1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Rủi ro trong hoạt động factoring tại các NHTM việt nam khoá luận tốt nghiệp 658

104 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 104
Dung lượng 0,96 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1------------------------------------------------------------------------------------ 3 (14)
    • 1.1. Khái quát về hoạt động Factoring của Ngân hàng thương mại (14)
      • 1.1.1. Khái niệm Factoring (14)
      • 1.1.2. Chức năng của Factoring (15)
      • 1.1.3. Phân loại Factoring (18)
      • 1.1.4. Quy trình hoạt động Factoring (20)
    • 1.2. Rủi ro trong hoạt động Factoring của Ngân hàng thương mại (22)
      • 1.2.1. Khái niệm rủi ro trong hoạt động Factoring của Ngân hàng thương mại - 11 1.2.2. Các loại rủi ro trong hoạt động Factoring của Ngân hàng thương mại -— 13 1.2.3. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động Factoring (22)
    • 1.3. Kinh nghiệm quốc tế về hạn chế rủi ro trong hoạt động Factoring và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam (28)
      • 1.3.1. Kinh nghiệm quốc tế về hạn chế rủi ro trong hoạt động Factoring (28)
      • 1.3.2. Bài học cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam (31)
  • CHƯƠNG 2------------------------------------------------------------------------------------ 24 (35)
    • 2.1. Thực trạng hoạt động Factoring tại các NHTM Việt Nam (35)
      • 2.1.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động Factoring tại các NHTM Việt Nam (35)
      • 2.1.2. Số lượng các Ngân hàng thương mại Việt Nam thực hiện Factoring-----28 29 (39)
      • 2.2.1. Rủi ro tín dụng, rủi ro gian lận, rủi ro tác nghiệp (51)
      • 2.2.2. Rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro ngoại hối (53)
      • 2.2.3. Rủi ro thu nợ (56)
      • 2.2.4. Rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động (57)
    • 2.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động Factoring tại các NHTM Việt Nam (59)
      • 2.3.1. Nguyên nhân khách quan (59)
      • 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan (68)
  • CHƯƠNG 3------------------------------------------------------------------------------------ 58 (72)
    • 3.1. Định hướng phát triển hoạt động Factoring của các NHTM Việt Nam — 58 1. Định hướng phát triển kinh tế của Việt Nam (72)
      • 3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động Factoring của các NHTM Việt Nam — 60 3.2. Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động Factoring tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam (74)
      • 3.2.1. Hoàn thiện các văn bản nội bộ (77)
      • 3.2.2. Xây dựng tiêu chí lựa chọn bên bán hàng, cung cấp dịch vụ (77)
      • 3.2.3. Xâydựng tiêu chí lựa chọn bên mua hàng, sử dụngdịchvụ (80)
      • 3.2.4. Kiểm soát tốt quá trình quản lý khách hàng (81)
      • 3.2.5. Xâydựng tiêu chí lựa chọn đại lý Factor phù hợp (82)
      • 3.2.6. Hạn chế tranh chấp về hàng hóa (83)
      • 3.2.7. Hạn chế rủi ro tranh chấp hợp đồng (84)
      • 3.2.8. Phát triển hệ thống các đại lý Factor trong nước và quốc tế (85)
      • 3.2.9. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt động Factoring (85)
      • 3.2.10. Hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin (86)
    • 3.3. Kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động Factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam (87)
      • 3.3.3. Kiến nghị với các NHTM Việt Nam (90)
      • 3.3.4. Kiến nghị với khách hàng (91)
  • PHỤ LỤC (97)

Nội dung

3

Khái quát về hoạt động Factoring của Ngân hàng thương mại

Factoring là một hình thức tài trợ thương mại quốc tế linh hoạt, với các khái niệm khác nhau được sử dụng ở từng quốc gia, khu vực và tổ chức tín dụng Tại Việt Nam, thuật ngữ Factoring được dịch sang nhiều tên gọi như hoạt động bao thanh toán tương đối, cho vay bao thu nợ, hoạt động mua nợ và nghiệp vụ ủy nhiệm thu nộp Để đảm bảo tính thuận lợi và dễ hiểu, chúng ta sẽ gọi nó là hoạt động Factoring.

Sau đây là một số khái niệm phổ biến:

Theo công ước UNIDROIT về Factoring quốc tế được thông qua ngày 28/05/1988 tại Ottawa, Canada, "Hợp đồng Factoring" được định nghĩa là hợp đồng giữa đơn vị bán và đơn vị Factor, trong đó người bán có thể chuyển nhượng các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc dịch vụ Đơn vị Factor phải thực hiện ít nhất hai trong bốn chức năng sau: quản lý các khoản phải thu, cấp vốn, bảo vệ rủi ro tín dụng và thu hồi các khoản nợ.

• Tài trợ bên cung ứng (gồm cho vay và ứng trước tiền)

• Quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải thu

• Thu hộ các khoản phải thu

• Bảo hiểm rủi ro không thanh toán của bên mua hàng”

- Theo hiệp hội Factoring thế giới (FCI-Factors Chain International)

Factoring là dịch vụ tài chính toàn diện, kết hợp tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo dõi khoản phải thu và thu hộ Trong thỏa thuận này, bên bán chuyển nhượng khoản phải thu cho đơn vị Factor để nhận tiền ứng trước, trong khi Factor quản lý và thu hộ các khoản này Đặc biệt, với hình thức Factoring miễn truy đòi, nếu bên mua không còn khả năng thanh toán, Factor sẽ thay bên mua chi trả cho bên bán Khi bên mua và bên bán ở hai quốc gia khác nhau, dịch vụ này được gọi là Factoring quốc tế.

Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN và Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN, factoring tại Việt Nam được định nghĩa là hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng Hình thức này thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ giao dịch mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, đã được thỏa thuận giữa bên bán và bên mua trong hợp đồng.

Factoring là quá trình mà các nhà Factor mua lại khoản phải thu với mức giá chiết khấu, giúp người bán nhận tiền mặt ngay lập tức Người bán có thể lựa chọn sử dụng một hoặc nhiều dịch vụ trong gói dịch vụ mà các nhà Factor cung cấp.

Tóm lại, qua các khái niệm trên ta thấy được một số nét đặc trưng của hoạt động Factoring:

1 Đây là hợp đồng mua, bán các khoản phải thu chưa đến hạn.

2 Nhà Factor tài trợ cho người bán bằng cách ứng trước tiền.

3 Nhà Factor cung cấp dịch vụ quản lý sổ sách kế toán bán hàng và tiến hành thu nợ khi đến hạn.

Nhà Factor chịu trách nhiệm về rủi ro tín dụng trong nghiệp vụ Factoring, bởi vì tính chất của dịch vụ này chủ yếu là miễn truy đòi, dẫn đến việc mọi rủi ro thanh toán đều thuộc về nhà Factor.

Theo quy định của FCI trong ấn bản tháng 6/2004, hợp đồng Factoring là thỏa thuận giữa nhà cung cấp và nhà Factor, trong đó nhà cung cấp chuyển nhượng các khoản phải thu, với hoặc không có mục đích tài trợ, nhằm thực hiện các chức năng như kế toán sổ sách phải thu, thu nợ và phòng ngừa rủi ro nợ xấu Thêm vào đó, Công ước UNIDROIT 1988 còn xác định rằng hoạt động Factoring cũng bao gồm chức năng tài trợ cho người bán, thông qua việc cho vay và ứng tiền thanh toán trước.

1.1.2.1 Quản lý sổ sách kế toán bán hàng Để thực hiện chức năng này, các nhà Factor đã xây dựng một cơ chế thực hiện hoạt động khá chặt chẽ:

Trước khi chuyển giao sổ sách kế toán cho các nhà Factor, nhà cung cấp cần chuẩn bị đầy đủ hóa đơn chưa thanh toán cùng các chứng từ liên quan, được phân loại theo từng khách hàng.

Sau khi tập hợp các bản sao hóa đơn và lập bảng kê chuyển nhượng quyền sở hữu, nhà cung cấp chuyển giao các giấy tờ cho nhà Factor Sau khi chấp nhận bảng danh mục, nhà Factor sẽ quản lý các khoản nợ này Nhà cung cấp có trách nhiệm hoàn trả cho nhà Factor tất cả số tiền mà người mua đã ký quỹ hoặc thanh toán trước cho họ.

Nhà Factor duy trì sổ sách bán hàng cho từng khách hàng riêng biệt Sổ sách bán hàng được duy trì bằng các phương thức sau:

Phương thức thu nợ riêng biệt (Open-item method) là phương pháp mà mỗi khoản phải thu được ghi nhận riêng biệt, giúp nhà Factor kiểm soát hiệu quả từng khoản nợ cụ thể Ưu điểm nổi bật của phương thức này là khả năng quản lý và theo dõi các khoản phải thu một cách chi tiết, từ đó nâng cao hiệu quả thu hồi nợ.

Phương thức số dư (Balancing method) là cách ghi chép các khoản nợ theo trật tự thời gian đến hạn, trong đó việc thu nợ được thực hiện định kỳ dựa trên số dư tích lũy ròng vào cuối kỳ.

1.1.2.2 Dịch vụ thu nợ Đối với phương thức thanh toán trả chậm, người bán cho phép người mua chậm thanh toán sau khi họ đã nhận được hàng hóa Điều này làm cho bên bán gặp một số khó khăn như vừa phải theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh vừa phải tổ chức hệ thống theo dõi thu nợ Hoạt động Factoring với chức năng thu hộ sẽ thay người bán đi đòi nợ người mua, nhờ đó người bán có nhiều thời gian tập trung sản xuất kinh doanh. Quá trình thu nợ của nhà Factor gồm các bước sau:

- Nhà Factor gửi bản sao kê các khoản phải thu chưa đến hạn cho người mua và gửi lệnh thu nợ khi đến hạn.

Khi khoản phải thu đã quá hạn một thời gian nhất định, nhà Factor cần nhanh chóng thúc giục người mua thực hiện nghĩa vụ trả nợ Việc này có thể được thực hiện thông qua các phương thức như gửi thư, gọi điện thoại hoặc gặp gỡ trực tiếp để thảo luận về vấn đề thanh toán.

- Nhà Factor tiến hành các thủ tục pháp lý đối với các khoản nợ quá hạn được điều chỉnh bởi các nguồn luật như hối phiếu, séc, kỳ phiếu.

Trong một số tình huống, người mua có quyền từ chối thanh toán khi có tranh chấp với người bán, đồng thời có thể yêu cầu gia hạn thời gian để hai bên giải quyết vấn đề Nếu sau thời gian gia hạn mà tranh chấp vẫn chưa được giải quyết, nhà cung cấp dịch vụ sẽ tiến hành truy đòi người bán.

Rủi ro trong hoạt động Factoring của Ngân hàng thương mại

1.2.1 Khái niệm rủi ro trong hoạt động Factoring của Ngân hàng thương mại

1.2.1.1 Khái niệm rủi ro trong hoạt động Factoring

Trong cuộc sống hàng ngày và trong sản xuất kinh doanh, rủi ro thường xảy ra dưới dạng những sự cố hoặc tai nạn bất ngờ, gây thiệt hại về người và tài sản mà không thể dự đoán trước Những tình huống này thường được hiểu là những điều không may mắn, dẫn đến tổn thất về vật chất hoặc tinh thần do các nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan.

