NHƯNG VẤN ĐỀ LY LUẬN VỀ TRANH CHẤP PHÁT SINH
Các tranh chấp thường phát sinh trong quá trình TTQT bằng tín dụng chứng từ
BẰNG TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.2.1 Các tranh chấp thường gặp
Sự phát triển mạnh mẽ của thương mại toàn cầu đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể về kim ngạch, quy mô và chất lượng của thanh toán xuất nhập khẩu giữa các quốc gia Điều này góp phần tích cực vào nền kinh tế của các nước Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích, cũng không thể bỏ qua những tranh chấp ngày càng gia tăng trong quá trình giao dịch, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán bằng L/C Những tranh chấp này tăng theo tỷ lệ thuận với mức độ hội nhập sâu rộng vào thương mại khu vực và quốc tế.
Tranh chấp là những bất đồng giữa các bên trong quá trình thực hiện nghĩa vụ, thường xảy ra trong thanh toán bằng tín dụng chứng từ Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, trong đó hai loại điển hình là tranh chấp liên quan đến trách nhiệm của các bên tham gia và tranh chấp liên quan đến chứng từ xuất trình.
1.2.1.1 Tranh chấp liên quan tới trách nhiệm của các bên tham gia a Tranh chấp khi nhà nhập khẩu vi phạm nghĩa vụ liên quan đến L/C
Nghĩa vụ của NNK trong phương thức tín dụng chứng từ bao gồm việc tuân thủ các quy định hợp đồng và không can thiệp vào thanh toán giữa ngân hàng và người bán Những vi phạm phổ biến mà NNK thường gặp phải là không mở hoặc mở chậm L/C, mở L/C với các điều khoản không phù hợp với hợp đồng, và can thiệp vào quá trình thanh toán.
Trong trường hợp NNK không mở L/C theo hợp đồng, đây được coi là vi phạm nghĩa vụ chủ yếu Hợp đồng thường quy định rõ các hình thức trách nhiệm như nộp phạt hoặc bồi thường thiệt hại Nếu có điều khoản phạt, bên vi phạm phải nộp phạt một tỷ lệ phần trăm giá trị hợp đồng, bất kể có thiệt hại hay không Đối với bồi thường thiệt hại, bên vi phạm phải đền bù giá trị thiệt hại tương ứng nếu gây thiệt hại cho bên kia, và bên bị thiệt hại cần cung cấp chứng cứ để nhận bồi thường Trong trường hợp phải nộp phạt và bồi thường, hợp đồng sẽ quy định rõ ràng về cả hai hình thức này.
Nguyên nhân NNK không mở L/C có thể xuất phát từ chính NNK hoặc từ Ngân hàng phục vụ họ Nếu lỗi không thuộc về NNK, họ cần chứng minh rằng sự chậm trễ là do Ngân hàng, nhằm thoát khỏi trách nhiệm Ngược lại, nếu lỗi xảy ra do NNK hoặc họ không thể chứng minh mình không có lỗi, họ sẽ phải chịu trách nhiệm theo hợp đồng Để tránh bị phạt và bồi thường, NNK thường đưa ra nhiều lý do nhằm chứng minh sự vô tội Khi NXK phản bác các lý do này, tranh chấp có thể phát sinh Ngoài ra, tranh chấp cũng có thể xảy ra khi NXK yêu cầu bồi thường nhưng đưa ra chứng cứ mà NNK không chấp nhận.
Mở chậm L/C xảy ra khi người mua thực hiện việc mở L/C sau thời hạn quy định, dẫn đến vi phạm hợp đồng, cụ thể là vi phạm thời hạn mở L/C trong điều khoản thanh toán Trong trường hợp này, NNK phải chịu trách nhiệm trước NXK, trừ khi có lý do miễn trách Tuy nhiên, nhiều hợp đồng không quy định rõ ràng về thời hạn mở L/C, gây ra tranh chấp giữa NNK và NXK Hơn nữa, một số hợp đồng chỉ đề cập đến hình thức trách nhiệm khi không thực hiện hợp đồng mà không nêu rõ nghĩa vụ thực hiện đúng, dẫn đến việc NNK có thể biện minh rằng việc mở chậm L/C không phải là không thực hiện hợp đồng mà chỉ là thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận.
