TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Điều kiện cơ sở nơi thực tập
Trại lợn Nguyễn Văn Khanh, tọa lạc tại xã Tiền Tiến, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, được xây dựng trên diện tích 5 ha cách ly với khu dân cư Các dãy chuồng lợn được thiết kế theo hướng Đông Bắc, cách 100 m về phía Đông có dòng sông Thái Bình cung cấp nguồn nước sản xuất dồi dào Xung quanh trại là cánh đồng lúa và cây chuối, đảm bảo sự cách ly hoàn toàn với khu dân cư Trại được thành lập từ năm 2010 bởi ông Nguyễn Văn Khanh, với sự hợp tác của công ty cổ phần Green Feed và công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam.
Huyện Thanh Hà, tọa lạc ở phía Đông Nam tỉnh Hải Dương, giáp huyện Nam Sách ở phía Bắc, huyện Kim Thành ở phía Đông, thành phố Hải Phòng ở phía Nam, và thành phố Hải Dương ở phía Tây Huyện được chia thành 4 khu vực khác nhau.
Hà Nam, Hà Đông, Hà Tây và Hà Bắc.
Xã Tiền Tiến thuộc khu Hà Tây của huyện Thanh Hà, có sông Thái Bình (ở phía Tây Nam) chảy qua Giao thông bộ có đường 390A chạy từ Ngã
Ba Hàng, nằm trên đường 5 cũ, đi qua xã Tiền Tiến và huyện lỵ, kéo dài đến bến Gùa và phà Quang Thanh, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của khu vực.
Xã Tiền Tiến nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, ảnh hưởng đến hoạt động của trại lợn Nguyễn Văn Khanh Do đó, trại lợn sẽ phải thích ứng với những điều kiện khí hậu đặc trưng của khu vực này.
Hè nóng bức với lượng mưa tương đối cao, mùa Đông lạnh và khô.
Huyện Thanh Hà có khí hậu nhiệt đới với mùa Hè nóng ẩm và mưa nhiều, trong khi mùa Đông lạnh khô và ít mưa Điều này ảnh hưởng đến trại lợn Nguyễn Văn Khanh, nơi mà nhiệt độ trung bình mùa Đông thường dưới 20 °C và mùa Hè trên 20 °C.
25 ° C - 27 ° C Lượng mưa theo quy ước chung, thời kì có lượng mưa ổn định trên
100 mm tập trung từ tháng 5 đến tháng 10, còn mùa khô có lượng mưa tháng ổn định dưới 100 mm bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Theo số liệu quan trắc, mùa lạnh ở Thanh Hà kéo dài từ tháng 11 đến cuối tháng 3 năm sau, trong khi mùa Hè nóng bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng 10 Nhiệt độ trung bình của tháng 1, đại diện cho mùa Đông, thường thấp hơn so với nhiệt độ trung bình của tháng trong mùa Hè.
Hè (tháng 7) là 12 ° C Với điều kiện khí hậu như vậy, tương đối thuận lợi cho ngành chăn nuôi phát triển.
(Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn huyện Thanh Hà, tỉnh Hải
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của trại
Trại lợn Nguyễn Văn Khanh: 1 chủ trại Nguyễn Văn Khanh
2.1.3 Cơ sở vật chất của trại
Trại lợn rộng 5 ha, được bố trí cách ly với khu dân cư, bao gồm hai khu vực chính: khu sinh hoạt chung và khu chăn nuôi Ngoài ra, trại còn có hồ cá, thủy đình, vườn cây ăn quả và vườn hoa phong lan quý hiếm của ông Khanh.
Khu sinh hoạt chung bao gồm nhà điều hành, phòng ở của chủ trại, phòng ngủ của công nhân, phòng ăn và phòng tiếp khách, tất cả đều được sơn mới, nền lát đá hoa và mái bắn tôn Phòng ngủ được trang bị tủ đựng quần áo, trong khi nhà bếp rộng rãi, sạch sẽ với đầy đủ dụng cụ nấu ăn và bếp ga tiện lợi Ngoài ra, còn có hai tủ lạnh để bảo quản thực phẩm và một chiếc tivi ở phòng tiếp khách được lắp truyền hình cáp, phục vụ nhu cầu giải trí cho công nhân sau giờ làm việc.
