QUAN NGHIÊN CỨU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hóa và tự do hóa diễn ra mạnh mẽ đã mang lại nhiều đổi mới cho môi trường kinh tế quốc tế Thị trường tài chính cũng không nằm ngoài xu hướng này, khi phải đối mặt với những áp lực lớn từ sự hội nhập toàn cầu.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, các ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối khu vực đầu tư và tiết kiệm Để duy trì vị thế trên thị trường, các ngân hàng cần nỗ lực cải thiện hiệu quả kinh doanh và nhận thức rõ các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của mình Những ngân hàng hoạt động hiệu quả và đạt lợi nhuận cao sẽ có khả năng tồn tại, trong khi những ngân hàng yếu kém sẽ phải đối mặt với nguy cơ phá sản Do đó, hiệu quả hoạt động trở thành tiêu chí then chốt trong việc đánh giá năng lực của ngân hàng trong môi trường cạnh tranh quốc tế hiện nay.
Kể từ năm 1990, quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã mang lại nhiều thay đổi tích cực về số lượng, quy mô và chất lượng cho ngành ngân hàng Những tiền đề quan trọng được thực hiện trong quá trình hội nhập đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn cần hoàn thiện khung chính sách hợp lý để hỗ trợ hệ thống ngân hàng trong thời kỳ hội nhập và phát triển hiện nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức và cơ hội Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, cần nghiên cứu các nhân tố tác động đến hoạt động của các ngân hàng Bài viết này sẽ phân tích vai trò của những yếu tố này, nhằm cung cấp cơ sở lý luận cho việc cải thiện và đổi mới hệ thống ngân hàng, giúp các ngân hàng thương mại Việt Nam vượt qua khó khăn và phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt.
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM là một đề tài luôn nhận được nhiều sự chú ý của các chuyên gia cả trong và ngoài nước.
❖ Các nghiên cứu nước ngoài:
Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) đã trở nên đa dạng và phong phú hơn so với các nghiên cứu trong nước Việc áp dụng phương pháp định tính kết hợp với phương pháp định lượng đã mở ra hướng đi mới cho các nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh của NHTM.
(1) Nghiên cứu của Olena Havrylchyk ( 2006)
Năm 2006, Havrylchyk đã tiến hành nghiên cứu để ước lượng hiệu quả của các ngân hàng Ba Lan trong giai đoạn 1998-2000, sử dụng phương pháp DEA với các biến độc lập như trình độ lao động, tài sản cố định và vốn huy động, trong khi biến phụ thuộc là dư nợ và các khoản đầu tư trái phiếu Nghiên cứu này giúp phân tích các yếu tố như chi phí, phân bổ, hiệu quả kỹ thuật thuần túy và hiệu quả quy mô Kết quả cho thấy các ngân hàng nước ngoài hoạt động hiệu quả hơn so với ngân hàng trong nước, đồng thời chỉ ra rằng chất lượng các khoản vay, trình độ nhân viên và mức vốn hóa có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, với mối quan hệ tương quan dương giữa các yếu tố này và hiệu quả ngân hàng.
(2) Nghiên cứu của Chang và Chiu ( 2006)
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu tài chính của 26 ngân hàng Đài Loan trong giai đoạn 1996-
Vào năm 2000, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng Ở giai đoạn đầu, phương pháp phi tham số DEA được áp dụng để phân tích ba loại hiệu quả: hiệu quả chi phí, hiệu quả phân bổ và hiệu quả kỹ thuật, với các biến độc lập như chi phí nhân công, chi phí tiền gửi, chi phí tài sản cố định và rủi ro tín dụng Tiếp theo, tác giả áp dụng kỹ thuật phân tích hồi quy Tobit để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả này Kết quả cho thấy, ở các ngân hàng có rủi ro tín dụng cao, hiệu quả giảm khi rủi ro tín dụng được đưa vào mô hình, trong khi ở các ngân hàng có rủi ro tín dụng thấp, hiệu quả lại tăng Nghiên cứu của Chang và Chiu đã nhấn mạnh tầm quan trọng của rủi ro tín dụng đối với các biến đầu vào trong hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
(3) Nghiên cứu của Athanasoglou và cộng sự (2006)
Nghiên cứu của Athanasoglou và cộng sự về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại tại Đông Nam Âu trong giai đoạn 1998-2002 sử dụng ba nhóm biến độc lập và áp dụng nhiều mô hình, bao gồm mô hình bình phương tối thiểu Nghiên cứu xem xét tác động của các yếu tố cố định và ngẫu nhiên đến tỷ số ROA và ROE, đồng thời sử dụng biến giả để đánh giá ảnh hưởng của từng quốc gia và khoảng thời gian đến biến phụ thuộc Kết quả cho thấy quy mô ngân hàng, cấu trúc vốn và tỷ lệ lạm phát có mối tương quan âm với hiệu quả kinh doanh, trong khi GDP và rủi ro thanh khoản không có ý nghĩa thống kê trong mô hình.
(4) Nghiên cứu của Chan, H S., & Vong, P I (2006)
Chan, H S và Vong, P I đã tiến hành nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại tại Macao, sử dụng dữ liệu thu thập trong khoảng thời gian 15 năm từ 1993 đến 2007 Trong nghiên cứu, tác giả đã chọn ROA (tỷ suất lợi nhuận trên tài sản) làm biến phụ thuộc để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.
Nghiên cứu không chỉ tập trung vào hai nhóm biến độc lập chính mà còn bổ sung thêm nhóm biến mô tả cấu trúc hệ thống tài chính, bao gồm chỉ số Lerner Monopoly Index (LMM) và tỷ trọng tổng tài sản của hệ thống ngân hàng trong GDP Các tác giả đã áp dụng mô hình hồi quy dữ liệu dạng bảng và phát hiện rằng ngân hàng có quy mô vốn chủ sở hữu lớn thường có khả năng sinh lợi cao hơn Ngược lại, các biến như chi phí thuế trên lợi nhuận, thị phần, rủi ro tín dụng, dư nợ tín dụng trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lời cho thấy mối tương quan âm Đặc biệt, trong nhóm biến vĩ mô, chỉ có tỷ lệ lạm phát có ảnh hưởng đến chỉ số ROA của ngân hàng.
(5) Nghiên cứu của Sehrish Gul, Faiza Irshad, Khalid Zaman (2011)
Nghiên cứu sử dụng phương pháp gộp Ordinary Least Square (POLS) để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của 15 ngân hàng hàng đầu Pakistan trong giai đoạn 2005-2009 Các biến phụ thuộc bao gồm ROA, ROE, ROCE và NIM, trong khi các biến độc lập gồm tài sản, vốn vay, vốn chủ sở hữu, các khoản tiền gửi, tăng trưởng kinh tế và lạm phát Kết quả cho thấy rằng các ngân hàng có vốn chủ sở hữu, tổng tài sản, các khoản cho vay và tiền gửi lớn hơn, cùng với các yếu tố vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, lạm phát và vốn hóa thị trường chứng khoán an toàn, có khả năng đạt được lợi nhuận cao hơn.
(6) Nghiên cứu của Gwahula Raphael ( 2013)
Tác giả đã áp dụng phương pháp phân tích bao dữ liệu (DEA) để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Tanzania trong khoảng thời gian từ 2005 đến 2011 Phương pháp này cho phép phân tích một cách toàn diện và chính xác hiệu suất của các ngân hàng trong bối cảnh kinh tế địa phương.