Khi NNK mở L/C không đúng theo quy định của hợp đồng, điều này có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng ngoại thương Mặc dù L/C là giao dịch độc lập, nhưng nó phải dựa trên hợp đồng và không được mâu thuẫn với các điều khoản thanh toán đã thỏa thuận, như thời hạn mở L/C, thời gian hiệu lực, chứng từ cần xuất trình và ngân hàng tham gia Một số NNK đã lợi dụng L/C để điều chỉnh các điều khoản không có trong hợp đồng hoặc sửa đổi nội dung bất lợi Nếu nội dung L/C mâu thuẫn với hợp đồng, như thay đổi ngày giao hàng hoặc cảng giao hàng, NNK sẽ vi phạm hợp đồng và NXK có quyền khiếu nại Ngược lại, nếu người mua yêu cầu bổ sung điều khoản như chứng nhận chất lượng hay yêu cầu đóng gói, NXK có thể xem xét đồng ý hoặc từ chối mà không có quyền khiếu nại.
Tranh chấp có thể xảy ra khi nhà xuất khẩu (NXK) nhận thấy các điều khoản trong thư tín dụng (L/C) có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của mình và yêu cầu nhà nhập khẩu (NNK) chỉnh sửa L/C, nhưng NNK không đồng ý NXK cần lưu ý rằng nếu NNK mở L/C không đúng theo các quy định đã thỏa thuận trong hợp đồng, dẫn đến việc L/C không thể thực hiện, thì NNK có quyền từ chối giao hàng Nếu NXK vẫn giao hàng, họ sẽ phải tuân thủ L/C, nếu không sẽ bị từ chối thanh toán và mất quyền khiếu nại về việc NNK mở L/C không đúng quy định.
Trường hợp NNK can thiệp vào việc thanh toán giữa ngân hàng và người bán:
Người mua không có quyền can thiệp vào quá trình thanh toán của NHPH, vì NHPH là bên chịu trách nhiệm thanh toán trực tiếp Tuy nhiên, thực tế có thể xảy ra tình huống NXK không giao hàng hoặc giao hàng giả mạo nhưng vẫn lập bộ chứng từ phù hợp với L/C Nếu ngân hàng không phát hiện hành vi lừa đảo, họ vẫn phải trả tiền cho NXK, vì L/C chỉ dựa vào chứng từ mà không xem xét tình hình thực tế của hàng hóa Cam kết thanh toán của NHPH chỉ dựa vào chứng từ và sự phù hợp của chúng với thư tín dụng, độc lập với các quan hệ thương mại khác UCP 600 chưa có chế tài xử lý phù hợp cho vấn đề này, do đó, khi phát hiện dấu hiệu lừa đảo, NNK có quyền đình chỉ thanh toán của NHPH Để làm được điều này, NNK cần cung cấp bằng chứng xác thực để yêu cầu tòa án ra lệnh cho ngân hàng đình chỉ thanh toán hoặc kiện ngân hàng NNK không thể yêu cầu trực tiếp NHPH, vì điều này có thể làm giảm uy tín của ngân hàng và vi phạm UCP 600 Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ tuân theo lệnh của tòa án, vì UCP chỉ là văn bản pháp lý áp dụng dưới luật quốc gia và luật quốc tế.
Vấn đề nảy sinh khi NHPH tin tưởng và chấp nhận yêu cầu không thanh toán cho NXK từ NNK, mặc dù NXK có thể cung cấp chứng cứ hợp lệ Tình huống này có thể dẫn đến tranh chấp, khiến người mua phải chịu trách nhiệm và NHPH bị tổn hại uy tín.