Khu chăn nuôi bao gồm nhiều hạng mục thiết yếu như nhà tắm sát trùng, nhà ăn và nghỉ trưa cho công nhân, kho chứa cám và thuốc thú y Ngoài ra, còn có dãy chuồng cách ly cho lợn hậu bị, phòng pha chế tinh, chuồng mang thai, chuồng lợn đẻ, chuồng lợn thịt và khu vực xử lý phân.
- Hệ thống chuồng trại được quy hoạch bố trí xây dựng bao gồm:
Chuồng bầu được thiết kế với hai dãy chuồng, tổng cộng 217 ô, mỗi ô dành cho lợn nái bầu có kích thước 2,4 m × 0,65 m, và 6 ô cho lợn đực giống với kích thước 4 m × 5 m Thiết kế chuồng nái bầu giúp tiết kiệm diện tích, chỉ cần không gian đủ cho lợn nái đẻ nằm và di chuyển tiến lùi mà không thể quay đầu Mỗi ô được trang bị máng ăn và vòi uống nước tự động cho từng con.
Chuồng đẻ được thiết kế gồm hai dãy với 56 ô kích thước 2,4 m × 1,6 m/ô, bao gồm khu vực riêng cho lợn mẹ và lợn con nhằm ngăn chặn hiện tượng lợn mẹ đè lên lợn con Bên cạnh đó, có khu vực tập ăn riêng để bổ sung thức ăn sớm cho lợn con Chuồng được chia thành hai khu vực rõ rệt, với lợn nái nằm và di chuyển ở giữa, có khung khống chế Lợn mẹ có máng ăn và vòi uống nước tự động, cùng với các thanh chắn có độ cao hợp lý Hai bên khu vực lợn nái nằm là nơi lợn con hoạt động, với nền chuồng của lợn con được thiết kế bằng nhựa và nền chuồng của lợn mẹ bằng đan bê tông.
Chuồng lợn thịt được thiết kế với tổng cộng 44 ô, mỗi ô có kích thước 6 m × 7 m, cho phép nuôi từ 35 đến 40 con lợn thịt trong mỗi ô rộng khoảng 42 m² Thiết kế chuồng có nền dốc tốt giúp thoát nước dễ dàng, đồng thời trang bị máng ăn tự động đảm bảo tất cả lợn đều có thể tiếp cận thức ăn theo tiêu chuẩn Ngoài ra, mỗi ô còn được lắp đặt 5 vòi uống nước tự động, phục vụ nhu cầu nước uống của lợn.
Mỗi dãy chuồng lợn thịt được thiết kế với một ô rộng từ 8 đến 10 m² ở cuối dãy, gần quạt thông gió, nhằm phục vụ cho việc chứa các con lợn bệnh trong quá trình điều trị.
1 chuồng cách ly nái hậu bị và đực giống với tổng 10 ô chuồng có kích thước là 3 m × 4 m/ô.
Phòng pha tinh của trại được trang bị đầy đủ các dụng cụ hiện đại như máy đếm mật độ tinh trùng, kính hiển vi, thiết bị cảm ứng nhiệt, dụng cụ đóng liều tinh, nồi hấp cách thủy và nhiều thiết bị khác, nhằm đảm bảo quy trình pha tinh diễn ra hiệu quả và chính xác.
Trong khu chăn nuôi, các lối đi giữa các ô chuồng và các khu vực khác được lát bê tông, đảm bảo vệ sinh và an toàn Trước mỗi cửa chuồng đều có chậu sát trùng để kiểm soát dịch bệnh Mỗi khu chuồng riêng biệt được trang bị bể vôi sống, góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi.
Tổng quan tài liệu và những kết quả nghiên cứu trong, ngoài nước có liên
2.2.1.1 Sự thành thục về tính và thể vóc * Sự thành thục về tính
Tuổi thành thục về tính là giai đoạn mà động vật bắt đầu có phản xạ tính dục và khả năng sinh sản Khi gia súc đạt đến độ tuổi này, bộ máy sinh dục của chúng phát triển hoàn thiện, dẫn đến sự xuất hiện các phản xạ sinh dục Con cái sẽ có hiện tượng động dục, trong khi con đực sẽ thể hiện phản xạ giao phối.