“Rủi ro là những sự kiện bất ngờ, xảy ra ngoài ý muốn của con người, đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự đoán được”

Từ khái niệm rủi ro chung, ta có thể rút ra được khái niệm về rủi ro trong hoạt động Factoring của Ngân hàng thương mại:

Rủi ro trong hoạt động Factoring của ngân hàng thương mại là những vấn đề không mong muốn phát sinh trong quá trình thực hiện, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng Những rủi ro này có thể dẫn đến tổn thất tài sản, giảm lợi nhuận thực tế so với dự kiến, hoặc yêu cầu ngân hàng phải chi thêm một khoản chi phí.

Thông qua hoạt động Factoring, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã góp phần chia sẻ rủi ro trong các phương thức thanh toán thương mại giữa bên mua và bán Do đó, rủi ro trong hoạt động Factoring cũng xuất phát từ chính các chức năng của hoạt động này.

1.2.1.2 Sự khác nhau giữa rủi ro trong hoạt động Factoring và trong các hoạt động tài trợ thương mại khác của NHTM a) Với hoạt động chiết khấu hối phiếu

Chiết khấu hối phiếu là phương thức cho phép người bán, sau khi giao hàng, ký phát hối phiếu để đòi tiền từ người mua trong trường hợp nhờ thu hoặc từ ngân hàng phát hành trong phương thức L/C Khi hối phiếu được chấp nhận, người bán có thể chiết khấu tại ngân hàng của mình hoặc bất kỳ tổ chức tài chính nào cung cấp dịch vụ này, giúp họ nhận tiền ngay lập tức thay vì phải chờ đến hạn thanh toán Điều này chuyển đổi tín dụng thương mại sang tín dụng ngân hàng, với chủ nợ chuyển từ người bán sang ngân hàng chiết khấu.

Factoring và chiết khấu hối phiếu có hình thức tương tự, cho phép người bán nhận tiền trước khi các khoản phải thu đến hạn Tuy nhiên, trong thỏa thuận chiết khấu, trung gian tài chính không quản lý sổ sách và thu nợ, trong khi nhà Factor phải thực hiện nhiệm vụ này, do đó chịu thêm rủi ro trong quản lý.

Hoạt động cho vay thông thường là hình thức tài trợ ngân hàng, cung cấp vốn cho bên bán trong thời hạn xác định, với rủi ro tín dụng phụ thuộc vào uy tín và năng lực tài chính của bên bán Trong khi đó, Factoring bao gồm các chức năng như tài trợ, dịch vụ thu nợ và chấp nhận rủi ro thanh toán, với rủi ro tín dụng chủ yếu từ uy tín của bên mua Nếu các khoản phải thu trong Factoring được mua bán miễn truy đòi, nhà Factor sẽ hoàn toàn chịu rủi ro thu hồi nợ, đặc biệt là khi bên mua ở nước ngoài Đối với hoạt động bảo hiểm tín dụng, nhà nhập khẩu có thể bảo hiểm rủi ro cho các khoản phải thu, trong khi công ty bảo hiểm không thu hộ mà chỉ bồi thường khi khoản phải thu không được thanh toán theo hợp đồng Các công ty bảo hiểm thường chỉ bảo hiểm một tỷ lệ % nhất định cho các khoản phải thu, phụ thuộc vào hệ số tín nhiệm của người mua, nhằm hạn chế rủi ro.

Bảo hiểm tín dụng tương tự như dịch vụ Factoring miễn truy đòi, nhưng chỉ tập trung vào việc bảo hiểm rủi ro tín dụng cho các khoản nợ xấu Các công ty bảo hiểm không thực hiện thu hộ tiền hàng hay tài trợ ứng trước, do đó họ không phải đối mặt với rủi ro liên quan đến việc thu hồi tiền hàng hoặc rủi ro phát sinh từ việc ứng trước tiền cho người bán.

1.2.2 Các loại rủi ro trong hoạt động Factoring của Ngân hàng thương mại

Sơ đồ 1.3: Các loại rủi ro trong hoạt động Factoring

Rủi ro tín dụng là khả năng nhà Factor gặp tổn thất khi không thu hồi được đầy đủ và đúng hạn số tiền đã ứng trước cho bên bán Rủi ro này xảy ra khi có tranh chấp thương mại, khiến bên mua không thanh toán cho đến khi tranh chấp được giải quyết, và bên bán phải hoàn trả số tiền đã ứng trước Nếu bên bán gặp khó khăn tài chính hoặc mất khả năng thanh toán, đơn vị Factor sẽ chịu tổn thất Do đó, việc hạn chế tranh chấp thương mại và quản lý khách hàng bên bán tốt hơn sẽ giúp đơn vị Factor phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro tín dụng.

Rủi ro hóa đơn ứng trước là tình trạng hóa đơn được mua bán nhưng không liên quan đến bất kỳ giao dịch thương mại thực tế nào Do đó, hóa đơn này không có giá trị pháp lý, khiến cho các nhà cung cấp không thể thu hồi nợ từ người mua.

Người bán hàng sau khi giao hàng sẽ ký phát hóa đơn để thu tiền từ người mua và gửi cho nhà Factor một bản sao Nhà Factor sẽ ứng trước cho người bán một tỷ lệ phần trăm dựa trên giá trị khoản phải thu Tại các quốc gia phát triển, các nhà Factor sử dụng phần mềm kết nối mạng, cho phép người bán gửi thông tin hóa đơn qua tin nhắn điện tử Tuy nhiên, điều này cũng tạo ra rủi ro gian lận, khi người bán có thể ký phát hóa đơn trước khi giao hàng hoặc thậm chí phát hành hóa đơn khống để nhận tiền ứng trước từ nhà Factor.