Trường hợp NNK từ chối thanh toán cho NHPH thường xảy ra khi NNK và NXK không hiểu rõ các trường hợp miễn trách nhiệm của NHPH, như mất mát hoặc chậm trễ trong việc chuyển giao thư từ, điện tín do nguyên nhân khách quan như thời tiết hay chiến tranh Khi xảy ra những tình huống này, rủi ro thuộc về bên nào sẽ phải chịu trách nhiệm Tuy nhiên, nhiều NNK không nắm bắt được điều này, dẫn đến việc họ từ chối thanh toán cho Ngân hàng khi hàng hóa bị tổn thất, gây ra tranh chấp Ngoài ra, tranh chấp cũng có thể phát sinh khi nhà xuất khẩu vi phạm nghĩa vụ liên quan đến L/C.
Nghĩa vụ quan trọng của nhà xuất khẩu (NXK) trong phương thức tín dụng chứng từ bao gồm việc giao hàng và xuất trình chứng từ NXK phải thực hiện giao hàng theo quy định của thư tín dụng (L/C) và sau đó chuẩn bị bộ chứng từ phù hợp để gửi đến ngân hàng phát hành (NHPH) nhằm nhận thanh toán.
Khi ký kết hợp đồng ngoại thương, điều khoản thanh toán quy định rõ các chứng từ cần thiết mà người bán phải chuẩn bị Nếu người bán xuất trình bộ chứng từ phù hợp với quy định của L/C, bộ chứng từ đó sẽ đủ điều kiện để người mua nhận hàng Tuy nhiên, tranh chấp có thể xảy ra khi chứng từ xuất trình tuy phù hợp nhưng không đủ điều kiện nhận hàng, có thể do người bán vi phạm nghĩa vụ liên quan đến L/C, như chứng từ giả mạo hoặc sai lệch thông tin giao hàng Ngoài ra, tranh chấp cũng có thể liên quan đến nghĩa vụ giao hàng của NXK, với một số trường hợp phổ biến cần lưu ý.
Trường hợp NXK lập chứng từ giả mạo đã xảy ra nhiều lần do khoảng cách địa lý và rào cản ngôn ngữ, khiến NNK dễ gặp phải các công ty ma hoặc lừa đảo NXK có thể không giao hàng hoặc giao hàng giả nhưng vẫn lập bộ chứng từ để đòi tiền NHPH, vi phạm nghĩa vụ giao hàng và xuất trình chứng từ Ngân hàng dựa vào chứng từ để thực hiện thanh toán, nên khi chứng từ hợp lệ, họ sẽ thanh toán cho NXK mà không chịu trách nhiệm về thiệt hại của NNK Do đó, NNK cần kịp thời phát hiện và ngăn chặn dấu hiệu lừa đảo trước khi NHPH thanh toán để tránh tổn thất Nếu NHPH đã thanh toán, NNK sẽ gặp nhiều bất lợi và có thể kiện ra tòa hoặc nhờ trọng tài quốc tế, nhưng việc này khó khăn vì đối tác có thể tuyên bố phá sản sau khi nhận tiền.
Trong trường hợp NXK lập bộ chứng từ không phù hợp với L/C, ví dụ như L/C yêu cầu vận đơn "On board" nhưng NXK lại xuất trình vận đơn "Received for shipment", sẽ dẫn đến tranh chấp liên quan trực tiếp đến quyền lợi của NNK và NHPH.
THỰC TRẠNG VỀ TRANH CHẤP VÀ VIỆC GIẢI QUYẾT
Tổng quan về Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
2.1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, được thành lập vào ngày 01/4/1963, có nguồn gốc từ Cục Ngoại hối thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đánh dấu sự khởi đầu quan trọng trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng tại Việt Nam.