Nghiên cứu về "trung gian tài chính" đã phân tích các biến độc lập như lao động, khấu hao, chi phí hoạt động và chi phí tài chính, với biến phụ thuộc là dư nợ và giá trị các khoản đầu tư Kết quả cho thấy hiệu quả phân bổ thấp hơn hiệu quả kỹ thuật Sử dụng hồi quy Tobit, nghiên cứu xác định rằng quy mô của 8 ngân hàng, thu nhập ngoài lãi và tỷ lệ an toàn vốn có mối tương quan tích cực với hiệu quả hoạt động, trong khi nợ xấu lại có tác động tiêu cực đến hiệu quả này.
Nghiên cứu trong nước về đề tài này thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, nhưng chủ yếu chỉ dừng lại ở phương pháp định tính, với các nghiên cứu còn đơn giản và thô sơ.
(1) Nghiên cứu của TS Nguyễn Việt Hùng (2008)
Nghiên cứu đầu tiên về hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam được thực hiện bởi TS Nguyễn Việt Hùng Bài nghiên cứu không chỉ áp dụng phương pháp phân tích định tính mà còn kết hợp với phân tích định lượng, tập trung vào 32 ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2001-2005, bao gồm 5 ngân hàng nhà nước và 23 ngân hàng cổ phần.
Nghiên cứu áp dụng phương pháp phân tích biến ngẫu nhiên (SFA) và phương pháp phi tham số (DEA) để đánh giá hiệu quả của 32 ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005, với tổng cộng 160 quan sát Các biến đầu ra được sử dụng là thu nhập hoạt động ròng, trong khi các biến đầu vào bao gồm chi phí cho nhân viên (L), tài sản cố định ròng (K), tiền gửi khách hàng (DEPO), tổng số lao động, chi phí ngoài lãi trên K, và chi trả lãi trên DEPO Để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố, mô hình Tobit được áp dụng với các biến độc lập như kích thước ngân hàng (BANKLN_SIZE), tỷ lệ sở hữu (OWNERNN), tỷ lệ vốn cho vay trên tổng tài sản (LOANTA), tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ (NPL), và tỷ lệ tư bản hiện vật trên tổng tài sản (FATA).
Nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ giữa vốn và lao động (KL) cùng với tỷ lệ thu về lãi/thu về hoạt động (TRAD) có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng Các yếu tố như tài sản ngân hàng, tỷ lệ cho vay so với tiền gửi, tỷ suất sinh lời trên tài sản và tỷ lệ nợ xấu đều tác động đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong giai đoạn này Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cần cải thiện các yếu tố kém hiệu quả để nâng cao năng lực cạnh tranh Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn chưa mô tả đầy đủ các nhân tố tác động và không chỉ rõ tỷ lệ phần trăm mà các biến này giải thích đối với khả năng tài chính của ngân hàng.
(2) Nghiên cứu của Liễu Thu Trúc và Nguyễn Thành Danh (2012)
Luận văn của Liễu Thu Trúc và Nguyễn Thành Danh đã kết hợp phương pháp phân tích tổng năng suất nhân tố (MPI) và phân tích bao dữ liệu (DEA) để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của 22 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2006-2009 Nghiên cứu chỉ ra rằng hiệu quả kinh tế của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) có xu hướng tăng, nhưng hiệu quả hoạt động kinh doanh chung vẫn chưa cao và đang suy giảm, chủ yếu do yếu tố công nghệ không hiệu quả Số lượng NHTMCP hoạt động hiệu quả theo quy mô giảm dần, với các ngân hàng quy mô lớn có lợi thế về chi phí hơn so với các ngân hàng nhỏ Tuy nhiên, nghiên cứu còn thiếu phân tích về rủi ro đối với hiệu quả hoạt động kinh doanh, như vị thế ngân hàng, mức ngại rủi ro và rủi ro tín dụng Kết quả nghiên cứu cho thấy mức ngại rủi ro có mối quan hệ tỷ lệ thuận với tỷ lệ thu nhập lãi thuần, trong khi chất lượng quản lý lại có mối quan hệ tỷ lệ nghịch Ngoài ra, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong tỷ lệ thu nhập lãi thuần giữa các ngân hàng nhà nước và NHTMCP.
(4) Nghiên cứu của Nguyễn Thu Nga ( 2017)
Tác giả Nguyễn Thu Nga đã nghiên cứu mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của 30 ngân hàng TMCP Việt Nam trong giai đoạn 2009-2015 bằng phương pháp xây dựng đường biên hiệu quả của biến ngẫu nhiên (SFA) Rủi ro tín dụng được xác định qua dự phòng rủi ro cho vay, tính theo tỷ lệ với các khoản nợ phân loại Nghiên cứu sử dụng ba biến độc lập: Tài sản cố định, Tiền gửi của khách hàng, và Lao động; cùng với hai biến phụ thuộc: Cho vay khách hàng và Tài sản sinh lời khác Kết quả cho thấy rủi ro tín dụng là yếu tố phi hiệu quả, khiến ngân hàng hoạt động xa dần với đường biên hiệu quả, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh Tác giả cũng đưa ra dự báo về hiệu quả kinh doanh của ngân hàng dựa trên các ước tính liên quan đến rủi ro tín dụng và phương pháp xác định rủi ro một cách hiệu quả.
Tác giả Phương pháp nghiên cứu
Mau nghiên cứu Biến số Kết quả
Phi tham số DEA Các ngân hàng Ba Lan từ 1998- 2000
- Biến độc lập: trình độ lao động, tài sản cố định và vốn huy động
- Biến phụ thuộc : dư nợ, các khoản đầu tư trái phiếu
- Các nhân tố : chất lượng các khoản vay, trình độ nhân viên và mức vốn hóa có mối quan hệ tương quan dương đến hiệu quả NH.
- Các NH nước ngoài có hiệu quả tốt hơn các NH trong nước
Chiu ( 2006) Phi tham số DEA & phân tích hồi quy Tobit
26 ngân hàng Đài Loan trong giai đoạn 1996-2000
- Biến độc lập : chi phí nhân công, chi phí tiền gửi, chi phí tài sản cố định, rủi ro tín dụng
- Biến phụ thuộc: tổng các khoản đầu tư và cho vay.
- RRTD tương quan âm với hiệu quả NH ÷ khẳng định tầm quan trọng của RRTD đối với hiệu quả HĐKD của NH
Mô hình hồi quy theo phương pháp bình phương tối thiểu OLS các NHTM tại nước vùng Đông Nam Âu giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2002
- Biến độc lập: Quy mô VCSH, Cấu trúc tài sản, Rủi ro tín dụng, Lạm phát
- Các biến cấu trúc vốn, quy mô NH, tỷ lệ
LP có mối tương quan dương đến tỷ suất sinh lời
- Biến thể hiện RRTD, CP hoạt động và MT cạnh tranh có mối tương quan âm
- Với các NH nước ngoài thì nhân tố cấu trúc vốn đóng vai trò quan trọng hơn trong việc tạo ra lợi nhuận.