Sự thành thục về tính của lợn sớm hay muộn phụ thuộc vào: giống, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, khí hậu, chuồng trại
Các giống vật nuôi khác nhau có thời gian thành thục tính cách khác nhau Những giống được thuần hóa sớm thường đạt độ thành thục sớm hơn so với những giống thuần hóa muộn Đồng thời, những giống có kích thước nhỏ cũng thường thành thục nhanh hơn so với những giống có kích thước lớn.
Theo nghiên cứu của ông Phạm Hữu Doanh và cộng sự (2003), tuổi động dục đầu tiên ở lợn nội như lợn Ỉ và Móng Cái rất sớm, từ 4 - 5 tháng tuổi khi khối lượng đạt từ 20 - 25 kg Trong khi đó, lợn nái lai có tuổi động dục muộn hơn, bắt đầu từ 6 tháng tuổi với khối lượng cơ thể 50 - 55 kg Đối với lợn ngoại, tuổi động dục lại muộn hơn so với lợn lai, thường từ 6 - 7 tháng khi khối lượng đạt 60 - 80 kg Tuổi động dục lần đầu phụ thuộc vào giống, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý.
(121 - 158 ngày tuổi) các giống lợn ngoại (Yorkshire, Landrace) có tuổi động dục lần đầu muộn hơn từ 7 - 8 tháng tuổi.
Chế độ dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính của lợn cái, theo nghiên cứu của John Nichl (1992) Những lợn được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thường đạt tuổi thành thục sớm hơn so với những lợn sống trong điều kiện dinh dưỡng kém Cụ thể, lợn nái được nuôi trong môi trường dinh dưỡng tốt có thể đạt độ tuổi thành thục trung bình vào khoảng 188,5 ngày.
Sự phát triển và thành thục về tính ở động vật có thể bị ảnh hưởng bởi chế độ dinh dưỡng Cụ thể, nếu một cá thể 6 tháng tuổi nặng 80 kg bị hạn chế cám, sự thành thục có thể xảy ra vào ngày 234, tức là sau 7 tháng tuổi, với khối lượng cơ thể giảm xuống còn 48,4 kg Dinh dưỡng thiếu hụt có thể làm chậm quá trình này do ảnh hưởng tiêu cực đến tuyến yên và sự tiết hormone hướng dục Ngược lại, dinh dưỡng thừa cũng gây hại, khi tích tụ mỡ quanh buồng trứng và cơ quan sinh dục, làm giảm chức năng của chúng Hơn nữa, tình trạng béo phì có thể tác động xấu đến các hormone estrogen và progesterone trong máu, khiến nồng độ cần thiết để thúc đẩy sự thành thục không đạt yêu cầu.
Mùa vụ và thời kỳ chiếu sáng có ảnh hưởng lớn đến tuổi động dục của lợn nái hậu bị Trong mùa hè, lợn nái thường thành thục chậm hơn so với mùa thu - đông, điều này có thể do nhiệt độ cao trong chuồng nuôi làm giảm mức tăng trọng Những con lợn được chăn thả tự do thường xuất hiện thành thục sớm hơn khoảng 14 ngày vào mùa xuân và 17 ngày vào mùa thu so với những con nuôi nhốt Vào mùa đông, thời gian chiếu sáng trong ngày thấp hơn, dẫn đến việc bóng tối làm chậm quá trình thành thục so với các mùa khác, đặc biệt là khi có sự biến động ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo chỉ 12 giờ mỗi ngày.
- Tuổi thành thục về tính của gia súc:
Tuổi thành thục về tính của động vật thường đến sớm hơn so với tuổi thành thục về thể vóc, có nghĩa là sau khi đạt độ thành thục về tính, động vật vẫn tiếp tục phát triển về kích thước Ông Phạm Hữu Doanh và cộng sự (2003) khuyến cáo không nên cho phối giống ở lần động dục đầu tiên, vì lúc này cơ thể chưa phát triển đầy đủ và chưa tích lũy đủ chất dinh dưỡng để nuôi thai, trứng cũng chưa chín hoàn toàn Để đạt hiệu quả sinh sản tốt và duy trì giống cái lâu bền, cần bỏ qua 1-2 chu kỳ động dục đầu tiên trước khi cho phối giống.