Trong giai đoạn 1963-1975, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử trong bối cảnh chiến tranh chống Mỹ Ngân hàng không chỉ góp phần vào sự phát triển kinh tế miền Bắc mà còn hỗ trợ cho chiến trường miền Nam Từ năm 1976 đến 1990, Ngân hàng Ngoại thương trở thành ngân hàng đối ngoại duy nhất của Việt Nam, đảm nhận vai trò quan trọng trong việc nắm giữ ngoại hối quốc gia, thực hiện thanh toán quốc tế và cung ứng tín dụng xuất nhập khẩu.
Ngân hàng Ngoại thương đã chính thức chuyển đổi từ một ngân hàng chuyên doanh trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại sang hình thức ngân hàng đa năng theo quyết định số 403 Sự chuyển đổi này đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc mở rộng dịch vụ và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường tài chính.
Vào ngày 14/11/1990, CT đã được ban hành, tạo ra cơ chế hoạt động phù hợp và hiệu quả hơn với chính sách chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vào ngày 21 tháng 9 năm 1996, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định số 286/QĐ-NH5 về việc tái thành lập Ngân hàng Ngoại thương Ngân hàng này hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, 91, được quy định tại quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 7 tháng 3 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ, với tên giao dịch quốc tế là Bank for Foreign Trade of Vietnam, viết tắt là Vietcombank.
Vietcombank là ngân hàng thương mại nhà nước đầu tiên được Chính phủ chọn thực hiện thí điểm cổ phần hóa Vào ngày 02/06/2008, ngân hàng đã thành công trong việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng và chính thức chuyển đổi thành ngân hàng thương mại cổ phần Đến ngày 30/06/2009, cổ phiếu Vietcombank (mã VCB) đã được niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM.
Ngày 30/9/2011, Vietcombank chuyển nhượng 15% vốn cổ phần cho cổ đông chiến lược Ngân hàng TNHH Mizuho (MHCB)- một thành viên của tập đoàn tài chính Mizuho Nhật Bản.
Sau nửa thế kỷ hoạt động, Vietcombank đã có những bước tiến vượt bậc, được công nhận là “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam” bởi các tổ chức uy tín quốc tế Đặc biệt, Vietcombank là ngân hàng đầu tiên và duy nhất của Việt Nam có mặt trong Top 500 Ngân hàng hàng đầu Thế giới theo bình chọn của Tạp chí The Banker Hiện tại, hệ thống của ngân hàng có hơn 14.000 cán bộ nhân viên và hơn 400 Chi nhánh, Phòng Giao dịch, Văn phòng đại diện, cùng các đơn vị thành viên trong và ngoài nước.
Cơ cấu tổ chức của Vietcombank ngày càng mở rộng và chuyên nghiệp, bao gồm 1 Hội sở chính tại Hà Nội, 1 Sở Giao dịch, 1 Trung tâm Đào tạo, 89 chi nhánh và hơn 350 phòng giao dịch trên toàn quốc, cùng với 2 công ty con tại Việt Nam và 2 công ty con cùng 1 văn phòng đại diện ở nước ngoài Ngân hàng cũng phát triển hệ thống Autobank với hơn 2.100 máy ATM và trên 56.000 điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS) toàn quốc, cùng với mạng lưới hơn 1.800 ngân hàng đại lý tại 176 quốc gia và vùng lãnh thổ Với những thành tựu đã đạt được, Vietcombank kỳ vọng tiếp tục phát huy sức mạnh và khắc phục điểm yếu để xây dựng một tập đoàn đầu tư tài chính ngân hàng đa năng với phạm vi hoạt động quốc tế, đồng thời duy trì vai trò chủ đạo tại Việt Nam trong tương lai.
Mô hình Ngân hàng Thương mại Cổ phần (TMCP) của Vietcombank có cơ cấu quản lý với Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất, bao gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết Đại hội đồng cổ đông hoạt động thông qua các cuộc họp thường niên, bất thường và việc lấy ý kiến bằng văn bản.