Mô hình hồi quy dữ liệu dạng bảng các NHTM tại Macao trong giai đoạn từ _
-Biến phụ thuộc : ROA, ROE
-Biến độc lập: Quy mô VCSH, Cấu trúc
- Quy mô VCSH có tương quan dương tới khả năng sinh lợi
Bảng 1 1 : Bảng tóm tắt các tổng quan nghiên cứu
2007 tài sản, Rủi ro tín dụng, Lạm phát , chỉ số Lerner Monopoly Index (LMM)
LN, thị phần RRTD và dư nợ TD /tổng TS và tỷ suất sinh lời phản ánh mối tương quan âm.
15 ngân hàng hàng đầu Pakistan giai đoạn 2005-2009
Biến phụ thuộc là ROA, ROE, ROCE, NIM
Biến độc lập là TS, Vốn vay, VCSH, các khoản tiền gửi, GDP,
- TS, VCSH, GDP có quan hệ tương quan dương
- INF, Các khoản vay có quan hệ tương quan âm
(2013) phân tích bao dữ liệu (DEA)
Các NHTM tại Tanzania trong giai đoạn 2005 - 2011
Biến phụ thuộc là dư nợ và giá trị của các khoản đầu tư.
Biến độc lập bao gồm: lao động, khấu hao,
CP hoạt động, CP tài chính, quy mô NH
- Quy mô NH, thu nhập ngoài lãi, tỷ lệ an toàn vốn có tương quan dương với hiệu quả hoạt động
- Ngược lại nợ xấu có tác động nghịch với hiệu quả hoạt động
Phân tích biến ngẫu nhiên ( SFA) và phi tham số, (DEA), Hồi quy Tobit
32 NHTM ở Việt Nam thời kỷ 2001-2005
-Biến phụ thuộc : ROA, ROE
-Biến độc lập: Quy mô VCSH (BANKLN_SIZE), Cấu trúc tài sản, Rủi ro tín dụng, Lạm phát , chỉ số Lerner
Mục tiêu của đề tài
- Ước lượng hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng TMCP Việt Nam,
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc đo lường hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM).
- Xác định mô hình nghiên cứu.
Bài viết này tập trung vào việc xác định và phân tích các yếu tố nội tại và ngoại tại ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam Đồng thời, chúng tôi cũng đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, từ đó tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu đã được nêu ở trên, đề tài tập trung giải quyết và tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi dưới đây:
- Hiện nay, thực trạng về hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay như thế nào?
- Các chỉ tiêu nào được đưa ra để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam?
- Những nhân tố nào đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam?
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: khóa luận sẽ tập trung vào các NHTM Việt Nam trong giai đoạn từ 2008-2017.
- Đối tượng nghiên cứu: 20 NHTM Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Việt Nam và xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả này, luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp nhằm đề xuất mô hình các nhân tố tác động.
• Phương pháp nghiên cứu định tính:
Nghiên cứu này đã áp dụng dữ liệu thứ cấp từ báo cáo tài chính hàng năm của các ngân hàng thương mại, cùng với các tài liệu từ tạp chí, luận án và thông tin trên trang web của các ngân hàng, Bộ Tài chính và Cục Thuế.
• Phương pháp nghiên cứu định lượng:
Nghiên cứu này sử dụng các phương pháp kiểm định để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam Qua việc phân tích giá trị và độ tin cậy, nghiên cứu đã kiểm định các mô hình nhằm đánh giá mức độ tác động của các nhân tố này.
Kết cấu của khóa luận
Luận văn đã tổng hợp lý thuyết về hiệu quả hoạt động ngân hàng, kết hợp với các nghiên cứu thực nghiệm để xây dựng mô hình lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam.
- về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa thực tiễn trên các mặt sau đây:
Giúp các nhà quản trị ngân hàng thương mại Việt Nam có cái nhìn toàn diện về hiệu quả hoạt động và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu suất hoạt động của ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu cung cấp tài liệu tham khảo quý giá cho các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại, giúp họ xác định mức độ tối ưu của các yếu tố nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
(3) Kết quả nghiên cứu của luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên ngành tài chính ngân hàng.
1.8 Ket cấu của khóa luận
Cấu trúc đề tài gồm có 5 chương
Chương 1: Giới thiệu tổng quan nghiên cứu
Chương trình này tập trung vào việc trình bày lý do chọn đề tài, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu được áp dụng và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Một số khái niệm có liên quan đến hiệu quả hoạt động ngân hàng
2.1.1 Ngân hàng thương mại và vai trò của NHTM
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, được coi là một trong những tổ chức tài chính chủ chốt Hiện tại, có nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về ngân hàng.
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam (2010) định nghĩa ngân hàng thương mại (NHTM) là loại hình ngân hàng thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác nhằm mục tiêu lợi nhuận Các hoạt động này bao gồm việc nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, chuyên nhận tiền gửi từ các cá nhân và doanh nghiệp trong nền kinh tế NHTM thực hiện các nghiệp vụ cho vay, cung cấp dịch vụ tài chính, tín dụng, và thanh toán, đồng thời đầu tư vào các tài sản có khả năng sinh lời NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa những nơi dư thừa vốn và những nơi có nhu cầu sử dụng vốn cho các hoạt động đầu tư kinh doanh.
Ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng như huyết mạch của nền kinh tế, hoạt động như trung gian tài chính để chuyển đổi các khoản tiền gửi thành tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp NHTM không chỉ cung cấp dịch vụ tín dụng mà còn thực hiện các chức năng thanh toán, bảo lãnh và đại lý, hỗ trợ khách hàng trong việc thanh toán hàng hóa và dịch vụ, cam kết trả nợ khi khách hàng gặp khó khăn tài chính, và quản lý phát hành chứng khoán Đồng thời, NHTM cung cấp các khoản tín dụng đa dạng cho nhu cầu tiêu dùng và đầu tư, và là thành viên quan trọng trên thị trường tín phiếu và trái phiếu để tài trợ cho các chương trình công cộng Cuối cùng, NHTM góp phần thực thi các chính sách vĩ mô của chính phủ, điều tiết tăng trưởng kinh tế và hướng tới các mục tiêu xã hội.
2.1.2 Hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) được hiểu là các lợi ích kinh tế và xã hội đạt được trong quá trình kinh doanh Nó bao gồm hai khía cạnh chính: hiệu quả kinh tế, phản ánh khả năng sử dụng nguồn lực để đạt kết quả cao với chi phí thấp, và hiệu quả xã hội, thể hiện những lợi ích xã hội từ hoạt động kinh doanh Hiệu quả kinh tế đóng vai trò quyết định trong sự thành công của doanh nghiệp, giúp phân bổ hợp lý các yếu tố đầu vào và đầu ra, từ đó đáp ứng mục tiêu đã đề ra.
Theo quan điểm của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) năm 2010, hiệu quả hoạt động được định nghĩa là khả năng tạo ra lợi nhuận bền vững Lợi nhuận đạt được trước tiên được sử dụng để dự phòng cho các khoản lỗ bất ngờ và củng cố vị thế về vốn, sau đó, nó sẽ được đầu tư trở lại nhằm cải thiện lợi nhuận trong tương lai thông qua việc sử dụng các khoản lợi nhuận giữ lại.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) phản ánh khả năng sử dụng nguồn lực như lao động, máy móc, thiết bị và vốn để đạt được các mục tiêu đề ra Phân tích hiệu quả này bao gồm việc đánh giá năng lực tài chính và điều hành, xem xét quá trình thực hiện chiến lược kinh doanh, đồng thời phát hiện sai lệch so với kế hoạch Qua đó, các nguyên nhân được xác định và biện pháp xử lý kịp thời được đề xuất, nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh của NHTM đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa.
