Khái quát trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
Khái niệm, đặc điểm tổn thất về tinh thần
Thứ nhất, khái niệm TTVTT:
Theo Từ điển Tiếng Việt, “tổn thất” có nghĩa là “sự mất mát, hư hao, thiệt hại lớn” và “tinh thần” là “những ý nghĩ, tình cảm, những hoạt động thuộc về nội tâm của con người” Từ đó, TTVTT được hiểu là sự đau thương, buồn phiền và mất mát về tình cảm mà con người phải chịu đựng Hiện nay, pháp luật chưa có định nghĩa cụ thể về TTVTT, dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau từ các tác giả Một tác giả cho rằng TTVTT không chỉ là sự tổn thất của cá nhân mà còn mở rộng ra tổn thất về tâm trạng và tín nhiệm xã hội đối với các tổ chức và pháp nhân, khi mà các chủ thể này gặp khó khăn trong hoạt động hàng ngày do bị suy giảm tôn trọng.
Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, TTVTT được định nghĩa là nỗi đau thương, buồn phiền và mất mát về tình cảm, cũng như sự suy giảm hoặc mất đi lòng tin, sự tín nhiệm từ bạn bè do bị hiểu lầm Điều này xảy ra khi cá nhân hoặc tổ chức bị xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ hai, đặc điểm TTVTT:
+ TTVTT là thiệt hại phi vật chất, không mang tính chất kinh tế và tài sản, không thể tính thành tiền, không thể cân, đong, đo đếm;
TTVTT để lại những dấu ấn tâm lý sâu sắc và khó phai trong trí nhớ của nạn nhân, gây ra những rối loạn tâm lý và ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của họ.
1 Nguyễn Văn Xô (chủ biên) (2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh niên (tái bản lần V), tr 757
2 Nguyễn Văn Xô (chủ biên), tlđd (01), tr 739
3 Trích theo Nguyễn Thị Thơm (2011), Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần trong pháp luật Việt
Nam, Khoá luận tốt nghiệp cử nhân luật, Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr 8 – 9
TTVTT (Tổn thất do thiệt hại vật chất) phát sinh khi có sự xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể Sự xâm phạm này có thể xảy ra từ hành vi của con người hoặc từ các nguồn nguy hiểm như súc vật, cây cối, nhà cửa, và công trình xây dựng, tất cả đều được gọi chung là do tài sản gây ra.
Khi quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân hoặc tổ chức bị xâm phạm, có thể gây ra thiệt hại về vật chất, dẫn đến tình trạng tranh chấp và kiện tụng.
“TTVTT có thể tồn tại khi không có thiệt hại về vật chất” 4
Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và uy tín là quyền dân sự được pháp luật công nhận và bảo vệ Khi quyền này bị xâm phạm, cá nhân hoặc tổ chức có thể tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền can thiệp theo các biện pháp dân sự quy định tại Điều 9 BLDS 2005 Trong số đó, biện pháp buộc bồi thường thiệt hại được xem là cách hiệu quả nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể bị xâm phạm.
Theo Điều 307 BLDS 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm bồi thường thiệt hại về vật chất và bồi thường thiệt hại tinh thần Điều luật đã quy định rõ ràng khái niệm bồi thường thiệt hại về vật chất tại khoản 2, trong khi đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại tinh thần chưa được định nghĩa cụ thể mà chỉ đưa ra quy định chung về căn cứ phát sinh và cách thức yêu cầu bồi thường từ chủ thể gây thiệt hại.
Người gây thiệt hại tinh thần cho người khác qua việc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín cần phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi và cải chính công khai Bên cạnh đó, họ còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất tinh thần cho nạn nhân.
Chương XXI của Bộ luật Dân sự 2005 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có các điều luật liên quan đến quyền bồi thường cho người bị thiệt hại Cụ thể, Điều 609 quy định về bồi thường thiệt hại liên quan đến sức khỏe, Điều 610 quy định về bồi thường thiệt hại đối với tính mạng, và Điều 611 đề cập đến việc bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín Những quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân khi bị xâm phạm.
628) Do đó, có thể xem trách nhiệm BTTTVTT là một nội dung của trách nhiệm BTTHNHĐ
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực truyền thông thể thao bao gồm việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi và cải chính công khai, đồng thời còn phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bên bị ảnh hưởng.
4 Đỗ Văn Đại (2008), “Bồi thường thiệt hại về tinh thần trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Toà án nhân dân, (16), tr 16 – 17
Khoản tiền bù đắp TTVTT được quy định nhằm bồi thường cho những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và thi thể của người khác Mục đích của khoản tiền này là hạn chế và khắc phục một phần thiệt hại tinh thần cho nạn nhân.
Thứ hai, đặc điểm trách nhiệm BTTTVTT:
+ Là một nội dung của trách nhiệm BTTHNHĐ;
Trách nhiệm phát sinh khi có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và thi thể của cá nhân hoặc tổ chức, dẫn đến những thiệt hại về tinh thần và vật chất.
+ Trách nhiệm BTTTVTT không thể khôi phục lại tình trạng ban đầu của tinh thần, tức là không thể khắc phục toàn bộ thiệt hại về tinh thần;
+ Trách nhiệm BTTTVTT bao gồm: buộc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường một khoản tiền để bù đắp TTVTT.
Sơ lược tiến trình phát triển các qui định pháp luật về trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần ở Việt Nam
Trước năm 1945
Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn, bắt đầu từ nhà nước Văn Lang – Âu Lạc cho đến các triều đại phong kiến như Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ Pháp luật trong thời kỳ này phát triển cả về hình thức lẫn nội dung, với sự xuất hiện của luật thành văn bên cạnh các tập quán và luật tục Các quy định chủ yếu điều chỉnh các quan hệ xã hội mới, tập trung vào lĩnh vực hình sự, trong khi lĩnh vực dân sự chủ yếu liên quan đến quyền sở hữu, hợp đồng, thừa kế và hôn nhân gia đình Tuy nhiên, không có quy định về bảo vệ thông tin cá nhân trong giai đoạn này.
Trong thời kỳ nhà Lê và nhà Nguyễn (1428-1884), các văn bản pháp luật đã được ban hành để quy định trách nhiệm dân sự liên quan đến hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân Một ví dụ điển hình là các quy định trong Lê triều Hình luật, còn được biết đến với tên gọi Quốc triều Hình luật hay Luật Hồng Đức.
