng tháng, giảm gánh nặng kinh tế cho quá trình điều trị lâu dài
- Có các hình thức như đặt đồng hồ báo giờ uống thuốc hoặc nhờ người thân nhắc nhở để tránh quên uống thuốc
- Ghi lại các tác dụng của thuốc huyết áp và thông báo cho bác sỹ theo số điện thoại ghi trên sổ khám bệnh của NB
- Tôn trọng và thực hiện đúng các hướng dẫn về sử dụng thuốc điều trị THA của cán bộ y tế, không được tự ý giảm liều hoặc bỏ thuốc
- Tự theo dõi huyết áp tại nhà và ghi vào sổ theo dõi
Để đảm bảo sức khỏe, bạn cần tái khám định kỳ theo lịch hẹn hoặc ngay khi có bất thường Khi đến khám, hãy nhớ mang theo vỉ vỏ thuốc đã sử dụng để nộp cho khoa Dược quản lý.
- Khi phải đi ra khỏi nhà dài ngày, mang theo người đủ số lượng thuốc trong những ngày xa nhà.