1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

0667 hoạt động định giá khoản nợ phục vụ hoạt động bán nợ tại NHTM CP ngoại thương việt nam luận văn thạc sỹ kinh tế

100 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hoạt Động Định Giá Khoản Nợ Phục Vụ Hoạt Động Bán Nợ Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương Việt Nam
Tác giả Đặng Thế Hoan
Người hướng dẫn GS.TS. Nguyễn Văn Tiến
Trường học Học viện Ngân hàng
Chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng
Thể loại luận văn
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 100
Dung lượng 1,06 MB

Cấu trúc

  • W , _ IW

    • ĐẶNG THẾ HOAN

    • LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

      • LỜI CẢM ƠN

      • 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

      • 3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu.

      • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

      • 5. Phương pháp nghiên cứu:

      • 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

      • 7. Kết cấu của luận văn

      • 1.1.1. Một số khái niệm

      • 1.1.2. Hoạt động bán nợ và định giá khoản nợ

      • 1.2. NỘI DUNG CÔNG TÁC ĐỊNH GIÁ KHOẢN NỢ

      • KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

      • 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển

      • 2.1.2. Cơ cấu tổ chức

      • 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh

      • Bảng 2.1: Chỉ số tài chính cơ bản của Vietcombank từ năm 2015 đến năm 2019

      • 2.2.2. Kết quả hoạt động bán nợ

      • 2.2.3. Thực trạng định giá khoản nợ tại Vietcombank

      • 2.2.4. Thành công, tồn tại và hạn chế trong hoạt động định giá khoản nợ

      • KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

      • 3.1.1. Định hướng phát triển chung của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

      • 3.1.2. Định hướng công tác xử lý nợ

      • 3.1.3. Định hướng với hoạt động định giá khoản nợ

      • 3.2.1. Ban hành hướng dẫn cụ thể cách xác định giá bán nợ

      • Giá bán nợ tối thiểu = Giá trị thu từ xử lý tài sản bảo đảm + giá trị thu hồi từ yêu cầu mở thủ tục phá sản

      • 3.2.2. Đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ

      • 3.2.3. Xây dựng kho dữ liệu về định giá khoản nợ

      • 3.2.4. Tăng cường kiểm tra chất lượng định giá.

      • 3.2.5. Tăng cường hợp tác với các công ty thẩm định giá.

      • 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ

      • 3.3.2. Kiến nghị với Bộ tài chính

      • 3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước

      • KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

      • KẾT LUẬN

      • Website

Nội dung

LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC ĐỊNH GIÁ KHOẢN NỢ TRONG HOẠT ĐỘNG BÁN NỢ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN NỢ VÀ ĐỊNH GIÁ

Khi đề cập đến khoản nợ, chúng ta thường hiểu đó là nghĩa vụ thanh toán tài sản của bên nợ đối với chủ nợ, được thể hiện qua hợp đồng hoặc phát sinh từ các quy định pháp luật.

Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN do Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 21/01/2013, khoản nợ được định nghĩa là số tiền mà tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã gửi hoặc giải ngân từng lần theo thỏa thuận trong các hoạt động tài chính.

- Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác;

- Các khoản cấp tín dụng dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;

- Các khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng;

Số tiền đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc chưa đăng ký giao dịch trên Upcom (gọi tắt là trái phiếu chưa niêm yết) không bao gồm các giao dịch mua trái phiếu chưa niêm yết từ nguồn vốn ủy thác, trong đó bên ủy thác phải chịu rủi ro.

- Ủy thác cấp tín dụng;

Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng trong nước, bao gồm cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, phải tuân thủ quy định của pháp luật Ngoài ra, tiền gửi tại các tổ chức tín dụng nước ngoài cũng được xem xét theo các quy định liên quan.

Khoản nợ từ hoạt động cho vay là khoản nợ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số nợ của các tổ chức tín dụng (TCTD) Hoạt động cho vay không chỉ là nguồn thu chính mà còn là hoạt động quan trọng nhất của các TCTD Do đó, khi đề cập đến khoản nợ, người ta thường hiểu đó là khoản nợ từ hoạt động cho vay.