Lê và Hoàng Việt luật lệ dưới thời nhà Nguyễn
Nghiên cứu Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ cho thấy không có sự phân định rõ ràng giữa hình luật và dân luật, dẫn đến chế định trách nhiệm dân sự trở nên tản mạn và không đầy đủ Hai Bộ luật này chỉ nêu ra hai vấn đề chính: các yếu tố phát sinh trách nhiệm dân sự và việc bồi thường thiệt hại Đặc biệt, cả hai Bộ luật đều không đề cập đến chế định bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân.
Thuật ngữ “TTVTT” liên quan đến mức bồi thường và các trường hợp được bồi thường khi có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác Qua một số điều luật cụ thể, việc bồi thường TTVTT đã được gián tiếp thừa nhận và áp dụng, nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên bị thiệt hại.
Trong Quốc triều Hình luật, Điều 472 quy định rằng khi quan chức bị thương, người gây ra thiệt hại không chỉ phải bồi thường thương tích mà còn phải trả thêm tiền tạ Tương tự, Điều 473 về lăng mạ quan chức và Điều 474 về hành vi đánh người trong hoàng tộc cũng yêu cầu khoản tiền tạ bên cạnh mức phạt tiền.
“Tạ” là hành động thể hiện sự xin lỗi chân thành đối với người đã phải chịu đựng điều không may “Tiền tạ” thực chất là khoản bù đắp cho các quan lại phong kiến, tùy thuộc vào địa vị xã hội của họ, khi tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín của họ bị xâm phạm Pháp luật phong kiến đã tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội, khi chỉ một số đối tượng như vua và quan lại được bồi thường tiền tạ, trong khi những người khác không được hưởng quyền lợi này Đối với thiệt hại vật chất, pháp luật quy định rõ ràng và áp dụng công bằng cho mọi trường hợp, không phân biệt địa vị xã hội.
Sự bồi thường thiệt hại về tinh thần trong trường hợp từ hôn được quy định cho tất cả mọi người, bao gồm cả trường hợp đã nhận đồ sính lễ nhưng lại thay đổi ý kiến Người thay đổi quyết định không kết hôn sẽ phải bồi thường thiệt hại về danh dự cho bên kia (Điều 315 Quốc triều Hình luật, Điều 94 Hoàng Việt luật lệ) Mặc dù chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại tinh thần, pháp luật phong kiến đã gián tiếp thừa nhận trách nhiệm này, thể hiện sự tiến bộ trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, phù hợp với phong tục và truyền thống văn hóa của người Việt Trong thời kỳ Pháp thuộc (1858-1945), Bộ Dân luật Bắc và Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật cũng đã đưa ra các quy định cụ thể về trách nhiệm dân sự, trong đó thừa nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại tinh thần trong một số trường hợp, như trường hợp từ hôn.
“Điều 71 Dân luật Bắc kỳ và Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật qui định: Bên nào bỏ lời
6 Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí (1995), Quốc triều Hình luật , NXB Tp Hồ Chí Minh, tr 179 – 181
Bộ Tư pháp và Viện nghiên cứu khoa học pháp lí (2008) đã nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV cho đến thời kỳ Pháp thuộc Tài liệu này được xuất bản bởi NXB Chính trị Quốc gia tại Hà Nội, trang 180 – 181.
8 Bộ Tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lí (2008), tlđd (07), tr 181
5 hứa về việc giá thú mà không có duyên cớ chính đáng vì lỗi của bên ấy, thì phải chịu trách nhiệm bồi thường tổn hại” 9
Từ năm 1945 đến trước năm 1995
Sau khi giành độc lập vào ngày 02/09/1945, Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam dân chủ cộng hoà được thông qua, ghi nhận quyền lợi công dân từ Điều 6 đến Điều 16 Tuy nhiên, Hiến pháp 1946 không quy định quyền bồi thường thiệt hại, bao gồm cả bồi thường thiệt hại do Tòa án nhân dân tối cao quy định Đến Hiến pháp năm 1959, quyền bồi thường thiệt hại được công nhận trong trường hợp thiệt hại do hành vi phạm pháp của nhân viên nhà nước tại Điều 29 Ngày 23/03/1972, Thông tư số 173-TANDTC được ban hành, hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại hình sự, nhưng chỉ thừa nhận thiệt hại vật chất mà không đề cập đến bồi thường thiệt hại tinh thần.
Thiệt hại phải được xác định rõ ràng, bao gồm thiệt hại về vật chất như tài sản, chi phí và thu nhập bị giảm sút hoặc mất mát do thiệt hại về tính mạng và sức khỏe Những thiệt hại này cần phải thực sự xảy ra và có thể được tính toán Ngoài ra, thiệt hại đối với hoa màu sắp thu hoạch hoặc súc vật gần đến ngày đẻ cũng có thể được xem xét một cách hợp lý.
Khi Hiến pháp đầu tiên ra đời, pháp luật vẫn chưa công nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, mặc dù đã có những quy định chi tiết về bồi thường khi tài sản, tính mạng và sức khỏe bị xâm phạm Nguyên nhân một phần có thể xuất phát từ bối cảnh lịch sử với chế độ tập trung, quan liêu, bao cấp, cùng nền kinh tế kế hoạch hóa cao, dẫn đến việc phân phối xã hội theo kiểu hiện vật, khiến giá trị tinh thần bị tách rời khỏi mối quan hệ vật chất Do đó, giá trị tinh thần được coi là vô giá, và thiệt hại về tinh thần chỉ được xem như một khái niệm xã hội, không thể dùng tiền để bù đắp hay mua lại.
Hiến pháp 1980 đã mở rộng phạm vi quyền bồi thường thiệt hại so với các bản Hiến pháp trước, nhưng chỉ quy định chung chung mà không phân biệt rõ thiệt hại vật chất hay tinh thần Đến Hiến pháp 1992, hạn chế này đã được khắc phục, khi Điều 72 thừa nhận cụ thể quyền bồi thường thiệt hại về vật chất cho những người bị bắt, bị giam giữ.
9 Bộ Tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lí (2008), tlđd (07), tr 193
10 Tưởng Duy Lượng (2003), “Nguyên tắc tính mức bồi thường do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm”, Tạp chí Toà án nhân dân, (03), tr 9
Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2013) đã xuất bản giáo trình "Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" do NXB Hồng Đức và Hội luật gia Việt Nam phát hành tại Hà Nội, với tổng số trang là 447.