* Sự thành thục về thể vóc
Theo ông Nguyễn Đức Hùng và cộng sự (2003), tuổi thành thục về thể vóc là giai đoạn mà ngoại hình và thể chất của lợn đạt mức độ hoàn chỉnh và ổn định Thời điểm này thường đến muộn hơn so với tuổi thành thục về tính, được đánh dấu bởi hiện tượng động dục lần đầu Trong giai đoạn lợn thành thục về tính, nếu cho giao phối ngay sẽ không tốt, vì cơ thể mẹ chưa đủ điều kiện để phát triển bào thai, dẫn đến chất lượng con non kém và nguy cơ khó đẻ do xương chậu còn hẹp Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất sinh sản của lợn nái sau này Vì vậy, không nên cho phối giống quá sớm; lợn cái nội nên được phối khi đạt 7 - 8 tháng tuổi và trọng lượng 40 - 50 kg, trong khi lợn ngoại nên được phối khi đạt 8 - 9 tháng tuổi và trọng lượng 100 kg.
120 kg mới nên cho phối.
Chu kỳ động dục là một quá trình sinh lý phức tạp diễn ra sau khi cơ thể phát triển hoàn thiện, không có bào thai và bệnh lý Trong buồng trứng, quá trình phát triển của noãn bao, noãn bao thành thục, trứng chín và thải trứng diễn ra đồng thời Bên cạnh đó, cơ quan sinh dục và toàn bộ cơ thể trải qua nhiều biến đổi về hình thái và chức năng sinh lý Tất cả những biến đổi này lặp lại theo chu kỳ, tạo nên đặc điểm của chu kỳ động dục.
Theo nghiên cứu của ông Nguyễn Thiện và cộng sự (1993), chu kỳ tính của lợn nái thường kéo dài từ 19 đến 21 ngày Thời gian động dục của lợn nội khoảng 3 - 4 ngày, trong khi lợn lai và lợn ngoại có thời gian động dục từ 4 - 5 ngày Chu kỳ này được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn trước khi chịu đực, giai đoạn chịu đực và giai đoạn sau chịu đực.
Trước khi lợn nái chịu đực, chúng sẽ phát ra tiếng kêu rít và có dấu hiệu âm hộ xung huyết, nhưng chưa được phối giống Thời gian rụng trứng của lợn ngoại và lợn nái lai dao động từ 35 đến 40 giờ, trong khi lợn nội có thời gian rụng trứng ngắn hơn, từ 25 đến 30 giờ.
Trong giai đoạn chịu đực, lợn thường có biểu hiện kém ăn, lờ đờ và đứng yên khi có tác động lên lưng gần mông Âm hộ của lợn sẽ giảm độ sưng, kèm theo sự tiết ra nước nhờn dính và đục Lợn sẽ đứng yên khi có đực đến gần và cho phép đực nhảy Giai đoạn này kéo dài khoảng 2 ngày, và nếu được phối giống đúng thời điểm, lợn sẽ thụ thai; trong khi đó, lợn nội có thời gian chịu đực ngắn hơn, chỉ từ 28 đến 30 giờ.
- Giai đoạn sau chịu đực: lợn trở lại bình thường, âm hộ giảm độ nở, đuôi cụp và không chịu đực.
* Thời điểm phối giống thích hợp
Theo nghiên cứu của ông Nguyễn Thiện và cộng sự (1993), trứng rụng chỉ tồn tại trong tử cung từ 2 - 3 giờ, trong khi tinh trùng có thể sống trong âm đạo lợn cái từ 30 - 48 giờ Thời điểm phối giống lý tưởng cho lợn nái ngoại và lợn nái lai là vào chiều ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4 sau khi bắt đầu động dục Đối với lợn nái nội, thời điểm tốt nhất là vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 do thời gian động dục ngắn hơn Thời điểm phối giống có ảnh hưởng quan trọng đến tỷ lệ đậu thai và chất lượng con Phối giống quá sớm hoặc quá muộn đều dẫn đến kết quả kém, vì vậy cần thực hiện nhảy kép hoặc thụ tinh nhân tạo kép vào thời điểm tối ưu.
2.2.1.3 Quá trình mang thai và đẻ
Sau khoảng 3 ngày di chuyển từ ống dẫn trứng xuống tử cung, hợp tử tìm vị trí thích hợp để làm tổ và hình thành bào thai Trong giai đoạn mang thai, progesterone tăng nhanh trong 10 ngày đầu, đạt đỉnh vào ngày thứ 20, sau đó giảm nhẹ trong 3 tuần đầu và duy trì ổn định để hỗ trợ thai nhi, nhưng giảm đột ngột 1-2 ngày trước khi sinh Estrogen duy trì ở mức thấp trong suốt thai kỳ, bắt đầu tăng dần khoảng 2 tuần trước khi sinh và đạt mức cao nhất vào thời điểm sinh (Trần Thanh Vân và cs, 2017).