2.1.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh NHTM
Các nhà nghiên cứu thường sử dụng các chỉ tiêu tài chính để phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM), dựa trên số liệu từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán Phân tích này giúp nhà quản trị có cái nhìn tổng quan về hiệu quả hoạt động của ngân hàng và so sánh tình hình tài chính giữa các NHTM Hiệu quả kinh doanh không chỉ phản ánh chất lượng quản lý mà còn là yếu tố sống còn trong bối cảnh hội nhập hiện nay Để tồn tại và phát triển, ngân hàng cần đạt được hiệu quả kinh doanh cao, từ đó mở rộng quy mô hoạt động Kết quả kinh doanh thường được đo lường qua khả năng sinh lợi từ các tài sản vật chất và tài sản tài chính mà ngân hàng nắm giữ.
Việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá phù hợp là rất quan trọng để phản ánh đúng năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại Trong đó, tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) là hai chỉ tiêu tài chính phổ biến nhất được sử dụng để đánh giá hiệu suất sinh lời trong hoạt động ngân hàng.
Trong nghiên cứu này, tác giả đã chọn chỉ tiêu ROA (Return on Assets) để đánh giá khả năng sinh lời trên tổng tài sản của các ngân hàng thương mại (NHTM) ROA là một chỉ số quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản trong việc tạo ra lợi nhuận.
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) là chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong việc sử dụng tài sản để tạo ra lợi nhuận sau thuế, không phân biệt nguồn hình thành tài sản từ vốn vay hay vốn chủ sở hữu.
Chỉ số ROA (Return on Assets) phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản của ngân hàng, thể hiện khả năng quản lý và chuyển đổi tài sản thành lợi nhuận Tài sản ngân hàng được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu, cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động của ngân hàng ROA cao cho thấy ban quản trị đang quản lý tài sản hiệu quả, tối ưu hóa lợi nhuận ròng Ngoài ra, ROA cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tác động của đòn bẩy tài chính, hỗ trợ trong quyết định huy động vốn.
ROA = L i ợi nhu nT ng tài s nổng tài sản ận sau thuếản b) Khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu
Bên cạnh chỉ số ROA, chúng ta còn có một hệ số doanh lợi khác thể hiện hiệu suất hoạt động của ngân hàng là chỉ số ROE.
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) là chỉ tiêu quan trọng được các nhà đầu tư và cổ đông đặc biệt chú ý Chỉ số này giúp các nhà quản trị đánh giá hiệu quả của việc đầu tư vốn sở hữu vào kinh doanh bằng cách cho biết mỗi đơn vị vốn mang lại bao nhiêu lợi nhuận.
Chỉ số ROE là thước đo quan trọng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của cổ đông trong ngân hàng Tỷ lệ ROE cao cho thấy ngân hàng đã cân đối hợp lý giữa vốn cổ đông và vốn vay, từ đó khai thác lợi thế cạnh tranh trong huy động vốn và mở rộng quy mô Ngược lại, ROE thấp so với các ngân hàng khác có thể làm giảm khả năng thu hút vốn mới, ảnh hưởng đến sự mở rộng và vị thế cạnh tranh trên thị trường.
ROE = L i nhu n sau thuợi ận ế
V n ch s h uốn chủ sở hữu ủ sở hữu ở hữu ữu c) Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng Chỉ số này càng thấp, chất lượng tín dụng càng được cải thiện, điều này cho thấy ngân hàng đang hoạt động hiệu quả hơn trong việc quản lý rủi ro tín dụng.
, _ T ng n x uổng tài sản ợi ấu Công thức : Tỷ lệ nợ xấu ( %) = ɪ L ɪ — × 100%
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Xây dựng mô hình nghiên cứu
Để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tác giả đã xác định các yếu tố chính bao gồm quy mô vốn chủ sở hữu, cấu trúc tài sản, rủi ro tín dụng, quy mô ngân hàng, tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát Mô hình nghiên cứu được xây dựng với phương trình: γ i,t = a + β TETA i ' t + β 2 CR i ' t + β 3 SIZE i ' t + β 4 GDP i ' t + β 5 INF i , t + ε it.
• i = 1, , N với N là số NHTM (20 NHTM)
• t = 1, , T với T là số năm nghiên cứu (giai đoạn từ 2008 đến 2017 là 10 năm)
• Biến phụ thuộc ìằY lt :ROA i tl ROE li t
• Biến độc lập bao gồm:
- Biến vi mô: Quy mô vốn chủ sở hữu (TETA iit ), rủi ro tín dụng (CR iit ), quy mô ngân hàng (SIZE ii t ).
- Biến vĩ mô: Tốc độ tăng trưởng (GDP iit ) và tỷ lệ lạm phát (INF iit ).
ROA ii t = a + β 1 TETA ii t + β2CR iι t + β 3 SIZE i ' t + β 4 GDP t ' t + β 5 INF i ' t + ε i ' t
ROE ii t = a + β 1 TETA ii t + β2CR iι t + β 3 SIZE i ' t + β 4 GDP t ' t + β 5 INF i ' t + ε i ' t
Các biến sử dụng trong mô hình
- Biến phụ thuộc là Yi,t mà đại diện là ROA và ROE đo lường hiệu quả hoạt động của các NHTM thứ i trong năm t.
- ROA (Return on Asset) được đo lường bằng lợi nhuận ròng trên tổng tài sản củaNH.
ROA lớn hơn 0 cho thấy ngân hàng đang có lãi, với ROA càng cao thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng càng tốt Ngược lại, nếu ROA nhỏ hơn 0, điều này chỉ ra rằng ngân hàng đang gặp thua lỗ trong hoạt động kinh doanh.
ROE (Return on Equity) được tính bằng lợi nhuận ròng chia cho vốn chủ sở hữu, là chỉ số quan trọng nhất đối với cổ đông vì nó phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng trên mỗi đồng vốn đầu tư Một ROE cao cho thấy ngân hàng sử dụng vốn hiệu quả, đồng thời chỉ ra kết quả kinh doanh tích cực của ngân hàng.
Việc lựa chọn các biến trong phân tích tài chính ngân hàng thường dựa trên các chỉ số CAMEL, bao gồm mức an toàn vốn, chất lượng tài sản, khả năng quản lý, thu nhập và tính thanh khoản Ngoài ra, các biến này cũng được xác định thông qua khảo sát thực tế và yêu cầu từ cơ quan quản lý cũng như các nhà quản trị ngân hàng Nghiên cứu của các tác giả như Olena Havrylchyk (2006), Chang và Chiu (2006), Chan, H S., & Vong, P I (2006), Sehrish Gul, Faiza Irshad, Khalid Zaman (2011), Gwahula Raphael (2013), TS Nguyễn Việt Hùng (2008) và Nguyễn Thu Nga (2017) đã chỉ ra rằng các biến này có thể được lựa chọn để đánh giá mức độ tác động đến các chỉ số hiệu quả trong quản lý và giám sát ngân hàng thương mại.