Theo quy định tại Điều 6, những người bị truy tố và xét xử trái pháp luật có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự Điều 74 cũng nêu rõ rằng mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước và quyền lợi hợp pháp của cá nhân phải được xử lý nghiêm minh, đồng thời người bị thiệt hại có quyền được bồi thường và phục hồi danh dự Tuy nhiên, đối với các TTVTT, Hiến pháp chỉ công nhận quyền phục hồi danh dự trong trường hợp danh dự, nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm.
Sau khi giành độc lập và chấm dứt chế độ phong kiến, nước ta đã có những bước tiến đáng kể trong việc xây dựng hệ thống pháp luật, đặc biệt là việc ghi nhận quyền bồi thường thiệt hại trong Hiến pháp, thể hiện sự tôn trọng quyền con người Tuy nhiên, vẫn còn những thiếu sót trong các quy định pháp luật, đặc biệt là việc chưa thừa nhận quyền bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm So với pháp luật phong kiến, đã có những quy định gián tiếp thừa nhận trách nhiệm bồi thường trong một số tình huống nhất định, cho thấy đây là một hạn chế trong giai đoạn này Hạn chế này đã ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục, răn đe và phòng ngừa vi phạm của pháp luật, đặc biệt là trong chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Từ năm 1995 đến nay
Sau khi Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, cùng với sự phát triển của các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ dân sự Để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ dân sự mới phát sinh do quy định pháp luật không còn phù hợp, Quốc hội khóa IX đã thông qua Bộ luật Dân sự (BLDS) tại kỳ họp thứ 8 từ ngày 03 đến 28/10/1995 Đây là lần đầu tiên quyền được bảo vệ thông tin cá nhân được công nhận trong một văn bản pháp lý, thể hiện sự tôn trọng quyền con người của Nhà nước và tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền nhân thân Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần cũng được ghi nhận rõ ràng tại khoản 1 Điều 310 BLDS 1995.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm cả thiệt hại vật chất và tinh thần Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác, thông qua việc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín, không chỉ cần chấm dứt hành vi vi phạm mà còn phải xin lỗi và có biện pháp khắc phục.
7 chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại” (khoản
BLDS 1995 đã thừa nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp cụ thể như thiệt hại sức khỏe (khoản 4 Điều 613), thiệt hại tính mạng (khoản 4 Điều 614) và thiệt hại danh dự, nhân phẩm, uy tín (khoản 3 Điều 615) Tuy nhiên, luật không quy định rõ mức bồi thường và đối tượng được bồi thường, dẫn đến việc đánh giá trách nhiệm bồi thường phụ thuộc vào quan điểm của từng Toà án, gây ra sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Vào ngày 28/4/2004, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP nhằm hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự 1995 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Nghị quyết này đã cụ thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xác nhận sự tồn tại của thiệt hại tại cá nhân và các chủ thể khác, đồng thời quy định mức bồi thường trong từng trường hợp cụ thể và xác định các chủ thể được hưởng khoản bồi thường.
Sau mười năm áp dụng, Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995 đã trở nên không còn phù hợp với tình hình đất nước và sự đa dạng của các quan hệ dân sự Để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh, Quốc hội đã thảo luận và thông qua BLDS 2005 vào ngày 14/6/2005 BLDS 2005 kế thừa các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại tinh thần từ BLDS 1995 và Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP, đồng thời có những điểm mới quan trọng như thừa nhận trách nhiệm bồi thường trong mọi trường hợp vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín Đặc biệt, BLDS 2005 còn ghi nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại tinh thần đối với trường hợp xâm phạm thi thể, điều mà BLDS 1995 chưa đề cập.
Năm 2005, Bộ luật Dân sự đã quy định rõ mức bồi thường và đối tượng được bồi thường trong các trường hợp xâm phạm tại các Điều 609, 610, 611, 628 Để hướng dẫn chi tiết các quy định này, ngày 08/7/2006, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, nhằm hướng dẫn các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nội dung tương tự như Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP và phù hợp với Bộ luật Dân sự 2005.
12 Xem Phần II Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP
Trong lĩnh vực bồi thường của Nhà nước, các quy định pháp luật đã tồn tại từ lâu nhưng thường bị phân tán trong nhiều văn bản khác nhau Theo Điều 72 của Hiến pháp 1992, “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại vật chất và phục hồi danh dự” Điều này nhấn mạnh quyền lợi của cá nhân trong việc được bồi thường khi bị xâm phạm quyền lợi hợp pháp.
Năm 1995, Điều 623 và 624 quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, tiếp theo là Nghị định 47/CP ngày 03/5/1997 quy định về việc giải quyết và bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức Nhà nước và người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra Đến ngày 17/3/2003, Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH11 đã được ban hành để tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến vấn đề này.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã cụ thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho những người bị oan do các cơ quan tố tụng hình sự gây ra theo Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH11 Tiếp theo, Bộ luật Dân sự 2005 cũng ghi nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan Nhà nước tại các Điều 619 và 620.
Việc ghi nhận và giải quyết bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực tố tụng hình sự, đặc biệt là trường hợp oan theo Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH11, vẫn gặp nhiều khó khăn Tỷ lệ đơn yêu cầu bồi thường được chấp nhận khá thấp, và tỷ lệ giải quyết xong bồi thường còn thấp hơn Sự không nhất quán và chồng chéo trong các quy định của các văn bản pháp luật khác nhau đã dẫn đến hiệu lực pháp lý thấp, gây khó khăn trong việc áp dụng hiệu quả trong thực tiễn.
Các quy định pháp lý hiện có về trách nhiệm bồi thường chưa được triển khai hiệu quả trong thực tiễn, chủ yếu do việc xác định trách nhiệm bồi thường vẫn chỉ tập trung vào cơ quan quản lý và người thi hành công vụ, mà chưa nhìn nhận trách nhiệm này thuộc về Nhà nước nói chung.
Ngày 18/6/2009, Quốc hội đã thông qua Luật TNBTCNN, nhằm thiết lập một cơ sở pháp lý thống nhất cho việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại Luật này quy định rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự của Nhà nước.
Trong suốt các thời kỳ, quy định pháp luật về bảo vệ thông tin và tài sản trí tuệ (BTTTVTT) đã không ngừng phát triển, đồng bộ với xu thế toàn cầu Vấn đề BTTTVTT cũng đã được công nhận trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, đặc biệt tại điểm b khoản 1 Điều 204 của Luật Sở hữu trí tuệ.