Ban kiểm soát Vietcombank, được bầu bởi Đại hội đồng cổ đông, có nhiệm vụ kiểm tra và đánh giá độc lập mọi hoạt động kinh doanh, quản trị và điều hành của ngân hàng Ban này đảm bảo tính khách quan và trung thực trong việc giám sát thực trạng tài chính của Vietcombank và chịu trách nhiệm báo cáo trước Đại hội đồng cổ đông về việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Hội đồng quản trị của Vietcombank là cơ quan quản lý có quyền quyết định và thực hiện các quyền lợi cũng như nghĩa vụ của ngân hàng, ngoại trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông.
Ban Tổng giám đốc bao gồm Tổng giám đốc và Phó Tổng giám đốc, trong đó Tổng giám đốc được Hội đồng quản trị bổ nhiệm từ các thành viên của mình Ban Tổng giám đốc có trách nhiệm quản lý các khối chức năng tại Trụ sở chính.
Trụ sở chính được tổ chức với 7 khối chức năng, mỗi khối do một Giám đốc đứng đầu Các khối chức năng bao gồm: ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, kinh doanh và quản lý vốn, quản lý rủi ro, tác nghiệp, tài chính kế toán và hỗ trợ.
Sơ đồ bộ máy tổ chức, quản lý tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam có thể được khái quát bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu bộ máy quản lý Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương trong những năm gần đây
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã thực hiện phương châm hành động "Tăng tốc - Hiệu quả - Bền vững" và chỉ đạo quyết liệt trong giai đoạn 2011-2020 Kết quả là ngân hàng đã hoàn thành và vượt hầu hết các chỉ tiêu kinh doanh, bao gồm huy động vốn, tổng tài sản, tăng trưởng tín dụng, thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ Tình hình hoạt động kinh doanh của Vietcombank trong những năm gần đây cho thấy sự tăng trưởng ổn định và tiềm năng mạnh mẽ.
Tỷ đồng % Tỷ đồng % Tỷ đồng %
Tổng thu nhập hoạt động kinh doanh 17,286 100% 21,202 122.65
Tổng chi phí hoạt động kinh doanh -6,849 100% -8,306 121.27
Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng -4,591 100% -6,068
Bảng 2.1: Năng lực tài chính của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam từ năm
(Nguồn: Báo cáo thường niên Vietcombank từ năm 2014 - 2016)
Từ năm 2014 đến 2016, tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của Vietcombank liên tục tăng trưởng Đến ngày 31/12/2016, tổng tài sản của ngân hàng đạt 787,907 tỷ đồng, tăng 16.83% so với năm 2015 và 36.55% so với năm 2014 Vốn chủ sở hữu cũng ghi nhận sự tăng trưởng, đạt 48,102 tỷ đồng, tăng 6.48% so với năm 2015 và 10.65% so với năm 2014 Đặc biệt, lợi nhuận chưa phân phối đạt 5,831 tỷ đồng, tăng 28.49% so với năm 2015 và 49.39% so với năm 2014.
Thực trạng tranh chấp và công tác giải quyết tranh chấp trong TTQT bằng tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
2.2.1 Thực trạng hoạt động thanh toán bằng tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Trong những năm gần đây, xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động ngoại thương Song song với sự gia tăng này, hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam cũng đã có những bước tiến đáng kể.
Phương thức tín dụng chứng từ là một trong những hình thức thanh toán phổ biến mà ngân hàng cung cấp, đặc biệt được các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu ưa chuộng Với những ưu điểm nổi bật, phương thức này không chỉ giúp tối ưu hóa quy trình giao dịch mà còn mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Doanh số thanh toán từ L/C xuất khẩu và L/C nhập khẩu của Ngân hàng TMCP Ngoại thương đã tăng trưởng ổn định từ năm 2014 đến 2016, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu từ hoạt động thanh toán quốc tế Cụ thể, doanh thu từ L/C xuất khẩu năm 2016 tăng 4.88% so với năm 2015 và 17.92% so với năm 2014, trong khi doanh số L/C nhập khẩu tăng 14.34% so với năm 2015 và 21.13% so với năm 2014 Điều này cho thấy doanh thu từ L/C nhập khẩu cao hơn L/C xuất khẩu, phản ánh thực trạng cán cân thương mại tại Việt Nam.