Tỷ lệ TETA, hay tỷ lệ vốn chủ sở hữu, phản ánh mức độ sử dụng vốn chủ sở hữu để tài trợ cho tài sản của ngân hàng, với tỷ lệ cao cho thấy giảm thiểu rủi ro chi phí nợ vay (Athanasoglou, 2008) Tuy nhiên, nếu tỷ lệ này quá cao, ngân hàng có thể hoạt động quá thận trọng, bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh tiềm năng Do đó, tỷ lệ TETA có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và cũng phản ánh các điều kiện quy định quản lý đối với ngân hàng Trong nghiên cứu này, tác giả kỳ vọng sẽ làm sáng tỏ những khía cạnh này.
Giả thuyết 1 cho rằng có mối tương quan tích cực giữa tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng Danh mục này được ghi nhận trên bảng cân đối kế toán như một khoản mục tài sản có giá trị âm, phản ánh những tổn thất tiềm ẩn và làm giảm giá trị tài sản của ngân hàng.
Giả thuyết 2: “Tồn tại mối tương quan nghịch biến giữa tỉ lệ dự phòng rủi ro tín dụng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH ”
Quy mô ngân hàng được xác định thông qua logarit tự nhiên của tổng tài sản, là một chỉ số quan trọng trong nghiên cứu tài chính Nhiều nghiên cứu, chẳng hạn như của Gul và Zaman, đã chỉ ra sự ảnh hưởng của quy mô tài sản ngân hàng đến hiệu suất và sự ổn định của hệ thống tài chính Việc đo lường quy mô ngân hàng không chỉ giúp hiểu rõ hơn về khả năng tài chính mà còn hỗ trợ trong việc phân tích các yếu tố tác động đến hoạt động ngân hàng.
Nghiên cứu của 2011 và Syafri (2012) chỉ ra rằng tác động của quy mô tài sản đến khả năng sinh lời của tài sản là không đồng nhất Cụ thể, quy mô ngân hàng có thể ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận.
Ngân hàng (NH) có thể gia tăng lợi nhuận thông qua việc mở rộng phân phối sản phẩm và dịch vụ, đồng thời tiết kiệm chi phí giao dịch Tuy nhiên, quy mô lớn cũng có thể tác động tiêu cực đến lợi nhuận nếu NH không có chính sách quản lý phù hợp và không kiểm soát được chi phí hoạt động lớn do quy mô tổ chức quá lớn Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các NH.
Giả thuyết 3 cho biến LN_SIZE: “Tồn tại tương quan thuận giữa quy mô tài sản và hiệu quả hoạt động kinh doanh ”
Tốc độ tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động cho vay của các ngân hàng, khi trong môi trường kinh tế phát triển, ngân hàng thường cho vay nhiều hơn và áp dụng lãi suất cao hơn Nhiều nghiên cứu, bao gồm của Neely và Wheelock (1997), Demirguc-Kunt và Huizing (1999), Bikker và Hu (2002), cùng Athanasoglu và các tác giả (2008), đã chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế có tác động tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng.
Giả thuyết 4: “Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương quan thuận với hiệu quả hoạt động của NH ”
Tỷ lệ lạm phát ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của ngân hàng, với nhiều nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tích cực giữa lạm phát và lợi nhuận Khả năng dự đoán lạm phát của ngân hàng không chỉ giúp cải thiện chiến lược kinh doanh mà còn nâng cao khả năng sinh lời, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính.
Ký hiệu Tên biến Kỳ vọng Cách tính
Quy mô vốn chủ sở hữu +
Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản
CR Rủi ro tín dụng - Dự phòng rủi ro tín dụng
LN_SIZE Quy mô ngân hàng + Log(tổng tài sản)
Tăng trưởng kinh tế + Tốc độ tăng trưởng GDP
INF ~ Lạm phát _ - Tỷ lệ lạm phát
Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản
Lợi nhuận sau thuế của ngân hàng có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi lạm phát, do chi phí tăng lên từ việc điều chỉnh lãi suất không hoàn hảo Nghiên cứu của Chan và Vong (2006) cùng với Athanasoglou và các tác giả (2008) đã chỉ ra rằng có một mối quan hệ tích cực giữa lạm phát và lợi nhuận của ngân hàng.
Giả thuyết 5: “Tồn tại tương quan nghịch giữa tỷ lệ lạm phát và hiệu quả hoạt động
Bảng 3 1: Tổng hợp các biến trong mô hình nghiên cứu
Chú thích: dấu (+) thể hiện mối quan hệ cùng chiều với biến phụ thuộc và dấu (-) thể hiện mối quan hệ ngược chiều với biến phụ thuộc.
Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu vi mô trong nghiên cứu này được thu thập từ báo cáo tài chính của 20 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2008 - 2017.
Trung bình Độ lệch chuẩn
INF 200 0.0877 0.0751 0.0019 0.2267 tố vĩ mô là tốc độ tăng trưởng GDP và INF, số liệu đều được lấy từ báo cáo chính thức của World Bank.
Dữ liệu nghiên cứu sử dụng là dữ liệu bảng (Panel data), kết hợp giữa dữ liệu không gian và dữ liệu chuỗi thời gian Điều này có nghĩa là số liệu của biến được thu thập từ nhiều đơn vị kinh tế khác nhau tại các thời điểm khác nhau.
Tác giả chọn khoảng thời gian từ năm 2008 đến 2017 để nghiên cứu, vì đây là giai đoạn gần với khóa luận và cung cấp đủ dữ liệu công khai từ các phương tiện truyền thông Điều này giúp người viết có cơ sở thực tiễn để đánh giá thực trạng hiện tại và đưa ra những kiến nghị hữu ích cho nền kinh tế trong tương lai.
Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu
Bảng 3 2: Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu
Nguồn: Kết quả từ phần mềm stata
Bảng 3.2 mô tả tóm tắt các biến phụ thuộc và giải thích của 20 ngân hàng tại Việt
Nam trong giai đoạn 2008-2017 Từ bảng trên ta thấy:
Nhóm các biến phản ánh năng lực sinh lời của hệ thống ngân hàng Việt Nam cho thấy ROA và ROE trung bình lần lượt là 0,82% và 9,42% Trong giai đoạn nghiên cứu, ROA cao nhất thuộc về ngân hàng SGB vào năm 2010 với 4,72%, trong khi ROE cao nhất là của ACB vào năm 2011 với 26,82% Mặc dù tỷ suất ROA đã giảm trong những năm gần đây, giá trị ROE vẫn lớn hơn nhiều so với ROA, cho thấy tốc độ tăng trưởng tổng tài sản chậm hơn so với lợi nhuận sau thuế Tuy nhiên, hoạt động của các ngân hàng vẫn chủ yếu phụ thuộc vào tín dụng, khiến việc tạo ra sự đột phá về lợi nhuận trở nên khó khăn.
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (TETA) trung bình đạt 8,65%, phản ánh cấu trúc vốn của các ngân hàng Năm 2015, SHB ghi nhận tỷ lệ vốn chủ sở hữu thấp nhất là 3,39%, trong khi EIB năm 2008 có tỷ lệ cao nhất là 26,62% Đồng thời, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn (LN_SIZE) cũng cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa các ngân hàng, với giá trị lớn nhất tại MBB năm 2016 và nhỏ nhất tại NAB năm 2008 Kết quả này chỉ ra rằng các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) có tổng tài sản lớn thường có tỷ lệ vốn chủ sở hữu thấp hơn so với các ngân hàng nhỏ.