Theo ông Trần Văn Phùng và cs, (2004) [13] cho biết: thời gian có chửa của lợn nái bình quân là 114 ngày (113 - 116 ngày), chia làm 2 thời kỳ:
- Thời kỳ chửa kỳ 1: là thời gian lợn có chửa 84 ngày đầu tiên.
Thời kỳ chửa kỳ 2: là thời gian lợn chửa từ ngày thứ 85 đến khi đẻ.
2.2.1.4 Sự tiết sữa của lợn nái
Quá trình tiết sữa của lợn nái là một phản xạ được kích thích bởi sự tác động vào đầu vú, với phản xạ này diễn ra nhanh chóng và chuyển từ trước ra sau Yếu tố thần kinh đóng vai trò quan trọng trong quá trình này; khi lợn con thúc vú, các kích thích sẽ được truyền lên vỏ não và vào vùng hypothalamus, dẫn đến việc tuyến yên sản sinh ra oxytocin Hormone này sẽ được tiết vào máu, kích thích lợn nái tiết sữa Sự khác biệt trong nồng độ oxytocin trong máu cũng dẫn đến sự khác nhau về sản lượng sữa giữa các tuyến vú, với các tuyến ở phần ngực tiết nhiều sữa hơn so với các tuyến ở phần sau.
Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước
2.3.1 Tổng quan các nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng kết về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con.
Theo nghiên cứu của ông Phạm Sỹ Lăng và cộng sự (2003), bệnh viêm tử cung ở lợn mẹ thường do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus gây ra Những vi khuẩn này có thể lây nhiễm từ lợn con qua cuống rốn, đặc biệt trong các trường hợp đẻ khó, sát nhau, hoặc sảy thai Ngoài ra, việc sử dụng dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng cũng có thể gây xây xát, tạo điều kiện cho các ổ viêm nhiễm phát triển trong tử cung và âm đạo.
Theo ông Nguyễn Xuân Bình (2005), nái bị viêm tử cung thường có triệu chứng sốt theo quy luật sáng chiều, với sốt nhẹ vào buổi sáng và sốt nặng vào buổi chiều.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), khi gia súc mắc bệnh viêm tử cung thể viêm cơ hoặc viêm tương mạc, không nên thụt rửa bằng chất sát trùng với thể tích lớn Việc này có thể làm nặng thêm tình trạng do cơ tử cung co bóp yếu, khiến các chất bẩn không được đẩy ra ngoài Các tác giả khuyến nghị sử dụng oxytoxin kết hợp với PGF2α hoặc kháng sinh để điều trị toàn thân và cục bộ.
Theo ông Phạm Hữu Doanh và cộng sự (2003), trước khi lợn nái đẻ, cần thực hiện các bước như xoa vú và tắm cho nái Sau khi lợn con ra đời, nên cho con bú ngay trong vòng 1 giờ và cắt răng nanh của lợn con Để giảm sưng và sốt, có thể chườm nước đá vào bầu vú Ngoài ra, việc tiêm kháng sinh Penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10 ml nước cất quanh vú là cần thiết Nếu có nhiều vú bị viêm, nên pha loãng liều thuốc với 20 ml nước cất và tiêm xung quanh các vú bị viêm trong 3 ngày liên tiếp.
Theo nghiên cứu của Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), bệnh viêm đường sinh dục ở lợn có tỷ lệ cao từ 30-50% Trong đó, viêm cơ quan bên ngoài chiếm 20%, trong khi viêm tử cung chiếm 80%.
Viêm tử cung là một bệnh lý phổ biến ở gia súc cái sau khi sinh, gây rối loạn sinh sản và có thể dẫn đến mất khả năng sinh sản (Trần Tiến Dũng và cs, 2002) Trong thời gian mang thai, lợn cần nhiều chất dinh dưỡng và ít vận động, nhưng nếu bị nhiễm các bệnh truyền nhiễm như bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis) hay bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis), sức khỏe của lợn nái sẽ bị ảnh hưởng, dẫn đến tình trạng sảy thai, đẻ non và thai chết lưu, từ đó làm tăng nguy cơ viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu và cs, 2004).