Biểu đồ 2.6: Doanh số thanh toán XNK bằng phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam năm 2014 - 2016 Đơn vị: Tỷ USD
(Nguồn: Báo cáo thường niên Vietcombank từ năm 2014 - 2016)
2.2.2 Một số loại tranh chấp phổ biến và nguyên nhân phát sinh tranh chấp khi TTQT bằng tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam
Sự gia tăng hoạt động thanh toán bằng tín dụng chứng từ mang lại tiềm năng lớn cho các ngân hàng, nhưng cũng đặt ra thách thức trong việc kiểm soát và xử lý rủi ro, cũng như tranh chấp phát sinh Gần đây, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam đã ghi nhận nhiều tranh chấp liên quan đến phương thức này Những đặc điểm của L/C, cùng với sự mở cửa nền kinh tế và sự phát triển của các phương tiện hiện đại, đã làm gia tăng hoạt động xuất nhập khẩu giữa các quốc gia Tuy nhiên, hệ thống pháp luật phức tạp và khoảng cách địa lý gây khó khăn cho thanh toán bằng L/C Thêm vào đó, một số quy ước quốc tế chưa đầy đủ và không lường hết được rủi ro trong bối cảnh hình thức buôn bán ngày càng đa dạng, dẫn đến nhiều tranh chấp phức tạp hơn.
2.2.2.1 Các tình huống tranh chấp phổ biến
Tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank), các tranh chấp thường gặp chủ yếu liên quan đến chứng từ xuất trình và trách nhiệm của các bên tham gia Những tình huống tranh chấp này phản ánh thực trạng phức tạp trong quy trình giao dịch, đòi hỏi sự chú ý đặc biệt từ các bên liên quan để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ được thực hiện đầy đủ.
Mặc dù Vietcombank là một ngân hàng có uy tín trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, nhưng vẫn không tránh khỏi những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ do khối lượng giao dịch lớn và đội ngũ nhân viên mới Gần đây, các nguyên nhân sai sót chủ yếu liên quan đến vấn đề kỹ thuật, đặc biệt là trong việc kiểm tra chứng từ, thay vì các vấn đề đạo đức Những tranh chấp thường gặp liên quan đến việc ngân hàng không phát hiện đầy đủ sai biệt hoặc không tuân thủ thời hạn kiểm tra chứng từ Trường hợp ngân hàng không mở L/C đúng yêu cầu của NNK hoặc không giữ chứng từ chờ định đoạt của người bán cũng hiếm khi xảy ra Tuy nhiên, đã có những sự cố xảy ra khi ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ cho NXK do sự bất cẩn.
Vietcombank đã phát hiện ra 47 trường hợp sai lệch giữa các chứng từ, dẫn đến việc từ chối thanh toán của NHPH Bên cạnh đó, ngân hàng này cũng đã gây ra một số tranh chấp do vi phạm quy định về thời gian kiểm tra chứng từ, vượt quá 5 ngày làm việc.
NXK Việt Nam thường gặp khó khăn trong việc lập bộ chứng từ thanh toán bằng L/C do trình độ nghiệp vụ thương mại quốc tế chưa cao, dẫn đến việc phát sinh lỗi như sai chính tả, sai địa chỉ, và thiếu chứng từ Tại Vietcombank, các chứng từ gửi đến có thể không thống nhất hoặc mâu thuẫn với quy định trong L/C, gây ra rủi ro trì hoãn hoặc từ chối thanh toán Ngân hàng đã tư vấn khách hàng để khắc phục các sai sót, nhưng nếu không hoàn thiện, uy tín của ngân hàng cũng có thể bị ảnh hưởng Một số trường hợp hiếm gặp như NXK không lập được chứng từ đúng do điều khoản L/C bị khống chế hoặc lập chứng từ giả mạo cũng ít xảy ra tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam.