Trong giai đoạn này, GDP và INF đạt giá trị cao nhất lần lượt là 6,81% (năm
2017) và 22,67% ( năm 2008) và thấp nhất 5,25%( năm 2012) và 0,19%( năm 2015).
Phương pháp nghiên cứu
3.5.1 Hồi quy dữ liệu bảng
Dữ liệu bảng (Panel Data) là loại dữ liệu phổ biến trong nghiên cứu vi mô (doanh nghiệp, hộ gia đình) và vĩ mô (thành phố, quốc gia) Nó kết hợp hai loại dữ liệu khác nhau: dữ liệu chuỗi thời gian (Time series) và dữ liệu chéo (Cross-section data).
Sự kết hợp này mang lại nhiều lợi ích quan trọng trong nghiên cứu, đặc biệt trong việc phân tích mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế theo thời gian và sự khác biệt giữa các nhóm đối tượng nghiên cứu đã được xác định.
Cấu trúc dữ liệu bảng được phân thành hai loại chính: cân bằng và không cân bằng Dữ liệu bảng được coi là cân bằng khi có đầy đủ thông tin và số liệu của các đối tượng trong tất cả các năm quan sát mà không thiếu sót bất kỳ dữ liệu nào Ngược lại, dữ liệu bảng được xem là không cân bằng nếu thiếu thông tin hoặc số liệu của một hoặc nhiều đối tượng nghiên cứu.
Mô hình bình phương tối thiểu dạng gộp (Pooled OLS) có thể gặp vấn đề khi xuất hiện hiện tượng tự tương quan hoặc phương sai thay đổi, dẫn đến kết quả ước lượng bị thiên lệch và không còn tin cậy Trong những trường hợp này, ước lượng bằng phương pháp GLS sẽ mang lại kết quả chính xác hơn Bài viết cũng áp dụng kiểm định Hausman để xác định mô hình phù hợp cho dữ liệu bảng.
Mô hình Pooled OLS là một phương pháp hồi quy đơn giản, không xem xét đến yếu tố không gian và thời gian của dữ liệu, dẫn đến việc ước lượng tất cả các hệ số không thay đổi theo thời gian và cá nhân Điều này có thể tạo ra những kết quả không chính xác và thiếu thực tiễn về mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc Ngược lại, mô hình ảnh hưởng của các nhân tố cố định (FEM) giúp khắc phục những hạn chế này bằng cách xem xét sự biến đổi theo cá nhân và thời gian.
Mô hình ảnh hưởng cố định (FEM) phân tích mối tương quan giữa phần dư của mỗi đơn vị và các biến giải thích, nhằm kiểm soát các đặc điểm riêng biệt không thay đổi theo thời gian Điều này giúp ước lượng ảnh hưởng thực sự (net effects) của biến giải thích lên biến phụ thuộc Trong khi đó, mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) cũng được sử dụng để đánh giá các mối quan hệ này, nhưng với giả định rằng các đặc điểm riêng biệt có thể thay đổi và không nhất thiết phải liên quan đến các biến giải thích.
Mô hình này giả định rằng sự biến động giữa các đơn vị là ngẫu nhiên và không có mối quan hệ với các biến giải thích Phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát (GLS) được áp dụng để phân tích dữ liệu trong bối cảnh này.
Phương pháp ước lượng GLS tương tự như phương pháp OLS, nhưng với các biến số được điều chỉnh để đáp ứng các giả thuyết của phương pháp bình phương tối thiểu tiêu chuẩn.
Trên thực tế, trong dữ liệu bảng sai số thường có phương sai không đồng nhất và
Khi gặp vấn đề phương sai không đồng nhất, ước lượng OLS có thể trở nên không nhất quán Để khắc phục tình trạng này, phương pháp GLS được áp dụng nhằm đảm bảo không có sự tương quan giữa các sai số của một đơn vị qua thời gian Tuy nhiên, phương pháp GLS cũng có hạn chế là không giải quyết được hiện tượng nội sinh.
Trong chương 3, tác giả trình bày chi tiết phương pháp chọn biến và lý do cho sự lựa chọn này trong mô hình nghiên cứu Bên cạnh đó, tác giả cũng làm rõ các nguồn dữ liệu đặc thù và dữ liệu vĩ mô, được thu thập từ các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh của 20 ngân hàng trong giai đoạn 2008.
2017 Điểm nổi bật của chương này là xét trong điều kiện các nhân tố không đổi đưa ra
Năm giả thuyết được đưa ra trong nghiên cứu này bao gồm: H1 cho rằng có sự tương quan thuận giữa tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và hiệu quả hoạt động của ngân hàng; H2 chỉ ra rằng tỷ lệ dư nợ tín dụng trên tổng tài sản cũng có mối liên hệ thuận với hiệu quả hoạt động; H3 khẳng định rằng quy mô tài sản và hiệu quả hoạt động có sự tương quan thuận; H4 cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối liên hệ thuận với hiệu quả hoạt động của ngân hàng; và cuối cùng, H5 nêu rõ rằng có sự tương quan nghịch giữa tỷ lệ lạm phát và hiệu quả hoạt động.
Chương 4 sẽ trình bày các kết quả hồi quy mô hình đã được đề nghị trong chương
3 về tác động của các nhân tố đến hiệu quả hoạt động của NHTM Việt Nam.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thực trạng hiệu quả hoạt động và các nhân tố tác động đến hiệu quả của hệ thống
4.1.1 Khái quát quá trình phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn
Từ năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua sự phát triển mạnh mẽ, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình đổi mới, chuyển đổi từ mô hình ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại với nhiều loại hình sở hữu khác nhau Sự cho phép thành lập ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ ngân hàng hiện đại vào Việt Nam Đặc biệt, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua vào ngày 2/12/1997 đã tạo ra môi trường bình đẳng và nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam, góp phần vào sự phát triển đột phá của ngành này.
Cải cách hệ thống ngân hàng năm 1990 đã chấm dứt chế độ độc quyền nhà nước, thúc đẩy sự đa dạng hóa hoạt động ngân hàng về hình thức sở hữu và số lượng ngân hàng Số lượng ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tăng mạnh từ 4 lên 41 ngân hàng, đạt đỉnh 51 ngân hàng vào năm 1997.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đã phải đóng cửa hoặc rút giấy phép hoạt động do kinh doanh không hiệu quả, dẫn đến sự giảm sút số lượng ngân hàng Giai đoạn 2000-2007 chứng kiến quá trình tái cơ cấu toàn diện hệ thống ngân hàng, từ đó củng cố và phát triển hệ thống theo hướng bền vững hơn.
Hiện nay, số lượng ngân hàng thương mại nhà nước tại Việt Nam vẫn ổn định, với bốn ngân hàng được thành lập ban đầu và vẫn giữ nguyên số lượng này đến năm 2018, bao gồm Agribank, GP Bank, Ngân hàng Đại Dương và Ngân hàng Xây dựng Trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần, ba ngân hàng lớn nhất là Vietcombank (VCB), VietinBank (CTG) và BIDV, đều có vốn sở hữu Nhà nước, trong khi các ngân hàng còn lại chủ yếu là tư nhân Số lượng ngân hàng được phân loại thành nhóm ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh, như được thể hiện trong bảng 4.1.