Bệnh viêm tử cung ở nái chủ yếu do các yếu tố như dinh dưỡng thiếu hụt, chăm sóc và quản lý không tốt, vệ sinh kém, tiểu khí hậu chuồng nuôi không đảm bảo, tuổi tác, số lần đẻ, tình trạng sức khỏe, ảnh hưởng của kích dục tố, và nhiễm trùng sau khi sinh Để phòng ngừa bệnh viêm tử cung, cần chú trọng đến việc cải thiện dinh dưỡng, nâng cao quản lý và vệ sinh chuồng trại, đồng thời theo dõi sức khỏe của nái một cách chặt chẽ.
Staphylococcus và Streptococcus là những vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể lợn nái do các nguyên nhân như lợn con có răng nanh làm xây xát vú mẹ Khi lợn nái sản xuất nhiều sữa nhưng con bú không hết, sữa bị ứ đọng tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển và gây viêm vú Ngoài ra, việc lợn nái cho con bú chỉ một hàng vú trong khi hàng còn lại bị căng sữa quá mức cũng dẫn đến tình trạng viêm.
2.3.2 Tổng quan các nghiên cứu ngoài nước
Ngành chăn nuôi lợn trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ với việc đầu tư vào cải thiện chất lượng giống và áp dụng các công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất Tuy nhiên, bệnh viêm đường sinh dục vẫn là một thách thức lớn cần được giải quyết, đặc biệt trong chăn nuôi lợn nái sinh sản Mặc dù nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các biện pháp giảm thiểu bệnh này, tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục trên đàn lợn nái vẫn còn cao.
Viêm tử cung thường xảy ra trong quá trình sinh nở do nhiễm khuẩn E.coli gây dung huyết và các vi khuẩn gram dương Theo nghiên cứu của U.K Urban (1983), nguồn gốc của các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung thường từ nước tiểu, và các tác giả đã phân lập vi khuẩn từ mẫu nước tiểu của lợn nái sắp sinh, cho thấy sự hiện diện của các loại vi khuẩn này.
E.coli, Staphylococcus aureus, Streptococcus spp Tuy nhiên, các nghiên cứu của các tác giả khác lại ghi nhận các vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung là các vi khuẩn cơ hội thuộc nhóm vi sinh vật hiếu khí có mặt ở nền chuồng, lúc lợn nái sinh cổ tử cung mở, vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh Do đó theo Smith B.B (1995) , Taylor D.J (1995), tăng cường vệ sinh chuồng trại, vệ sinh thân thể lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc phòng ngừa nhiễm trùng sau khi sinh Winson khi mổ khám những lợn vô sinh đã xác định được nguyên nhân do cơ quan sinh sản là 52,5%, lợn nái đẻ lứa đầu là 32,1%, lợn nái cơ bản có những biến đổi bệnh lý: viêm vòi tử cung có mủ. Ở Pháp các tác giả Pierre brouillt và Bernarrd faroult (2003) đã nghiên cứu và kết luận: điều trị bệnh viêm vú trong thời kỳ cho sữa là một yếu tố cơ bản trong khống chế bệnh viêm vú Nó phải được tiến hành sớm và đạt kết quả, xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà phải tính đến các chỉ tiêu chăn nuôi và có thể dựa vào các kết quả của 30 phòng thí nghiệm Sự hiểu biết đầy đủ các phương pháp điều trị, nhất là về dược lực học và dược động học cho phép đáp ứng tốt hơn cách điều trị.
Nghiên cứu của A.V Trekaxova (1983) về điều trị viêm vú ở lợn nái đã chỉ ra rằng việc kết hợp phong bế bằng Novocain và điều trị bằng kháng sinh mang lại hiệu quả cao Cụ thể, tác giả sử dụng dung dịch Novocain 0,5% với liều lượng từ 30-40ml cho mỗi túi vú, tiêm sâu từ 8-10cm vào mỗi thuỳ vú bị bệnh Bên cạnh đó, dung dịch Novocain còn được bổ sung thêm 100-200 ngàn đơn vị Penicillin hoặc kháng sinh khác Đồng thời, lợn nái cũng được tiêm bắp loại kháng sinh tương tự trong Novocain với liều lượng từ 400-600 đơn vị, thực hiện 2-3 lần mỗi ngày.