Tranh chấp tại Vietcombank liên quan đến NNK Việt Nam chủ yếu xuất phát từ việc không thực hiện đúng cam kết, đặc biệt trong các giao dịch vay thanh toán và mở L/C trả chậm Nhiều NNK thiếu hiểu biết về quy trình thanh toán tín dụng chứng từ, dẫn đến việc họ đổ lỗi cho Ngân hàng khi hàng hóa gặp vấn đề Sự bội ước của NNK có thể do nguyên nhân ngoài ý muốn, gây thiệt hại và mất khả năng thanh toán cho doanh nghiệp Thêm vào đó, các doanh nghiệp nhập khẩu vừa và nhỏ, chiếm tỷ lệ lớn trong khách hàng của Vietcombank, thường không có chuyên gia trong lĩnh vực này, dẫn đến việc mở L/C không chặt chẽ Trước đây, Vietcombank đã gặp phải những vụ lừa đảo, nhưng nhờ quản trị tốt hơn, tình trạng này đã giảm đi đáng kể.
Nhiều tranh chấp tại Vietcombank xuất phát từ đối tác nước ngoài do thiếu thiện chí của các doanh nghiệp hoặc ngân hàng nước ngoài Các vấn đề thường gặp bao gồm việc hàng hóa giao không đúng với chứng từ hoặc ngân hàng nước ngoài từ chối thanh toán vì những sai sót nhỏ Đôi khi, ngân hàng nước ngoài áp dụng quy định quốc tế một cách lệch lạc, gây khó khăn cho phía Việt Nam, hoặc có thể thông báo về một thư tín dụng (L/C) thiếu tính chân thực.
Bộ chứng từ trong phương thức thanh toán bằng L/C có vai trò quan trọng, dẫn đến việc tranh chấp liên quan đến chứng từ diễn ra phổ biến tại Vietcombank Những tranh chấp này thường xảy ra khi nội dung và hình thức của chứng từ không phù hợp với quy định của L/C, hoặc khi các chứng từ mâu thuẫn với nhau Các sai sót chủ yếu liên quan đến vận đơn đường biển, hóa đơn thương mại, chứng từ bảo hiểm, và giấy chứng nhận xuất xứ Nguyên nhân của các tranh chấp thường do các bên chưa am hiểu chuyên môn, hoặc do nguồn luật điều chỉnh còn hạn chế và nhiều quy định chưa rõ ràng.
2.2.2.2 về các nguyên nhân chủ yếu phát sinh tranh chấp
Nghiên cứu các vụ tranh chấp trong thanh toán bằng L/C tại Ngân hàng TMCP Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy nhiều nguyên nhân tương tự như đã phân tích trong Chương 1 Một số nguyên nhân này mang tính khách quan và khó tránh khỏi, phản ánh vấn đề chung trong thanh toán bằng tín dụng chứng từ, không chỉ riêng Vietcombank Các nguyên nhân bao gồm sự bất cập của nguồn luật điều chỉnh, tác động của kinh tế chính trị, và sự phức tạp trong quy trình thanh toán.