Dương Anh Sơn và Nguyễn Văn Quang (2008) trong bài viết "Luật bồi thường Nhà nước: Một số ý kiến về phạm vi điều chỉnh và thủ tục bồi thường" đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lí đã đưa ra những quan điểm quan trọng về các khía cạnh của luật bồi thường Nhà nước, nhấn mạnh sự cần thiết phải xác định rõ phạm vi điều chỉnh và quy trình bồi thường để đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả trong việc thực thi pháp luật.
Nguyễn Thị Hoài Phương (2010) trong bài viết “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự của Nhà nước ở Việt Nam – nhìn từ góc độ bảo đảm quyền con người” đã phân tích trách nhiệm của Nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại dân sự, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền con người trong hệ thống pháp luật Việt Nam Bài viết được đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lí, số 02, trang 41.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
Phải có hành vi trái pháp luật
Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, hành vi trái pháp luật được định nghĩa là những hành động hoặc sự không hành động cụ thể của con người vi phạm các quy định của pháp luật.
Như vậy, để được xem là hành vi trái pháp luật thì hành vi đó phải hội đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, phải là “những xử sự cụ thể của con người”
Cần xem xét liệu TTVTT có phải do hành vi cụ thể của con người gây ra hay không, vì pháp luật chỉ điều chỉnh những hành vi đã được bộc lộ ra bên ngoài, không điều chỉnh các "hành vi" còn trong ý tưởng hay suy nghĩ của chủ thể Do đó, hành vi trái pháp luật chỉ có thể là những hành vi được thể hiện ra bên ngoài qua những "biểu hiện" nhất định.
Hành vi của con người có thể được thể hiện qua hành động hoặc không hành động Hành động gây thiệt hại có thể tác động trực tiếp đến nạn nhân hoặc gián tiếp thông qua công cụ gây hại Không hành động cũng là một hình thức gây thiệt hại, làm thay đổi trạng thái bình thường của đối tượng bị tác động, dẫn đến thiệt hại cho khách thể khi chủ thể không thực hiện nghĩa vụ pháp lý mặc dù đủ điều kiện.
Thứ hai, tính trái pháp luật của hành vi
Trước khi BLDS được ban hành thì Thông tư số 173-TANDTC thừa nhận:
Hành vi trái pháp luật được hiểu rộng rãi không chỉ là vi phạm pháp luật mà còn bao gồm vi phạm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như quy tắc sinh hoạt xã hội Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, tính trái pháp luật của hành vi được xác định là “trái với các quy định của pháp luật”, tức là vi phạm các quy định trong hệ thống pháp luật như hành chính, hình sự hay dân sự Tuy nhiên, hành vi trái pháp luật không tự động bao gồm các vi phạm đối với đường lối, chính sách của Đảng và quy tắc xã hội, mà chỉ khi các yếu tố này được quy định rõ ràng trong pháp luật.
Theo Đỗ Văn Đại (2014) trong tác phẩm "Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án", NXB Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh (xuất bản lần 2), trang 60, nội dung liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được phân tích và bình luận chi tiết.
17 Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên) (2014), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư pháp, tr.748 – 749
11 chính sách của Đảng được thể chế hoá thành pháp luật thì hành vi vi phạm mới được xem là hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật là yếu tố chính phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bao gồm các hành động cụ thể của con người vi phạm quy định pháp luật Những hành vi này xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và thi thể của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ.
Phải có thiệt hại xảy ra
Theo khoản 1 Điều 604 BLDS 2005, để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cần phải có thiệt hại xảy ra Cụ thể, người có lỗi cố ý hoặc vô ý gây ra thiệt hại thì phải có nghĩa vụ bồi thường.
Căn cứ vào "có thiệt hại xảy ra" là điều kiện tiên quyết cho trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại tinh thần, hành vi trái pháp luật phải gây ra những tổn thất tinh thần cho chính nạn nhân hoặc người thân gần gũi của họ.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp có tổn thất vật chất đều được pháp luật công nhận trách nhiệm bồi thường của bên gây thiệt hại Để được bồi thường, tổn thất vật chất cần phải đáp ứng các điều kiện nhất định.
Thứ nhất, TTVTT phải phát sinh từ việc xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp mà pháp luật công nhận được BTTTVTT
Theo quy định tại Điều 609, 610, 611, 628 Bộ luật Dân sự, chỉ những hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và thi thể mới đủ điều kiện được bồi thường thiệt hại.
Ngoài những trường hợp đã đề cập, pháp luật cũng bảo vệ các quyền khác như quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, và quyền được khai sinh, khai tử Những hành vi xâm phạm đến các quyền này có thể dẫn đến những thiệt hại về tinh thần, tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa ghi nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại tinh thần cho những vi phạm này.
Thứ hai, phải có thiệt hại xảy ra
Theo điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP thì:
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân xảy ra khi sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín của họ bị xâm phạm Người bị thiệt hại hoặc những người thân thiết với nạn nhân sẽ phải gánh chịu nỗi đau, buồn phiền và mất mát khi tính mạng của nạn nhân bị đe dọa.
18 Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005 (tập II), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 702
Khi tình cảm bị tổn thương, uy tín giảm sút hoặc bị bạn bè xa lánh do hiểu lầm, người bị ảnh hưởng cần được bồi thường một khoản tiền để bù đắp cho những tổn thất mà họ đã phải chịu đựng.
Thiệt hại do TTVTT của tổ chức, bao gồm cả pháp nhân và các chủ thể không phải là pháp nhân, xảy ra khi danh dự và uy tín của tổ chức bị xâm phạm, dẫn đến sự giảm sút hoặc mất đi tín nhiệm và lòng tin Do đó, tổ chức cần được bồi thường một khoản tiền để bù đắp cho những tổn thất mà họ phải chịu.
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP đã chỉ ra các trường hợp TTVTT có thể xảy ra, nhưng lại không đề cập đến trường hợp thi thể bị xâm phạm, mà Bộ luật Dân sự 2005 đã công nhận trách nhiệm BTTTVTT trong tình huống này.
Tổn thương tinh thần, tình cảm, và sự suy sụp tâm lý là hệ quả nghiêm trọng của việc xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, và nhân phẩm của cá nhân hoặc người thân của họ Hình thức biểu hiện của tổn thương này rất đa dạng, bao gồm sự đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, cũng như sự suy giảm lòng tin và niềm vui trong cuộc sống Những nỗi đau tinh thần này không chỉ kéo dài mà còn có thể dẫn đến những vấn đề về thần kinh, trở thành bệnh lý nghiêm trọng.