Cho vay là hình thức cấp tín dụng, trong đó bên cho vay cung cấp cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng cho mục đích cụ thể trong thời gian đã thỏa thuận, với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi Gốc và lãi được hiểu là khoản nợ mà khách hàng phải trả lại.

Nợ xấu, thường được biết đến với các thuật ngữ như “non-performing loan” (NPL) và “bad debt”, là một khái niệm không đồng nhất trong lĩnh vực tài chính Trong khi "non-performing loan" được sử dụng chủ yếu bởi các chuyên gia và tổ chức ngân hàng, "bad debt" lại là thuật ngữ phổ biến hơn trên các phương tiện truyền thông Định nghĩa về nợ xấu có sự khác biệt rõ rệt giữa các quốc gia và tổ chức, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này.

Theo định nghĩa của Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) [18]:

Khoản vay ngân hàng được xem là nợ xấu khi người vay không thanh toán gốc hoặc lãi suất, hoặc cả hai, sau 90 ngày kể từ ngày đến hạn theo lịch trả nợ đã thỏa thuận.

Theo định nghĩa của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) [19]:

IMF xác định các khoản nợ xấu là các khoản vay:

- Người vay chưa thực hiện trả lãi hoặc gốc ít nhất 90 ngày trở lên từ ngày đến hạn.

- Các khoản lãi quá hạn từ 90 ngày trở lên đã được vốn hóa, tái cấp vốn hoặc bị trì hoãn theo thỏa thuận.

Các khoản thanh toán quá hạn dưới 90 ngày có thể gây ra sự lo ngại lớn, đặc biệt khi có nhiều yếu tố không chắc chắn liên quan đến khả năng thanh toán của người vay trong tương lai.

Theo Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS), nợ xấu không được định nghĩa cụ thể nhưng được xác định qua các hướng dẫn về quản lý rủi ro tín dụng Một khoản nợ được coi là không có khả năng hoàn trả khi ngân hàng nhận thấy người vay không đủ khả năng trả nợ mà chưa thực hiện biện pháp thu hồi, hoặc khi người vay đã quá hạn trả nợ 90 ngày.

Nợ xấu được định nghĩa khác nhau bởi các tổ chức, nhưng nhìn chung, nó được xác định dựa trên hai yếu tố chính: (i) Khoản nợ quá hạn trả gốc và lãi trên 90 ngày; và (ii) Khoản nợ được đánh giá có khả năng thu hồi không chắc chắn, có thể dẫn đến tổn thất.

Tại Việt Nam, nợ xấu được quy định trong thông tư 02/2013/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước, ban hành ngày 21/01/2013 Nợ xấu không được định nghĩa trực tiếp mà được xác định thông qua các nhóm nợ 3, 4 và 5, trong đó nợ xấu (NPL) bao gồm các khoản nợ thuộc các nhóm này Đặc điểm chung của nợ xấu tại Việt Nam là các khoản nợ quá hạn trên 90 ngày và không chắc chắn khả năng thu hồi, tương tự như quan điểm của các tổ chức tài chính quốc tế.

Nợ xấu luôn là một vấn đề nhức nhối, tác động tiêu cực đến các Ngân hàng, nền kinh tế và ngay cả chính con nợ:

- Đối với Ngân hàng: Tác động của nợ xấu đến các Ngân hàng là rất lớn.

Nợ xấu làm giảm hiệu quả cấp tín dụng và gây ứ đọng vốn, trong khi ngân hàng vẫn phải chịu chi phí huy động vốn cho vay Tình trạng này có thể dẫn đến mất vốn khi không thu hồi được nợ xấu, ảnh hưởng đến vốn chủ sở hữu và khả năng cho vay, thậm chí có thể dẫn đến phá sản theo quy định mới về tổ chức tín dụng Ngoài ra, nợ xấu còn làm suy giảm uy tín của ngân hàng, gây khó khăn trong việc huy động vốn và có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản Trước đây, Ngân hàng Nhà nước đã phải mua lại một số ngân hàng với giá 0 đồng do nợ xấu lớn, như GPBank, OceanBank và VNCB.