Nhà Factor đối mặt với rủi ro khi cung cấp dịch vụ Factoring cho hàng hóa bán theo phương thức ký gửi, hàng hóa cần lắp đặt hoặc có điều khoản bảo hành cho phép người mua yêu cầu hoàn lại hoặc giảm giá Trong những tình huống này, khả năng thu hồi nợ của nhà Factor có thể bị ảnh hưởng, dẫn đến việc không thu hồi được nợ hoặc thu không đầy đủ do người mua khấu trừ Thêm vào đó, nếu người bán sử dụng khoản phải thu làm tài sản đảm bảo cho các khoản vay khác, nhà Factor có thể mất quyền đòi nợ Hệ quả là uy tín của nhà Factor với khách hàng bị giảm sút và họ phải chịu thất thoát chi phí hoạt động.

Rủi ro thanh khoản đề cập đến khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhanh chóng các nghĩa vụ tài chính Khi ngân hàng không thể thực hiện điều này, họ có thể phải huy động vốn bổ sung với chi phí cao hoặc bán tài sản với giá thấp, dẫn đến tổn thất tài chính.

Nhà Factor có thể đối mặt với khó khăn về tính thanh khoản khi lượng và thời gian của dòng tiền ra và vào không cân đối Điều này dẫn đến việc nhà Factor không thể ứng trước cho người bán cho đến khi thu hồi được nợ.

Tỷ giá hối đoái là mối quan hệ giá trị giữa hai đồng tiền, phản ánh giá trị của một đồng tiền qua đồng tiền khác Tỷ giá này luôn biến động và không có mối tương quan chặt chẽ giữa các đồng tiền Chẳng hạn, USD có thể tăng giá so với EURO nhưng lại giảm giá so với JPY Do đó, ngoài các rủi ro thông thường, hoạt động Factoring còn phải đối mặt với rủi ro ngoại hối, điều này có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của các nhà Factor.

1.2.2.6 Các loại rủi ro khác

Nhà Factor phải đối mặt với nhiều rủi ro khi thực hiện hoạt động Factoring, bao gồm rủi ro công nghệ, rủi ro hoạt động, rủi ro tác nghiệp, cũng như rủi ro liên quan đến thị trường, chính sách và pháp luật.

1.2.3 Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động Factoring

1.2.3.1 Nguyên nhân khách quan a) Môi trường kinh tế, chính trị

Kinh nghiệm quốc tế về hạn chế rủi ro trong hoạt động Factoring và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam

1.3.1 Kinh nghiệm quốc tế về hạn chế rủi ro trong hoạt động Factoring

Theo luật Đức, Factoring chỉ được thực hiện dưới hình thức miễn truy đòi, và sự phát triển của nó không chỉ phụ thuộc vào thị trường xuất nhập khẩu mà còn vào mối quan hệ chặt chẽ giữa các công ty Factor và khách hàng Các thị trường chủ chốt trong lĩnh vực Factoring tại Đức bao gồm Pháp, Benelux, Anh, Áo và Italia, trong khi Mỹ và Nhật Bản cũng là hai thị trường quan trọng Nhiều công ty bảo hiểm tín dụng và ngân hàng bán lẻ đang có kế hoạch mở rộng hoạt động Factoring Sự đa dạng của thị trường trong và ngoài nước đã góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Factoring tại Đức, đồng thời các công ty Factor đã áp dụng kinh nghiệm lâu năm để giảm thiểu rủi ro trong quá trình cung cấp dịch vụ.

1.3.1.2 Kinh nghiệm của Mỹ Để tồn tại và phát triển, thì các dịch vụ không những phải đáp ứng các yêu cầu của thị trường mà còn phải đa dạng hóa để hạn chế rủi ro một các tối đa Và do đó nhiều công ty Factoring của Mỹ cung cấp tất cả các dịch vụ truyền thống cũng như không truyền thống Các dịch vụ truyền thống bao gồm: Factoring, bảo đảm tín dụng, kế toán các khoản phải thu, dịch vụ nhờ thu, tài trợ trên các khoản phải thu và kho thành phẩm; các dịch vụ không truyền thống bao gồm: bảo đảm tín dụng, khách hàng chọn lọc, quản lý các khoản phải thu, bán buôn các khoản phải thu, bao thanh toán xuất nhập khẩu, bảo đảm vốn lưu động xuất khẩu, tài trợ các đơn mua hàng, L/C.

Các công ty Factoring, thường là các công ty con của ngân hàng, sở hữu lợi thế cạnh tranh trên thị trường Sự hiện diện của các công ty con từ các tập đoàn ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài ngày càng gia tăng, giúp họ chiếm lĩnh thị phần Tại Pháp, dịch vụ Factoring chủ yếu phục vụ nhu cầu của các tập đoàn lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc giao thương với các nước châu Âu Trước đây, Factoring chủ yếu tập trung vào các công ty có nguồn nhân lực lớn.

Số lượng người tham gia đã tăng từ 50 lên 200, và hiện nay đã được mở rộng để phục vụ tất cả các phân khúc của thị trường Các công ty vừa và nhỏ là nhóm khách hàng mục tiêu chính, đặc biệt là các công ty trong lĩnh vực Factoring nội địa và những doanh nghiệp có khối lượng xuất khẩu lớn.