Việc đánh giá thiệt hại không chỉ là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà còn là căn cứ để tính mức bồi thường dựa trên mức độ thiệt hại thực tế Tình trạng thiệt hại tinh thần là một vấn đề trừu tượng, không thể đo đếm một cách chính xác từ bên ngoài Do đó, việc đánh giá mức độ thiệt hại tinh thần cần phải dựa vào từng hoàn cảnh cụ thể, tùy thuộc vào đối tượng bị xâm phạm Thiệt hại về tinh thần do xâm phạm sức khỏe và tính mạng sẽ khác với thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín Ngoài ra, các yếu tố như địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ xã hội và mức độ ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội và sinh hoạt cá nhân cũng cần được xem xét.
1.3.3 Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra
Mối quan hệ giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại được xác định dựa trên nguyên tắc nhân quả của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong triết học Mác – Lênin Theo đó, hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước khi thiệt hại diễn ra.
19 Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên) (2014), tlđd (17), tr 748
20 Đỗ Thanh Huyền (2004), “Bồi thường tổn thất về tinh thần”, Tạp chí Toà án nhân dân, tr 31
Phạm Kim Anh (2001) trong bài viết "Về qui định bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam và hướng hoàn thiện" đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lí, đã phân tích các quy định liên quan đến việc bồi thường thiệt hại khi danh dự, nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm Bài viết cũng đề xuất các hướng hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi cá nhân trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thiệt hại phát sinh phải là hệ quả trực tiếp từ hành vi vi phạm pháp luật, và ngược lại, hành vi vi phạm pháp luật chính là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại.
Việc xác định mối quan hệ nhân quả là rất quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chủ thể bồi thường và mức bồi thường Tuy nhiên, đây là một thách thức lớn, vì nhiều trường hợp khó xác định hành vi trái pháp luật nào là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại Mỗi hiện tượng thường là kết quả của nhiều điều kiện và nguyên nhân khác nhau, đồng thời cũng có thể là nguyên nhân của nhiều hiện tượng khác Do đó, hành vi trái pháp luật chỉ được xem là có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại nếu nó là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại hoặc trong những điều kiện nhất định, nó lại là nguyên nhân quyết định đối với thiệt hại xảy ra.
Phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây ra thiệt hại
Theo qui định tại khoản 1, Điều 604 BLDS 2005 thì “người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm (…) mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”
BLDS 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP không quy định rõ về khái niệm “lỗi”, chỉ đề cập đến “lỗi cố ý” và “lỗi vô ý” Do đó, có nhiều quan điểm khác nhau về “lỗi” Một số tác giả cho rằng “lỗi là trạng thái tâm lý, là nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra”.
22 Xem tiểu mục 1.2 mục 1 Phần I Nghị quyết số 03/2006/ NQ-HĐTP
23 Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2013), tlđd (11), tr 451
24 Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2013), tlđd (11), tr 456 – 457
25 Trích theo Phạm Kim Anh (2003), “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự”, Tạp chí Khoa học pháp lí,
Lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý của người gây thiệt hại, bao gồm hai yếu tố chính: lý trí và ý chí Yếu tố lý trí liên quan đến khả năng nhận thức thực tại khách quan, tức là người gây thiệt hại có thể nhận thức được hoặc không nhận thức được khả năng gây thiệt hại của hành vi Yếu tố ý chí thể hiện khả năng điều khiển hành vi, tức là khả năng kiềm chế hành vi gây thiệt hại hoặc thực hiện hành vi khác phù hợp với pháp luật Do đó, một người được coi là có lỗi khi họ nhận thức hoặc có đủ điều kiện để nhận thức tính chất gây thiệt hại của hành vi và có khả năng điều khiển hành vi của mình Để xác định lỗi cố ý hay lỗi vô ý, cần dựa vào thái độ chủ quan và nhận thức lý trí của người gây thiệt hại.
Theo qui định tại tiểu mục 1.4 mục 1 Phần I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP thì lỗi tồn tại dưới hai hình thức:
Cố ý gây thiệt hại xảy ra khi một cá nhân nhận thức rõ rằng hành vi của mình sẽ gây tổn hại cho người khác, nhưng vẫn quyết định thực hiện hành động đó Người này có thể mong muốn gây thiệt hại hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn để cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại xảy ra khi một người không nhận thức được rằng hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại, mặc dù họ có trách nhiệm phải biết hoặc có khả năng nhận thức được điều này Trong một số trường hợp, người đó có thể thấy trước khả năng gây thiệt hại nhưng vẫn cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể được ngăn chặn.
“Lỗi” thể hiện khả năng nhận thức về hành vi và thiệt hại có thể xảy ra Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, người có trách nhiệm bồi thường phải chứng minh không có lỗi để tránh bồi thường, nếu không sẽ bị suy đoán có lỗi khi thực hiện hành vi trái pháp luật Người bị thiệt hại không cần chứng minh lỗi của người gây thiệt hại khi yêu cầu bồi thường Trong những điều kiện nhất định, con người có thể lựa chọn hành vi phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, nhưng nếu họ chọn cách xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, mặc dù có khả năng lựa chọn hành vi không xâm phạm, thì họ phải chịu trách nhiệm.
Cần phân biệt giữa hành vi gây thiệt hại và yếu tố lỗi, vì không phải lúc nào người gây thiệt hại cũng được coi là có lỗi và phải chịu trách nhiệm Ví dụ, một cá nhân có thể thực hiện hành vi gây thiệt hại nhưng không có nghĩa vụ phải dự đoán trước thiệt hại xảy ra, hoặc mặc dù có nghĩa vụ nhưng vẫn không thể thấy trước hậu quả.
26 Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2013), tlđd (18), tr 703 – 704
15 trước nhưng không đủ điều kiện để thấy trước thiệt hại xảy ra thì đây được xem là
Người có hành vi bất ngờ sẽ không bị coi là có lỗi, do đó, theo quy định pháp luật, họ không phải chịu trách nhiệm dân sự Vì vậy, nếu hành vi đó dẫn đến thiệt hại về tài sản, trách nhiệm bồi thường sẽ không phát sinh.
Cần xem xét yếu tố lỗi của người bị thiệt hại; nếu lỗi hoàn toàn thuộc về họ, người gây thiệt hại không phải bồi thường Nếu thiệt hại xảy ra do một phần lỗi của người bị thiệt hại, người gây thiệt hại chỉ cần bồi thường tương ứng với mức độ lỗi của mình.