Nguồn vốn và dòng tiền đóng vai trò như mạch máu của nền kinh tế, duy trì hoạt động của các bộ phận Tuy nhiên, nợ xấu giống như cục máu đông, cản trở sự lưu thông của dòng tiền Khi nguồn vốn bị ứ đọng tại những khách hàng nợ xấu, nơi sử dụng vốn không hiệu quả, nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế lại thiếu nguồn vốn cần thiết để phát triển, từ đó kìm hãm sự phát triển chung của nền kinh tế.

Khách hàng nợ xấu gặp khó khăn trong việc vay vốn để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo nguồn trả nợ Khi không thể thanh toán, ngân hàng có quyền khởi kiện phá sản đối với doanh nghiệp, dẫn đến nguy cơ doanh nghiệp phải ngừng hoạt động hoàn toàn.

NỘI DUNG CÔNG TÁC ĐỊNH GIÁ KHOẢN NỢ

Khi định giá khoản nợ, ta có thể xét một số cách tiếp cận sau:

Tiếp cận từ khả năng trả nợ của khách hàng, tức là dựa vào thu nhập, là phương pháp định giá khoản nợ dựa trên khả năng phục hồi hoạt động của doanh nghiệp và khả năng trả nợ trong tương lai Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp định giá khoản nợ xấu xảy ra khi khách hàng mất khả năng chi trả hoặc có nguy cơ ngừng hoạt động, do đó phương pháp này thường không phù hợp Trong những trường hợp khách hàng vẫn có khả năng trả nợ, cần thu thập thông tin về kế hoạch trả nợ của họ để tính toán dòng tiền trả nợ và chiết khấu giá trị dòng tiền này về hiện tại.

Dòng tiền của khách hàng phản ánh giá trị thị trường của khoản nợ, đánh giá khả năng thu hồi nợ trong tương lai và quy đổi về hiện tại Điều này bao gồm việc xem xét lại xếp hạng doanh nghiệp và kế hoạch tài chính của doanh nghiệp liên quan đến phương án trả nợ.

Cách tiếp cận từ tài sản của khách hàng, hay còn gọi là cách tiếp cận từ thị trường, tập trung vào việc thu hồi khoản nợ thông qua việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp Để thực hiện điều này, cần phải đánh giá toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, tức là thẩm định giá trị doanh nghiệp, nhằm xác định giá trị khoản nợ có thể thu hồi Quan trọng là phải xem xét các quy định của luật phá sản doanh nghiệp, bởi giá trị doanh nghiệp sau khi trừ đi các khoản nợ theo thứ tự ưu tiên sẽ là số tiền còn lại để thanh toán cho khoản nợ.

Trong việc thu hồi nợ qua thẩm định giá doanh nghiệp, giá trị khoản nợ được xác định là số tiền có thể thu hồi từ việc bán doanh nghiệp, sau khi trừ đi các chi phí và khoản nợ ưu tiên Nếu khách hàng chỉ sử dụng một số tài sản nhất định làm tài sản đảm bảo và doanh nghiệp chưa phá sản, cần xem xét các phương pháp thu hồi nợ khác.

- Tiếp cận từ tài sản đảm bảo: là cách tiếp cận từ việc xem xét giá trị của tài sản đảm bảo Có những trường hợp cụ thể sau:

Khi giá trị sổ sách của khoản nợ thấp hơn giá trị thực tế của tài sản đảm bảo, việc bán tài sản này có thể là một giải pháp hiệu quả để thu hồi khoản nợ.

Trong trường hợp giá trị sổ sách của khoản nợ bằng hoặc cao hơn giá trị thực tế của tài sản đảm bảo, cần xem xét nguồn tiền thu hồi từ việc thẩm định giá các tài sản đảm bảo và tài sản khác của khách hàng vay theo giá trị thị trường Đồng thời, có thể đánh giá khả năng tái cấu trúc khoản nợ, quy đổi giá trị nợ bằng cổ phần, cổ phiếu, hoặc vốn góp vào doanh nghiệp dựa trên giá trị thị trường và định hướng phát triển doanh nghiệp, cùng phương án trả nợ trong tương lai.