Bảng 4 1 : Cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam giai đoạn 2008-2017
Nguồn: Thống kê của NHNN
Các ngân hàng thương mại nước ngoài có thể tham gia vào thị trường tài chính Việt Nam bằng cách mở chi nhánh hoặc thành lập liên doanh với các ngân hàng trong nước, theo quy định hoạt động của NHTM.
1995 Nghị quyết gỡ bỏ thuế doanh thu đối với NH.
1997 Luật NHNN và luật TCTD được Quốc hội thông qua.
1999 Tô chức Bảo hiêm tiền gửi Việt Nam được thành lập (9/11/1999).
2000 Tái cơ cấu về tô chức và tài chính của NH Quốc doanh và NHTM Đặc biệt, công ty quản lý tài sản của từng NH được thành lập.
2002 Lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của các TCTD được tự do hóa
- đây là bước cuối cùng đê hoàn toàn tự do hóa lãi suất của TCTD.
Tái cơ cấu toàn diện hoạt động của các NTM theo chuẩn quốc tế, NH chính sách được thành lập thay cho NH dành cho người nghèo; Luật
2004 Sửa đôi luật của các TCTD Việt Nam Hiệp định thương mại Việt
- Hoa Kỳ được ký kết.
2ÕĨÕ Luật mới của NHNN và Luật các TCTD được Quốc hội khóa 12 thông qua, hiệu lực thi hành từ 1/1/2011.
2012 Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 - Quyết định
2013 Đề án xử lí nợ xấu của hệ thống các TCTD - Quyết định 843/QĐ-
TTg ngày 31/5/2013, từ đó các TCTD yếu kém được kiêm soát, những thiếu sót của hệ thống ngân hàng được xử lý.
2015 Quyết định 1572/QĐ-NHNN thực hiện cơ cấu lại một cách toàn diện hệ thống các tô chức tín dụng một cách toàn diện đến 2020.
2017 Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tô chức tín dụng găn với xử lí nợ xấu giai đoạn 2016-2020” được thủ tướng phê duyệt.
Bảng 4 2 : Những mốc phát triển quan trọng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các bài NC liên quan
4.1.2 Thực trạng hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTMCP Việt Nam a) Tỷ lệ nợ xấu
Bảng 4 3: Tỷ lệ nợ xấu hệ thống NHTM giai đoạn 2008-2017 Đơn vị: %
Nguồn: Thống kê của NHNN
Biểu đồ 4 1 : Tỷ lệ nợ xấu hệ thống NHTM giai đoạn 2008-2017 Đơn vị: %
Trong giai đoạn đầu nghiên cứu, tỷ lệ nợ xấu ở Việt Nam duy trì ở mức thấp, chỉ 1,9% vào năm 2009 Tuy nhiên, từ năm 2010, nợ xấu bắt đầu gia tăng do tăng trưởng tín dụng cao và chất lượng tín dụng kém, đạt 3,3% vào năm 2011 với 85.000 tỷ đồng nợ xấu Đến cuối năm 2012, tỷ lệ này tiếp tục tăng lên 4,86%, gây ra nhiều khó khăn cho các ngân hàng về thanh khoản và hoạt động kinh doanh Nhờ vào các biện pháp xử lý hiệu quả của chính phủ, tỷ lệ nợ xấu đã giảm xuống còn 1,99% vào năm 2017.
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu đã giảm trong những năm gần đây, nhưng sự gia tăng mạnh mẽ của nợ xấu trong giai đoạn 2009-2012 chủ yếu là do mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng.
ROA 1,50 tại Việt Nam được coi là không hợp lý do chính sách tiền tệ nới lỏng, dẫn đến tín dụng tăng nhanh nhưng không đảm bảo chất lượng Sự gia tăng tín dụng nóng vào năm 2009 đã góp phần vào tình hình này, với tỷ lệ tín dụng đạt mức 1,60, nhưng lại không tương ứng với sự cải thiện về chất lượng tín dụng.
Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 đã tác động mạnh mẽ đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu Tỷ lệ ROE và ROA trung bình đã giảm sút, phản ánh những khó khăn mà các doanh nghiệp phải đối mặt trong bối cảnh kinh tế khó khăn Những thay đổi này đã đặt ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp trong việc duy trì hiệu quả hoạt động và tìm kiếm cơ hội phát triển bền vững.
Bảng 4 4: ROE,ROA trung bình của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2008-
Trong giai đoạn 2011-2013, tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh đã dẫn đến sự sụt giảm đáng kể của các chỉ tiêu ROE và ROA Điều này cho thấy có sự chậm trễ nhất định giữa việc phát hiện nợ xấu và ảnh hưởng của nó đến hiệu quả tài chính Ngược lại, trong giai đoạn 2009-2010, tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp, giúp ROE và ROA duy trì ở mức cao, với ROE luôn trên 20% và thậm chí đạt mức cao nhất 1,6% trong nhiều năm qua.
Năm 2011, mặc dù nợ xấu bắt đầu gia tăng, chỉ số ROE và ROA vẫn duy trì ở mức cao Tuy nhiên, ngay sau đó, nợ xấu đã có tác động tiêu cực mạnh mẽ, dẫn đến sự sụt giảm nhanh chóng của hai chỉ tiêu này, với ROE chỉ còn 13,8% và ROA giảm xuống 1,1% Từ đó, tỷ lệ ROE và ROA tiếp tục giảm dần theo xu hướng tiêu cực.
Tỷ lệ nợ xấu năm 2015 ở mức thấp do ảnh hưởng từ năm 2014, nhưng nhờ vào các chính sách xử lý nợ xấu, tỷ lệ này đã được cải thiện Các chỉ tiêu tài chính như ROE và ROA cũng dần hồi phục và tăng trưởng Đến năm 2017, ROE đạt 10,2%/năm và ROA là 0,69%.
Biểu đồ 4 2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng hệ thống NHTM ở Việt Nam giai đoạn
Từ biểu đồ, có thể thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2008-2019 chia thành ba giai đoạn rõ rệt Giai đoạn đầu (2008-2010) ghi nhận tốc độ tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ, đạt đỉnh vào năm 2019 với 37,73%/năm Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo (2011-2014) lại chứng kiến sự suy thoái nghiêm trọng do tỷ lệ nợ xấu gia tăng, dẫn đến việc siết chặt tín dụng và giảm tốc độ tăng trưởng Sự phát triển nóng của tín dụng trong giai đoạn đầu đã tạo ra độ trễ nhất định, góp phần làm gia tăng nợ xấu Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã lập kỷ lục trong 10 năm qua, phản ánh sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế.
Hình ảnh 4 1: Tăng trưởng GDP của Việt Nam so với một số khu vực khác từ
Biểu đồ 4 3: Tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2017
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Tăng trưởng kinh tế quý IV/2017 đạt kỷ lục 7,65%, đưa GDP cả năm lên 6,81%, vượt mục tiêu 6,7% của Chính phủ và các dự báo từ các tổ chức nghiên cứu Đây là mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2008.