49 còn lại tiềm tàng nguy cơ gây ra rủi ro, tranh chấp cho những giao dịch L/C tại Vietcombank gồm có:
Một trong những nguyên nhân gây ra tranh chấp trong hợp đồng là sự bất cập trong quá trình ký kết và thực hiện Vietcombank đã ghi nhận nhiều trường hợp, trong đó các bên tham gia giao dịch thiếu hiểu biết về luật pháp, trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ yếu kém, dẫn đến việc soạn thảo hợp đồng không đầy đủ Điều này cũng khiến cho quan niệm về quyền và nghĩa vụ thực hiện hợp đồng cũng như các cam kết trở nên đơn giản và tùy tiện, dễ dẫn đến những tranh chấp không mong muốn.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong việc tìm hiểu thông tin về đối tác, dẫn đến tâm lý ỷ lại vào ngân hàng và thiếu sự đảm bảo an toàn trước lợi nhuận lớn từ các thương vụ Điều này khiến họ dễ bị các công ty ma nước ngoài lừa đảo, gây thất thoát tài chính.
Ba là, do ý thức pháp luật kém, nhiều doanh nghiệp chỉ chú trọng vào lợi ích riêng mà bỏ qua quyền lợi chung của quốc gia Hành động này có thể dẫn đến vi phạm đạo đức, thất thoát tài sản của đất nước và làm giảm lòng tin từ phía ngân hàng cũng như các đối tác nước ngoài.
Thực trạng giải quyết tranh chấp trong TTQT bằng tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Khi quan hệ hợp tác quốc tế phát triển, vấn đề phức tạp trong xuất nhập khẩu ngày càng gia tăng, đặc biệt là các tranh chấp trong hoạt động kinh tế đối ngoại Một trong những vấn đề nổi bật là các tranh chấp liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam cần tìm cách hạn chế tối đa những tranh chấp này và xây dựng chiến lược xử lý hiệu quả khi tranh chấp xảy ra, nhằm đảm bảo công bằng, giảm thiểu tổn thất và duy trì uy tín của ngân hàng.
Theo khảo sát thực tế, biểu đồ dưới đây minh họa tình hình giải quyết tranh chấp tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2016.
Biểu đồ 2.7: Tình hình giải quyết tranh chấp tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2014 - 2016
(Nguồn: Thông tin thu thập từ nơi thực tập: Chi nhánh Sở giao dịch-
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam)
Biểu đồ cho thấy tỷ lệ L/C không có tranh chấp tại Vietcombank thấp hơn tỷ lệ L/C có tranh chấp, nhưng những tranh chấp này thường không nghiêm trọng và chủ yếu là mâu thuẫn thông thường giữa các bên tham gia Các vấn đề thường gặp bao gồm thiếu dấu Original trên chứng từ gốc hoặc lỗi chính tả nhỏ Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam thường tìm cách thương lượng để giải quyết các tranh chấp này Mặc dù vẫn có một số tranh chấp không được giải quyết hiệu quả, nhưng tỷ lệ này chỉ dưới 10% Trước đây, Vietcombank đã từ chối thanh toán hàng trăm trường hợp do sai sót lớn từ phía nước ngoài, nhưng số lượng này đã giảm đáng kể trong thời gian gần đây.
Sự gia tăng dần đều của số lượng giao dịch không có tranh chấp và L/C tranh chấp được giải quyết hiệu quả là tín hiệu tích cực cho công tác thanh toán của Ngân hàng, phản ánh sự cải thiện trong trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Việc giảm thiểu rủi ro cũng giúp khẳng định uy tín của Ngân hàng Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng hiện tại vẫn còn chậm Để thúc đẩy sự phát triển này, Vietcombank cần liên tục thích ứng với thực tế, linh hoạt và triển khai các giải pháp kịp thời, hiệu quả.
Về cách giải quyết tranh chấp, Vietcombank ưu tiên thương lượng và hòa giải, vì các tranh chấp lớn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ Trường hợp cần đến trọng tài hoặc tòa án thường xảy ra khi có vi phạm đạo đức hoặc tranh chấp vượt ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng Vietcombank cam kết hợp tác với các ngân hàng và khách hàng quốc tế để phát hiện và xử lý sai phạm, nhằm đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho tất cả các bên và tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ kinh doanh bền vững.