1.3.1.4 Kinh nghiệm của Nhật Bản

Trong những năm qua, dịch vụ Factoring tại Nhật Bản chủ yếu do các công ty con của ngân hàng cung cấp, hoạt động theo quy định pháp luật ngân hàng Sau các cuộc sáp nhập ngân hàng lớn, các công ty Factoring đã được tái cấu trúc và tập trung hơn Mỹ là thị trường xuất khẩu Factoring lớn nhất của Nhật Bản (31%), trong khi thị trường Châu Á chiếm 6% và Đài Loan 4% Ngược lại, tỷ trọng Factoring nhập khẩu lại nghiêng về Đài Loan với 62%, trong khi Mỹ chỉ chiếm 14% Sự chuyển đổi từ các điều kiện thanh toán thương mại truyền thống sang hình thức ghi sổ là một tín hiệu tích cực Nhật Bản cũng có Hiệp hội Factoring, nơi các thành viên chia sẻ kinh nghiệm nhằm hạn chế rủi ro và tiếp cận các chuyên gia tư vấn hàng đầu về quy định pháp lý và kỹ năng quản lý, phân tích, đánh giá rủi ro.

1.3.1.5 Kinh nghiệm của Thái Lan

Factoring tại Thái Lan được pháp luật hỗ trợ thông qua đạo luật Factoring, cho phép chuyển nhượng thông tin mà không cần văn bản Các Factor tính phí tương tự như các tổ chức tài chính khác, với vốn tối thiểu là 30 triệu Baht Sự phát triển của factoring một phần nhờ vào sự thận trọng của ngân hàng trong cho vay, khiến doanh nghiệp vừa và nhỏ xem đây là nguồn tài trợ linh hoạt Các đơn vị Factor chú trọng xây dựng mối quan hệ thân thiết, trao đổi kinh nghiệm, đào tạo và hỗ trợ lẫn nhau, đồng thời tổ chức hội thảo nghiệp vụ cho khách hàng, từ đó tạo dựng lòng tin và nâng cao hiểu biết cho đại lý.

1.3.1.6 Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc là một ví dụ tiêu biểu về sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ Factoring trong số các quốc gia thuộc hiệp hội Factoring quốc tế FCI, với khởi đầu tương tự như Việt Nam Năm 2001, Bank of China và Bank of Communication là hai ngân hàng đầu tiên cung cấp dịch vụ Factoring, khi khái niệm này còn mới mẻ đối với doanh nghiệp và ngân hàng Bank of China đã tiên phong trong việc nghiên cứu nhu cầu Factoring và giới thiệu sản phẩm đến khách hàng Trong bối cảnh Trung Quốc gia nhập WTO, các doanh nghiệp xuất khẩu sang Mỹ và Châu Âu đã chuyển sang phương thức thanh toán ghi sổ, dẫn đến doanh số Factoring chỉ đạt 1,2 triệu EUR vào thời điểm đó Tuy nhiên, đến năm 2013, doanh số này đã tăng vọt lên 378.128 triệu EUR, đưa Trung Quốc lên vị trí dẫn đầu thế giới Sự phát triển bền vững này được hỗ trợ bởi các biện pháp tích cực nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động Factoring.

Thứ nhất, về chính sách vĩ mô

Năm 2000, Quốc hội Trung Quốc đã ban hành Luật hợp đồng mới, khuyến khích sự phát triển của dịch vụ Factoring Luật này làm rõ các vấn đề pháp lý liên quan đến việc chuyển nhượng khoản phải thu và bảo vệ quyền lợi cho các đơn vị Factor, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động Factoring tại Trung Quốc.

Năm 2007, Trung Quốc đã ban hành luật tài sản cho phép công nhận khoản phải thu hiện tại hoặc tương lai làm tài sản đảm bảo cho người vay Quy chế đăng ký thế chấp khoản phải thu có hiệu lực từ tháng 10/2007, với hệ thống đăng ký qua mạng được Ngân hàng Trung ương Trung Quốc quản lý Các nhà cho vay phải đăng ký sau khi ký hợp đồng thế chấp để bảo vệ quyền lợi và giảm thiểu rủi ro từ việc người vay sử dụng khoản phải thu vào mục đích khác hoặc sử dụng khoản phải thu giả mạo Đây được coi là một bước tiến quan trọng trong quản lý rủi ro trong hoạt động Factoring của hệ thống ngân hàng Trung Quốc.

Thứ hai, về chính sách của các ngân hàng hoạt động Factoring

Một điểm nổi bật trong chiến lược phát triển bền vững của các ngân hàng là đầu tư vào yếu tố con người thông qua việc đào tạo chuyên nghiệp cho cán bộ ngân hàng thương mại và ngân hàng Trung ương Trung Quốc Họ được tham gia các khóa học của hiệp hội FCI, IFG và thực tập tại các đơn vị Factoring hàng đầu thế giới để tiếp thu chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm quý báu Trung Quốc đã liên tục nhận giải thưởng từ hiệp hội cho thành tích xuất sắc của học viên, thể hiện tinh thần học hỏi và cầu thị Điều này không chỉ giúp Trung Quốc nhanh chóng hòa nhập vào cộng đồng Factoring toàn cầu mà còn tạo dựng hình ảnh chuyên nghiệp, đáng tin cậy cho các đối tác khi hợp tác với ngân hàng Trung Quốc.

1.3.2 Bài học cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ, các sản phẩm tài chính ngân hàng ngày càng đa dạng Mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng về lãnh thổ, con người và điều kiện kinh tế, dẫn đến sự khác biệt trong việc áp dụng nghiệp vụ Factoring Tại Châu Âu, với nền kinh tế phát triển và uy tín doanh nghiệp cao, hoạt động Factoring được mở rộng và dễ dàng hơn Ngược lại, ở một số nước châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ, Factoring chưa được áp dụng đầy đủ, thường chỉ giới hạn ở một số ngành hàng và khách hàng nhất định, hoặc yêu cầu quyền truy đòi từ người bán khi người mua không thanh toán.