Người gây thiệt hại, dù có lỗi cố ý hay vô ý, đều phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật Theo Bộ luật Dân sự 2005, ngay cả khi không có lỗi, họ vẫn có nghĩa vụ bồi thường trong một số trường hợp đặc biệt, như thiệt hại do ô nhiễm môi trường, hoặc khi người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại.
Khi xem xét trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật TNBTCNN quy định rằng người bị thiệt hại có quyền được bồi thường trong các hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự (Điều 47) Điều này cho thấy rằng một trong những điều kiện đặc thù để phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là sự thiệt hại xảy ra trong những lĩnh vực cụ thể nêu trên.
Trong quản lý hành chính và thi hành án hình sự, cần có văn bản từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ Điều này thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường theo quy định tại Điều 13 và Điều 39 của Luật, cụ thể là điểm a khoản 1 Điều 6 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Trong tố tụng hình sự, cần có bản án hoặc quyết định từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xác định người bị thiệt hại đủ điều kiện bồi thường theo Điều 26 của Luật TNBTCNN, cụ thể là điểm a khoản 2 Điều 6.
Để phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cần có ba điều kiện cơ bản: hành vi trái pháp luật, thiệt hại xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại Việc đảm bảo các điều kiện này là rất quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường.
Xác định đúng chủ thể bồi thường thiệt hại là yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại được bồi thường kịp thời Điều này giúp ngăn chặn tình trạng thờ ơ và thiếu trách nhiệm từ các cơ quan công quyền, bảo vệ quyền lợi của người dân một cách hiệu quả.
27 Phùng Trung Tập (2004), “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí Toà án nhân dân, (10), tr 3
Theo Điều 29, khi gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho người khác trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường, bất kể người thi hành công vụ có lỗi hay không Tuy nhiên, nếu thiệt hại xảy ra do lỗi của người bị thiệt hại, thì Nhà nước không phải bồi thường Đặc biệt trong trường hợp TTVTT, người thi hành công vụ sẽ bị suy đoán có lỗi, và yếu tố lỗi sẽ là căn cứ để xem xét trách nhiệm hoàn trả của họ đối với ngân sách Nhà nước cho khoản tiền đã bồi thường.
Trường hợp được bồi thường tổn thất về tinh thần
Theo Bộ luật Dân sự năm 2005
1.4.1.1 Trường hợp sức khoẻ bị xâm phạm
Sức khoẻ là tài sản quý giá nhất của mỗi cá nhân, và khi bị tổn hại, việc khôi phục lại trạng thái ban đầu gần như không thể Hầu hết các bộ phận cơ thể không thể tái sinh, do đó, sức khoẻ không thể được đo bằng tiền Việc bồi thường chi phí khắc phục vết thương không thể bù đắp cho những mất mát mà người bị thiệt hại phải chịu, vì họ sẽ mang theo những dấu vết và biến dạng suốt đời Tiền có thể chữa lành vết thương bên ngoài nhưng không thể xoa dịu tổn thương tâm lý Vì vậy, việc bồi thường chi phí vật chất và một khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần cho người bị thiệt hại là hoàn toàn hợp lý.
Theo Điều 609 BLDS 2005, khi sức khỏe bị xâm phạm, người gây thiệt hại không chỉ phải bồi thường thiệt hại vật chất như chi phí chữa trị, bồi dưỡng và phục hồi sức khỏe, mà còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần.
Về mức BTTTVTT , theo qui định trên và tại điểm c tiểu mục 1.5 mục 1 Phần
Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, pháp luật cho phép các bên tự thỏa thuận bồi thường, nhưng lợi ích của họ thường đối lập Bên được bồi thường thường mong muốn nhận số tiền lớn hơn tổn thất thực tế, dẫn đến việc các bên khó đạt được thỏa thuận Khi không đạt được sự đồng thuận, họ phải yêu cầu Tòa án giải quyết Theo quy định pháp luật, mức bồi thường do Tòa án quyết định không vượt quá 30 tháng lương tối thiểu tại thời điểm giải quyết.
29 Phùng Trung Tập (2007), “Nguyên tắc của pháp luật dân sự cần được qui định trong Luật bồi thường Nhà nước”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (08), tr 44
Theo quy định hiện hành, việc xác định khoản tiền bồi thường dựa trên số tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định, cụ thể là mức lương tối thiểu chung áp dụng cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước Mức lương này sẽ thay đổi theo từng thời kỳ và được xác định tại thời điểm giải quyết bồi thường Hiện nay, mức lương tối thiểu chung được thay thế bằng mức lương cơ sở theo Nghị định số 66/2013/NĐ-CP, với mức lương cơ sở tính từ ngày 01/7/2013 là 1.150.000 đồng/tháng Số tháng lương để tính khoản bồi thường TTVTT tối đa không quá 30 tháng, phụ thuộc vào mức độ TTVTT mà người bị thiệt hại phải gánh chịu Mức độ này không dễ dàng xác định, vì người bị thiệt hại có thể trải qua những đau đớn về thể xác và tâm lý, ảnh hưởng đến cuộc sống và hạnh phúc của họ Để đánh giá đúng mức độ TTVTT, cần xem xét nhiều yếu tố, không chỉ dựa vào tỷ lệ thương tích.
Nghị quyết này nhằm xác định mức độ tổn thương tinh thần (TTVTT) của người bị thiệt hại, dựa trên các yếu tố như ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, và sinh hoạt gia đình Mặc dù "sự đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm" do sức khỏe bị xâm phạm là khó định lượng, nhưng có thể đánh giá mức độ TTVTT thông qua các biểu hiện bên ngoài.
Thứ nhất, dựa vào mức độ, tính chất thương tích của người bị thiệt hại
Mức độ thiệt hại về sức khoẻ thường tỷ lệ thuận với mức độ TTVTT, đặc biệt khi gặp phải thương tật vĩnh viễn không thể phục hồi Những người này phải đối mặt với nỗi lo lắng, đau buồn và mặc cảm, có thể kéo dài suốt đời Họ chịu đựng nỗi đau tinh thần lớn hơn nhiều so với những trường hợp chỉ bị thương tích nhẹ, không ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ và khả năng lao động, hoặc những thương tích có thể hồi phục.
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, vai trò của nạn nhân trong gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá thiệt hại Nếu nạn nhân là trụ cột và có thu nhập chính, những tổn thất sẽ tạo ra áp lực tinh thần lớn hơn so với trường hợp nạn nhân không có nghề nghiệp và phụ thuộc vào gia đình.