Khi xử lý nợ xấu, chủ nợ có thể thực hiện các biện pháp thu nợ ngay cả khi con nợ và bên bảo đảm không hợp tác Một trong những biện pháp đầu tiên là bán tài sản bảo đảm, nếu có Hầu hết các hợp đồng bảo đảm cho khoản vay đều quy định rõ về việc xử lý tài sản khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ Theo quy định của pháp luật, bên cho vay có quyền thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm, như được quy định trong bộ luật dân sự 2015.

Theo quy định tại điều 299 về xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ), khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng hạn, chủ nợ sẽ xem xét phương án thu hồi nợ từ TSBĐ Nếu sau khi xử lý TSBĐ mà vẫn chưa đủ tiền trả nợ gốc và lãi, doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình theo quy định pháp luật Theo luật phá sản năm 2014, chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản sau 3 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp không thanh toán Trong trường hợp này, chủ nợ không có bảo đảm có quyền yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản để thanh lý tài sản doanh nghiệp nhằm thu hồi nợ Tóm lại, nguồn thu nợ chủ yếu đến từ hai nguồn: xử lý TSBĐ và tài sản còn lại của doanh nghiệp thông qua thủ tục phá sản.

Theo Điều 12, Thông tư 09/2015/TT-NHNN, giá mua, bán nợ và giá khởi điểm được xác định dựa trên giá trị ghi sổ của khoản nợ, lãi suất phải trả trong tương lai, phân loại khả năng thu hồi của khoản nợ và giá trị tài sản bảo đảm (nếu có).

Từ những căn cứ thực tế và quy định của pháp luật nêu trên, ta có thể xây dựng nguyên tắc định giá bán nợ như sau:

Giá định giá bán nợ tối đa được xác định bằng giá trị ghi sổ của khoản nợ và lãi Trong hoạt động cho vay, người vay sẽ trả dần nợ gốc và lãi theo lịch trình trong hợp đồng tín dụng Khi hoàn tất nghĩa vụ trả nợ, hợp đồng sẽ được tất toán Do đó, chủ mới của khoản nợ chỉ nhận được số tiền tối đa bằng số dư nợ gốc và lãi, đây là mức chặn trên của giá trị định giá.

Giá bán nợ tối thiểu được xác định bằng tổng giá trị tài sản bảo đảm và giá trị thu hồi từ việc yêu cầu phá sản doanh nghiệp Nếu tổng giá trị này vượt quá giá trị ghi sổ của khoản nợ, thì giá bán nợ sẽ tương đương với giá trị ghi sổ của khoản nợ đó.

Chương 1 của luận văn được chia làm ba phần Phần một - phần tổng quan nghiên cứu, luận văn đã đi vào tìm hiểu các công trình nghiên cứu đã có của các tác giả trong nước liên quan đến đề tài Trong phần này, theo tìm hiểu của tác giả, hiện nay tại Việt Nam chưa có đề tài nghiên cứu nào liên quan đến hoạt động định giá khoản nợ, tuy nhiên có những đề tài liên quan đến từng cấu phần trong hoạt động định giá khoản nợ Tác giả đã tìm hiểu, đánh giá các nghiên cứu đó, từ đó tìm ra những vấn đề còn tồn tại, khoảng trống tri thức mà luận văn cần tập trung nghiên cứu Phần hai, luận văn đã hệ thống lại hóa được khung lý luận cơ bản về hoạt động định giá khoản nợ bao gồm hai mục nhỏ là khung lý luận về hoạt động bán nợ, khung lý luận về hoạt động định giá; trên các khía cạnh: khái niệm; nguyên lý căn bản; quy định, hướng dẫn liên quan của pháp luật, cơ quan nhà nước Phần ba, thông qua việc tìm hiểu các cách tiếp cận định giá, luận văn đã xây dựng được cách tiếp cận cho việc định giá khoản nợ xấu nhằm mục đích bán nợ cũng như xây dựng một số nguyên tắc cơ bản cho việc định giá khoản nợ.

Dựa trên khung lý luận về định giá khoản nợ xấu để bán nợ, hai chương tiếp theo của luận văn sẽ nghiên cứu thực trạng công tác định giá nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình này.

TRẠNG CÔNG TÁC ĐỊNH GIÁ KHOẢN NỢ

Ngày đăng: 31/03/2022, 10:20

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w