Từ những kinh nghiệm hạn chế rủi ro trong hoạt động Factoring tại các quốc gia khác, các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể rút ra những bài học quan trọng Việc áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả, tăng cường đào tạo nhân viên và xây dựng quy trình kiểm soát chặt chẽ sẽ giúp nâng cao tính an toàn và hiệu quả trong hoạt động Factoring Đồng thời, việc theo dõi và đánh giá thường xuyên các khoản phải thu cũng là yếu tố then chốt để giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.

Trong thị trường Việt Nam với mức độ rủi ro cao, Factoring vẫn là một sản phẩm mới mẻ cho cả người sử dụng và đơn vị thực hiện Việc ứng dụng nghiệp vụ Factoring nội địa trước sẽ giúp các đơn vị Factor dễ dàng hơn trong việc quản lý rủi ro và thu hồi nợ Sau khi tích lũy kinh nghiệm, các đơn vị có thể chuyển sang Factoring quốc tế, yêu cầu mối quan hệ đối tác rộng rãi với các đơn vị Factor toàn cầu Bằng cách sử dụng Factoring nội địa, các đơn vị Factor có thể chủ động trong việc thẩm định người mua và người bán, đồng thời thực hành quản lý sổ sách các khoản phải thu và lựa chọn các loại hình doanh nghiệp phù hợp.

Các ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ Factoring nhờ vào kinh nghiệm cho vay, quản lý rủi ro và thanh toán quốc tế Với số lượng khách hàng hiện hữu lớn, NHTM có lợi thế hơn so với các tổ chức tài chính khác trong việc triển khai sản phẩm này Để tối ưu hóa lợi ích từ Factoring, cần liên tục trau dồi kinh nghiệm và nâng cao nghiệp vụ, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các đơn vị bảo hiểm và cơ quan chức năng.

> Nhận thức và rút kinh nghiệm từ các quốc gia đã thực hiện thành công và hiệu quả nghiệp vụ Factoring để hoàn thiện sản phẩm của mình hơn.

Tham gia các hiệp hội Factoring quốc tế và thành lập diễn đàn chung về Factoring sẽ tạo cơ hội cho các ngân hàng thương mại (NHTM) chia sẻ kinh nghiệm và hạn chế rủi ro Qua việc thảo luận về những tình huống và sự kiện thực tế mà các ngân hàng đã trải qua, các thành viên có thể hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau khi cần thiết.

24

Thực trạng hoạt động Factoring tại các NHTM Việt Nam

2.1.1 Cơ sở pháp lý cho hoạt động Factoring tại các NHTM Việt Nam

2.1.1.1 Các văn bản pháp lý quy định về hoạt động Factoring tại Việt Nam

Hiện nay, các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng là những đối tượng thực hiện dịch vụ Factoring tại Việt Nam Những doanh nghiệp này hoạt động kiếm lời và phải tuân thủ các quy định của pháp luật liên quan.

> Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 của Quốc hội.

> Quyết định 1096/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 06/09/2004 về việc ban hành quy chế Factoring của các tổ chức tín dụng.

Quyết định 547/2005/QĐ-NHNN, được ban hành bởi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vào ngày 19/04/2005, quy định về “Quy chế các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” Quy chế này nhằm nâng cao tính an toàn và ổn định cho hệ thống tài chính, đảm bảo các tổ chức tín dụng hoạt động hiệu quả và bền vững.

Quyết định 453/2005/QĐ-NHNN quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng nhằm xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng Quy định này nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.

Công văn 676/NHNN-CSTT của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ban hành ngày 28/06/2005, quy định về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ và chuyển nợ quá hạn cho các hoạt động Factoring của tổ chức tín dụng Văn bản này nhằm hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong việc quản lý nợ và cải thiện tình hình tài chính của khách hàng.

Ngày 19/02/2013, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành văn bản số 991/NHNN-TTGSNH hướng dẫn các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện hoạt động Factoring Hướng dẫn này dựa trên quy chế hoạt động Factoring được quy định trong Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN, ban hành ngày 06/09/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

> Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN ngày 16/10/2008 nhằm sửa đổi, bổ sungQuyết định 1096.

2.1.1.2 Các quy định cơ bản về Factoring a) Đơn vị được phép thực hiện hoạt động Factoring

Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng có quyền thực hiện hoạt động Factoring.

- Ngân hàng thương mại nhà nước;

- Ngân hàng thương mại cổ phần;

- Ngân hàng 100% vốn nước ngoài;

- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. b) Đối tượng được cung cấp dịch vụ Factoring

Khách hàng của tổ chức tín dụng cung cấp dịch vụ Factoring bao gồm các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước tham gia vào hoạt động cung ứng hàng hóa và nhận các khoản phải thu từ giao dịch mua bán hàng hóa theo thỏa thuận trong hợp đồng Để được phép thực hiện Factoring, khách hàng cần đáp ứng các điều kiện nhất định.

Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện hoạt động Factoring trong nước khi tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện sau :

- Có nhu cầu hoạt động Factoring;

Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của ngân hàng trong ba tháng gần nhất luôn duy trì dưới 5%, đảm bảo không vi phạm các quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng.

Để tham gia vào hoạt động Factoring xuất nhập khẩu, các đơn vị phải không thuộc đối tượng đang bị xem xét hoặc đã bị xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, trừ khi họ đã khắc phục được hành vi vi phạm Ngoài các điều kiện áp dụng cho Factoring trong nước, tổ chức xin thực hiện Factoring xuất nhập khẩu cần phải là tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối Bên cạnh đó, cần có các điều kiện cụ thể đối với các khoản phải thu.

Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN và Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN, các ngân hàng cung cấp dịch vụ Factoring yêu cầu các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa và dịch vụ hợp pháp Hợp đồng này cần có quy định về việc chuyển nhượng khoản phải thu hoặc không quy định Ngoài ra, các khoản phải thu được phép Factoring không thuộc các trường hợp bị hạn chế.

- Phát sinh từhợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bịphápluật cấm;

- Phát sinh từcác giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp;

- Phát sinh từcác giao dịch, thỏa thuận đang có tranh chấp;

- Phát sinh từcác hợp đồng bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hình thứcký gửi;

- Phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn thanh toán dài hơn 180 ngày ;

- Các khoản phải thu đã được gán nợ, hoặc cầm cố, hoặc thế chấp;

- Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;

Các khoản phải thu từ hợp đồng cung ứng dịch vụ trong lĩnh vực xây dựng và tài chính được quy định rõ trong phụ lục của văn bản pháp luật.

- Hợp đồng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ có thỏa thuận không được chuyển giao quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng.

Một số ngân hàng, như ACB, có quy định riêng về bao thanh toán trong nước, chủ yếu áp dụng cho các mặt hàng tiêu dùng, ưu tiên những sản phẩm có chất lượng ổn định và ít xảy ra hư hỏng.

Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN:

Theo Điều 11, đơn vị Factor có thể thực hiện nhiều loại hình Factoring, bao gồm Factoring có truy đòi, Factoring miễn truy đòi, Factoring xuất nhập khẩu và Factoring nội địa Điều 12 quy định các phương thức Factoring như Factoring từng lần, Factoring theo hạn mức và đồng Factoring.

Các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu cung cấp dịch vụ Factoring theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Tuy nhiên, trong những năm gần đây, chỉ một số ngân hàng thương mại như Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt và Ngân hàng xăng dầu Petrolimex được phép cung cấp dịch vụ Factoring nội địa.

Tùy từng ngân hàng sẽ cung cấp dịch vụ Factoring có truy đòi hay miễn truy đòi.

Nhiều ngân hàng tại Việt Nam, như Vietcombank và Techcombank, cung cấp cả hai loại dịch vụ Factoring có truy đòi và miễn truy đòi Trong khi đó, một số ngân hàng khác như Eximbank và Nam Á chỉ cung cấp dịch vụ Factoring có truy đòi Sự phân chia này cho thấy sự dè dặt của các ngân hàng đối với một dịch vụ mới mẻ nhưng đầy tiềm năng tại thị trường Việt Nam.

2.1.1.3 Các điều kiện để thực hiện hoạt động Factoring tại các NHTM Việt Nam a) Đội ngũ cán bộ nhân viên chuyên nghiệp

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động Factoring tại các NHTM Việt Nam

2.3.1.1 Môi trường kinh tế chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro bất ổn

Trong những năm gần đây, nền kinh tế trong và ngoài nước đã đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng do ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng như khủng hoảng kinh tế toàn cầu, khủng hoảng nợ công châu Âu, lạm phát cao tại Trung Quốc và cuộc "chiến tranh tiền tệ".

Trong những năm qua, Việt Nam đã phải đối mặt với tình hình kinh tế bất ổn, đặc biệt là lạm phát Năm 2008, tỷ lệ lạm phát đạt mức cao kỷ lục 19,87%, là mức cao nhất kể từ năm 1992 Tuy nhiên, đến năm 2009, lạm phát bất ngờ giảm xuống chỉ còn 6,78%, mức thấp nhất trong ba năm Tuy nhiên, tình trạng lạm phát ở mức một con số không kéo dài lâu trong hai năm tiếp theo.

Vào năm 2010 và 2011, tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam đã tăng lên mức hai con số, lần lượt đạt 11,75% và 18,13% Để đối phó với tình hình này, Ngân hàng Nhà nước đã đặt ra mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt Nhờ những nỗ lực này, tỷ lệ lạm phát đã giảm xuống còn 6,81% vào năm 2012 và 6,04% vào năm 2013.

Năm 2014, lạm phát tiếp tục có xu hướng giảm, trong khi lạm phát cơ bản, không bao gồm giá lương thực, thực phẩm, hàng hóa cơ bản và dịch vụ công, duy trì ổn định ở mức khoảng 5% kể từ tháng 1/2013 Lạm phát cơ bản của năm 2012 là 5,4%.

Biểu đồ 2.4: Lạm phát và lạm phát cơ bản 1/2013-4/2014, % tăng CPI so với cùng kỳ

Như vậy trong 7 năm (2008-2014), tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam không ổn định, có những lúc lên tới tận 2 con số, gây ra một loạt các hệ quả xấu.

Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua sự suy giảm tổng cầu, cắt giảm đầu tư và sự gia tăng số lượng doanh nghiệp phá sản Năm 2013, ước tính có 60.737 doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động, tăng 11,9% so với năm 2012 Trong số đó, 9.818 doanh nghiệp đã chính thức giải thể, 10.803 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, và 40.116 doanh nghiệp ngừng hoạt động mà không đăng ký Nhiều thương hiệu nổi tiếng cũng rơi vào tình trạng khó khăn, trong khi các khách hàng nhỏ, đối tượng chính của dịch vụ Factoring, lại không được ngân hàng ưu tiên trong bối cảnh này Tình hình kinh tế không ổn định đã khiến hoạt động Factoring trở nên rủi ro cao, tạo ra thách thức lớn cho các ngân hàng thương mại Việt Nam.