Mối quan hệ giữa tính chất thương tích và đặc điểm nhân thân của người bị thiệt hại, như độ tuổi, giới tính, vị trí xã hội và nghề nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá tác động của thiệt hại vật chất đến đời sống tinh thần của họ Ví dụ, một cô gái 18 tuổi bị biến dạng khuôn mặt sẽ trải qua nỗi đau và khủng hoảng tâm lý nặng nề hơn so với một người 70 tuổi trong cùng tình huống Tương tự, một nghệ sĩ piano bị tàn phế đôi tay do tai nạn sẽ phải đối mặt với những ảnh hưởng tâm lý nghiêm trọng hơn.
Để xác định mức độ tổn thương tinh thần (TTVTT) và làm căn cứ cho việc tính mức bồi thường, cần xem xét nhiều yếu tố khác nhau như vị trí thương tích, thời gian thiệt hại kéo dài, cũng như tình trạng thể chất và tinh thần của người bị thiệt hại Việc đánh giá khách quan và toàn diện các yếu tố này là rất quan trọng để đưa ra quyết định chính xác.
Về người được bồi thường , theo qui định tại điểm a tiểu mục 1.5 mục 1 Phần
Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, khoản tiền bù đắp thiệt hại về sức khỏe do bị xâm phạm sẽ được bồi thường cho chính người bị thiệt hại Điều này có nghĩa là những người có sức khỏe bị ảnh hưởng sẽ nhận được sự bồi thường hợp lý Tuy nhiên, trong một số trường hợp, những người khác cũng có thể trải qua lo lắng và đau đớn về tinh thần khi sức khỏe của nạn nhân bị xâm phạm.
Người thân gần gũi với những người có sức khỏe bị xâm phạm thường phải chịu đựng tổn thương tinh thần và cảm xúc Chẳng hạn, một người mẹ sẽ cảm thấy đau đớn khi chứng kiến con mình bị tàn phế.
30 Trích theo Đỗ Văn Đại (2008), tlđd (04), tr 15
Phan Thị Hải Anh và Điêu Ngọc Tuấn (2004) đã nghiên cứu về vấn đề xác định thiệt hại trong bồi thường thiệt hại liên quan đến tính mạng và sức khỏe bị xâm phạm Bài viết được đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, số 10, trang 8, cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức đánh giá thiệt hại trong các vụ việc liên quan đến vi phạm quyền sống và sức khỏe của cá nhân.
32 Đỗ Văn Đại (2008), tlđd (04), tr 17
TTVTT của những chủ thể này là có tồn tại, nhưng pháp luật chỉ chấp nhận bồi thường cho chính nạn nhân có sức khoẻ bị xâm phạm
1.4.1.2 Trường hợp tính mạng bị xâm phạm
Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng là quyền nhân thân quan trọng nhất của con người, được Hiến pháp ghi nhận và pháp luật bảo vệ Hành vi xâm phạm tính mạng được coi là nguy hiểm nhất và phải chịu trách nhiệm hình sự cũng như trách nhiệm dân sự, bao gồm bồi thường thiệt hại Thiệt hại không chỉ là số tiền cho tính mạng người chết mà còn bao gồm chi phí mà gia đình nạn nhân phải chi trả và khoản tiền cho những người được nạn nhân cấp dưỡng Theo Điều 610 BLDS 2005, người xâm phạm tính mạng phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, mai táng, và cấp dưỡng cho những người mà nạn nhân có nghĩa vụ cấp dưỡng, cùng với khoản tiền bù đắp thiệt hại tinh thần cho người thân của nạn nhân.
Khi một người qua đời, họ để lại nỗi tiếc thương sâu sắc cho những người thân yêu, và trong một số trường hợp, điều này có thể gây tổn hại đến sức khỏe và dẫn đến khủng hoảng tinh thần, đặc biệt khi chứng kiến cái chết đau đớn của người thân Tuy nhiên, không phải ai cũng trải qua nỗi buồn với cùng mức độ, vì trạng thái tâm lý của mỗi cá nhân là khác nhau.
Việc đánh giá mức độ đau thương và buồn phiền của những người thân thích có thể dựa vào nhiều yếu tố như địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ giữa họ và những người thân, cũng như khả năng lao động của người đó Nếu người bị hại có địa vị quan trọng và mối quan hệ tình cảm gắn bó chặt chẽ với các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là khi họ là lao động chính và trụ cột, thì sự mất mát sẽ mang lại nỗi đau rất lớn cho những người thân gần gũi.
34 Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2013), tlđd (18), tr 722
Theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, tùy thuộc vào tính chất và mức độ vi phạm, các biện pháp xử lý có thể là dân sự, hành chính hoặc hình sự Trong đó, biện pháp dân sự là một trong những cách hiệu quả nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể sở hữu trí tuệ, đặc biệt là yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 204 Luật SHTT Thiệt hại trong trường hợp này bao gồm cả thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần.
52 Xem Điều 32 BLDS 2005; Điều 21, 22 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác năm
Theo Luật Sở hữu trí tuệ, thiệt hại về tinh thần chỉ được thừa nhận đối với một số đối tượng quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, cụ thể được quy định tại Điều 204 Hướng dẫn tại Nghị định số 105/2006/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP chỉ rõ rằng thiệt hại về tinh thần phát sinh từ hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn; và tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng Hậu quả là tác giả hoặc người biểu diễn có thể bị tổn hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín và lòng tin do bị hiểu nhầm.
Tác giả là người sáng tạo ra các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ như tác phẩm văn học, nghệ thuật, sáng chế và giống cây trồng, trong khi người biểu diễn bao gồm diễn viên, ca sĩ và nhạc công Luật SHTT bảo vệ quyền nhân thân và quyền tài sản của họ, bao gồm quyền được nêu tên và quyền bảo vệ tính toàn vẹn của tác phẩm Nếu quyền nhân thân bị xâm phạm, tác giả hoặc người biểu diễn có thể yêu cầu bồi thường cho thiệt hại tinh thần, tuy nhiên, họ cần cung cấp chứng cứ chứng minh tổn thất thực tế theo quy định của Luật SHTT.
53 Xem Điều 19; khoản 2 Điều 29; khoản 2 Điều 122; khoản 1 Điều 185 Luật SHTT
BVHTT&DL-BKH&CN-BTP thì chỉ được coi là tổn thất thực tế nếu có đủ ba căn cứ sau:
Lợi ích tinh thần là một yếu tố quan trọng và thực sự thuộc về người bị thiệt hại, là sản phẩm của quyền sở hữu trí tuệ Người bị thiệt hại có quyền hưởng lợi từ những lợi ích tinh thần này.