Ngành công nghiệp chế biến chế tạo đã đạt được mức tăng trưởng 14,5%, giúp bù đắp cho sự sụt giảm 7,1% của ngành khai khoáng và thúc đẩy chỉ số sản xuất công nghiệp chung Đồng thời, chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) cũng tăng lên trung bình 52,6 điểm trong năm 2017, là mức cao nhất trong 5 năm qua, cho thấy sức khỏe của lĩnh vực sản xuất ngày càng được cải thiện.
Phân tích và thảo luận nghiên cứu
Để xác định mối quan hệ giữa các biến trong mô hình, nghiên cứu này áp dụng phân tích hệ số tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc.
Nguồn: Kết quả từ phần mềm stata
Nguồn: Kết quả từ phần mềm stata
Kết quả phân tích ma trận hệ số tương quan từ bảng 4.5 và 4.6 cho thấy các biến phụ thuộc có mối quan hệ tương quan với các biến độc lập ở mức độ khác nhau, với giá trị tuyệt đối của hệ số tương quan đều nhỏ hơn 0.7, cho thấy mối quan hệ giữa các biến là hợp lý Hệ số tương quan cao nhất là 0.6108 giữa LN_SIZE và TETA, điều này gợi ý về khả năng tồn tại cộng tuyến giữa hai biến này, và sẽ được kiểm tra rõ hơn thông qua kiểm định cộng tuyến VIF.
4.2.2 Kiểm định đa cộng tuyến - VIF Đa cộng tuyến là hiện tượng các biến độc lập trong mô hình có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau Sự xuất hiện của hiện tượng này có thể dẫn đến việc các ước lượng OLS và sai số chuẩn trở nên vô cùng nhạy cảm với bất kỳ sự thay đổi nhỏ nào của số liệu, dẫn đến việc ước lượng khoảng tin cậy không còn chính xác Do đó, tác giả đã sử dụng kiểm định VIF với câu lệnh: VIF để xác định xem mô hình có gặp phải hiện tượng đa cộng tuyến hay không.
Bảng 4 7: Kiểm định đa cộng tuyến - VIF
Nguồn: Kết quả từ phần mềm stata
Hệ số phóng đại phương sai (VIF) của tất cả các biến độc lập trong mô hình đều nhỏ hơn 10, cho thấy hiện tượng đa cộng tuyến không nghiêm trọng và không ảnh hưởng lớn đến kết quả hồi quy.
Các biến OLS FEM REM
Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 1 Mô hình 2
Ghi chú ***, **, * có ý nghĩa thống kê lần lượt ở mức 1%, 5% và 10%
4.2.3 Phân tích hồi quy a) Ket quả hồi quy
Bảng 4 8: Kết quả phân tích hồi quy
Nguồn: Kết quả tính toán trên Stata b) Phân tích kết quả hồi quy
Theo bảng 4.8, ta có các kết quả hồi quy theo các mô hình khác nhau:
Trong mô hình 1, các biến độc lập CR và GDP không có ý nghĩa thống kê, trong khi biến LN_SIZE được chấp nhận giải thích cho biến phụ thuộc ROA ở mức 5% Các biến INF và TETA được chấp nhận giải thích ở mức 1%, với mối quan hệ tương quan dương giữa TETA, INF và ROA.
Trong mô hình 2, các biến độc lập TETA và GDP không cho thấy ý nghĩa thống kê, trong khi biến CR có thể giải thích biến ROE với mức ý nghĩa 5% Hai biến LN_SIZE và INF cũng được chấp nhận giải thích ở mức 1% Hơn nữa, LN_SIZE và INF có mối quan hệ tương quan dương, trong khi CR lại có mối quan hệ tương quan âm với ROE.
Kiểm định Pooled OLS và FEM FEM và REM
Kết luận Chọn FEM Chọn REM
Trong mô hình 1, các biến độc lập CR, LN_SIZE và GDP không có ý nghĩa thống kê, trong khi các biến TETA và INF có ý nghĩa thống kê trong việc giải thích sự thay đổi của biến phụ thuộc ROA với mức ý nghĩa 5% Đặc biệt, TETA và INF có mối quan hệ tương quan dương với ROA.
Trong mô hình 2, các biến TETA và INF có ý nghĩa thống kê 1% đối với ROE, trong khi các biến CR, LN_SIZE và GDP không có ý nghĩa Biến TETA thể hiện mối quan hệ tương quan âm, trong khi biến INF cho thấy mối quan hệ tương quan dương với ROE.
Trong mô hình 1, các biến CR, LN_SIZE và GDP không có ý nghĩa thống kê trong việc giải thích sự phụ thuộc của ROE Ngược lại, các biến TETA và INF có ý nghĩa thống kê ở mức 1% và cho thấy mối quan hệ tương quan dương với ROA.
Trong mô hình 2, các biến độc lập CR, LN_SIZE, GDP không có ý nghĩa thống kê, trong khi biến TETA và INF cho thấy ý nghĩa thống kê với mức 5% và 1% tương ứng Biến TETA có mối quan hệ tương quan âm, trong khi biến INF có mối quan hệ tương quan dương với ROE.
4.2.4 Kiểm định các giả thuyết hồi quy mô hình nghiên cứu
• Kiểm định lựa chọn mô hình
Bảng 4 9: Các kiểm định lựa chọn mô hình cho mô hình 1
Nguồn: Kết quả từ phần mềm stata
Kiểm định Pooled OLS và FEM FEM và REM
Ket luận Chọn FEM Chọn REM
Bảng 4 10: Các kiểm định lựa chọn mô hình cho mô hình 2
Nguồn: Kết quả từ phần mềm stata
Khi phân tích hồi quy cho hai biến phụ thuộc ROA và ROE, kết quả cho thấy mô hình FEM phù hợp hơn so với mô hình Pooled OLS, trong khi mô hình REM lại cho thấy sự phù hợp hơn so với mô hình FEM.
Trong ba mô hình OLS, FEM và REM khi phân tích hồi quy dữ liệu bảng, mô hình REM được xác định là phù hợp nhất với tổng thể số liệu nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2008 - 2017.
• Kiểm định phương sai sai số thay đổi
Một trong những giả định quan trọng trong hồi quy tuyến tính đa biến là phương sai của sai số phải đồng nhất Khi hiện tượng phương sai thay đổi xảy ra, kết quả của phương trình hồi quy sử dụng phương pháp OLS sẽ không còn chính xác, dẫn đến việc đánh giá sai chất lượng của mô hình hồi quy.
Để xác định sự tồn tại của hiện tượng phương sai sai số thay đổi, tác giả sẽ thực hiện kiểm định Lagrangian với giả thuyết H0 rằng phương sai sai số là đồng nhất và không đổi.
Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test for random effects
Mô hình 1 Mô hình 2 chi2 (20) = 54.83 chi2 (20) = 86.25
“Wooldridge test for autocorrelation in panel data”
Bảng 4 11: Kiểm định phương sai sai số thay đổi
Nguồn: Kết quả từ phần mềm Stata
Kết quả kiểm định Lagrangian cho thấy nếu giá trị Prob nhỏ hơn 0.05, chúng ta sẽ bác bỏ giả thuyết H0 Do đó, từ bảng kết quả, có thể nhận thấy mô hình xuất hiện hiện tượng phương sai sai số thay đổi với mức ý nghĩa 5%.
• Kiểm định tự tương quan