2.3.1.2 Khung pháp lý còn nhiều bất cập

Môi trường pháp lý cho thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại tại Việt Nam hiện còn thiếu và không đồng bộ, với việc Chính phủ chưa ban hành đủ các văn bản pháp lý cần thiết Điều này đặc biệt thể hiện qua việc thiếu các quy định hướng dẫn áp dụng các thông lệ quốc tế trong thanh toán, dẫn đến việc hoạt động này không được bảo vệ đầy đủ trong trường hợp xảy ra tranh chấp Thêm vào đó, một số văn bản của Ngân hàng Nhà nước thiếu sự rõ ràng, tạo ra sự hiểu biết khác nhau giữa các ngân hàng và cơ quan thanh tra, từ đó gây ra sự áp dụng không đồng nhất và cạnh tranh không lành mạnh trong ngành ngân hàng.

Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các văn bản quy định về hoạt động Factoring, nhưng nội dung còn sơ sài và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, gây khó khăn trong triển khai Quy chế 1096/2004/QĐ-NHNN vẫn bộc lộ nhiều bất cập trong thực tế hoạt động tại các ngân hàng thương mại Mặc dù có Quyết định sửa đổi bổ sung số 30/2008/QĐ-NHNN nhằm điều chỉnh cho phù hợp hơn với các quy tắc quốc tế, nhưng tình hình thực tế vẫn cho thấy nhiều hạn chế trong các quy định của văn bản luật này, với một số điểm chưa chính xác.

Factoring được định nghĩa là hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu từ giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ Tuy nhiên, việc chỉ coi Factoring là “một hình thức cấp tín dụng” đã làm lệch lạc bản chất thực sự của nghiệp vụ này Khái niệm này không thống nhất với cách hiểu phổ biến về Factoring trên thế giới Ngoài chức năng tài trợ, đơn vị Factor còn đảm nhận việc theo dõi sổ sách, thu nợ và bảo hiểm rủi ro, điều này tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa Factoring và các hình thức cấp tín dụng thông thường.

Theo định nghĩa, Factoring là hình thức cấp tín dụng, trong đó khoản ứng trước thực chất chỉ là một khoản vay Đồng thời, khoản phải thu vẫn được coi là tài sản thuộc sở hữu của người bán.

Sự không chính xác trong định nghĩa nghiệp vụ Factoring đã tạo ra rủi ro tiềm ẩn cho đơn vị Factor khi chuyển giao quyền đòi nợ từ người bán Hiện tại, pháp luật vẫn chưa có quy định rõ ràng về mối quan hệ này.

Theo khoản 9 Điều 4, khái niệm về số dư Factoring chưa chính xác khi định nghĩa "Số dư Factoring là số tiền mà đơn vị Factor ứng trước cho bên bán hàng theo thỏa thuận tại hợp đồng Factoring" Thực tế, số dư Factoring cần được hiểu là tổng giá trị các khoản phải thu chưa được đơn vị Factor chấp nhận tại một thời điểm cụ thể.

Theo Điều 11, Factoring được chia thành hai loại: Factoring có quyền truy đòi và Factoring không có quyền truy đòi Factoring miễn truy đòi là hình thức mà Factor chịu toàn bộ rủi ro và không thể đòi lại số tiền đã ứng trước từ người bán, ngay cả khi bên mua từ chối thanh toán vì lý do không liên quan đến khả năng tài chính Ngược lại, Factoring có quyền truy đòi cho phép Factor yêu cầu hoàn lại số tiền đã ứng trước nếu bên mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán hoặc từ chối thanh toán vì bất kỳ lý do nào.

Lợi ích của Factoring là không cần sử dụng hối phiếu để tài trợ và giải quyết tranh chấp thương mại, chỉ cần hợp đồng và hóa đơn chuyển quyền sở hữu Hợp đồng Factoring được xem là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp qua trọng tài kinh tế hoặc tòa án thương mại Tuy nhiên, tại Việt Nam, hiệu lực hợp đồng và kết quả xét xử của trọng tài hay tòa án thường bị xem nhẹ, dẫn đến nhiều trường hợp vi phạm hợp đồng và không tuân thủ phán quyết mà không bị xử lý Điều này tạo ra rủi ro cho các ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện nghiệp vụ Factoring.

Sự không thống nhất trong quy định về Factoring tạo ra rào cản lớn cho ngân hàng và doanh nghiệp tham gia, do mỗi quốc gia có luật lệ và tập quán riêng Việc nắm bắt và hiểu biết về các quy định quốc tế không hề đơn giản, dẫn đến các tranh chấp không cần thiết Mặc dù khởi kiện tại tòa án được coi là biện pháp cuối cùng để thu hồi nợ khi con nợ lẩn tránh nghĩa vụ, thực tế cho thấy đây không phải là phương thức hiệu quả để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ Quy trình tố tụng phức tạp, chi phí kiện tụng cao và nhiều bất cập trong thi hành án khiến ngân hàng đối mặt với nguy cơ không thu hồi được khoản nợ sau thời gian dài tốn kém.

2.3.1.3 Môi trường thông tin chưa được công khai minh bạch

Hiện nay, ngoài các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngân hàng, tổ chức tín dụng, quỹ hỗ trợ phát triển, doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức tài chính, các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán đều phải thực hiện kiểm toán bắt buộc Tuy nhiên, quy định của Việt Nam hiện tại chưa yêu cầu kiểm toán bắt buộc đối với các doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH, khiến họ tự chịu trách nhiệm về báo cáo tài chính Điều này tạo ra khó khăn cho ngân hàng trong việc đánh giá tình hình tài chính của những khách hàng này.

58

Ngày đăng: 29/03/2022, 23:31

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w