Người bị thiệt hại có thể đạt được lợi ích tinh thần trong những điều kiện nhất định, nếu không xảy ra hành vi xâm phạm.
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ dẫn đến sự giảm sút hoặc mất lợi ích của người bị thiệt hại, so với khả năng đạt được lợi ích nếu không có hành vi xâm phạm Trước khi xảy ra hành vi xâm phạm, người bị thiệt hại đã tận hưởng lợi ích tinh thần, nhưng sau đó, họ phải đối mặt với sự suy giảm hoặc mất mát lợi ích này Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm và sự giảm sút, mất lợi ích là rõ ràng; hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả tiêu cực này.
Mức bồi thường thiệt hại về tinh thần phụ thuộc vào mức độ thiệt hại của tác giả hoặc người biểu diễn, dựa trên tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và các tổn thất tinh thần khác Theo quy định tại khoản 2 Điều 205 Luật SHTT, mức bồi thường tối thiểu là năm triệu đồng và tối đa là năm mươi triệu đồng.
Theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009
1.4.3.1 Trong hoạt động quản lí hành chính
Theo Điều 47 Luật TNBTCNN, trách nhiệm bảo đảm an toàn cho người bị tạm giữ phát sinh trong các trường hợp như tạm giữ hành chính, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục hoặc cơ sở chữa bệnh Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP quy định rằng trong thời gian áp dụng các biện pháp này, trách nhiệm bảo đảm an toàn sẽ phát sinh nếu có sự xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe hoặc tính mạng của người bị thiệt hại.
Thứ nhất, khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
Theo Điều 47, khoản 1 của Luật TNBTCNN, thiệt hại do TTVTT trong thời gian bị tạm giữ hành chính hoặc đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh sẽ được xác định là hai ngày lương tối thiểu cho mỗi ngày bị tạm giữ.
29 giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh”
Khi các biện pháp được áp dụng không đúng pháp luật, người bị ảnh hưởng sẽ gặp phải những tổn thất về danh dự, nhân phẩm và uy tín Hệ quả là họ có thể trải qua tâm trạng lo lắng, buồn tủi, mất uy tín và bị xa lánh do bị hiểu lầm.
Mức BTTTVTT không phụ thuộc vào mức độ TTVTT như qui định tại Điều
Theo Điều 611 BLDS 2005, mọi chủ thể bị xâm phạm sẽ được bồi thường với mức tính là hai ngày lương tối thiểu do Nhà nước quy định cho mỗi ngày bị áp dụng các biện pháp xâm phạm, tại thời điểm giải quyết bồi thường.
Theo Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP, ngày lương tối thiểu được tính bằng cách lấy mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định cho công chức trong cơ quan hành chính nhà nước tại thời điểm giải quyết bồi thường, sau đó chia cho 22, tương ứng với số ngày làm việc bình quân trong một tháng.
Theo Nghị định số 66/2013/NĐ-CP, từ ngày 01/7/2013, mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức được quy định là 1.150.000 đồng/tháng Điều này có nghĩa là mức lương tối thiểu hàng ngày sẽ là 52.273 đồng, được tính bằng cách chia mức lương cơ sở cho 22 ngày làm việc trong tháng.
Theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 7 Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP, số ngày bị tạm giữ hành chính hoặc đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh sẽ được xác định dựa trên số ngày thực tế mà người được bồi thường đã bị tạm giữ hoặc đưa vào các cơ sở này.
Khi đó, khoản tiền được BTTTVTT trong trường hợp này là: tổng số ngày bị áp dụng các biện pháp trên x 2 x một ngày lương tối thiểu
Thứ hai, khi tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP, TTVTT phát sinh khi "người bị thiệt hại chết theo quy định tại khoản 3 Điều 47" và trong trường hợp "sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại khoản 4 Điều 47 Luật TNBTCNN" Đối với trường hợp tính mạng bị xâm phạm, cần căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 47.
Theo Luật TNBTCNN và khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP, nếu trong thời gian áp dụng các biện pháp bảo vệ mà người bị thiệt hại chết, thân nhân của họ sẽ được bồi thường một khoản tiền tương đương 360 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường Điều kiện để nhận bồi thường là người chết không phải do lỗi của chính họ hoặc không do nguyên nhân khác.
Trong trường hợp xảy ra 30 kiện bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, nếu nạn nhân tử vong do lỗi của chính họ hoặc do các sự kiện này, thì thân nhân của họ sẽ không được bồi thường.
Những người được bồi thường TTVTT bao gồm thân nhân của người bị thiệt hại còn sống tại thời điểm người đó qua đời, cụ thể là vợ, chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi và người trực tiếp nuôi dưỡng Điều này được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP Đối với trường hợp sức khỏe bị xâm phạm, quy định tại khoản 4 Điều 47 cũng cần được xem xét.
Theo Luật TNBTCNN, mức bồi thường thiệt hại tinh thần cho người có sức khỏe bị xâm phạm sẽ được xác định dựa trên mức độ tổn hại sức khỏe, nhưng không vượt quá 30 tháng lương tối thiểu.
1.4.3.2 Trong hoạt động tố tụng hình sự
Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua hoạt động tố tụng hình sự, nơi mà số phận pháp lý của cá nhân có thể bị ảnh hưởng Mục tiêu của tố tụng hình sự là đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội và tránh oan sai cho người vô tội Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp xâm phạm quyền công dân, đặc biệt là oan sai Theo khoản 2 Điều 6 Luật TNBTCNN, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự khi có bản án hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định người bị thiệt hại đủ điều kiện bồi thường theo Điều 26 của Luật này, và có thiệt hại thực tế do người tiến hành tố tụng gây ra.
Theo qui định của pháp luật, thì các trường hợp được BTTTVTT:
Thứ nhất, trường hợp bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Luật TNBTCNN và hướng dẫn tại khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNN&PTNT, người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự có quyền được bồi thường khoản tiền bù đắp TTVTT do bị xâm phạm quyền tự do, danh dự, nhân phẩm và uy tín.
Mức bồi thường cho thời gian bị tạm giữ, tạm giam hoặc chấp hành hình phạt tù được xác định là ba ngày lương tối thiểu của công chức làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước tại thời điểm giải quyết bồi thường cho mỗi ngày bị giam giữ.