ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆC ĐÒI LẠI TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN 9 KHÔNG PHẢI ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU
Chủ thể đòi lại tài sản
1.1.1 Chủ sở hữu tài sản
Chủ sở hữu tài sản, bao gồm cả cá nhân và tổ chức, theo quy định của pháp luật Dân sự, có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tài sản hợp pháp thuộc quyền sở hữu của mình.
Chủ sở hữu tài sản động sản không cần phải đăng ký quyền sở hữu vẫn có quyền đòi lại tài sản của mình, theo quy định tại Điều 166 của Bộ luật Dân sự.
Theo Điều 167 Bộ luật Dân sự năm 2015, chủ sở hữu tài sản có quyền đòi lại tài sản của mình Tuy nhiên, để thực hiện quyền này, chủ sở hữu cần chứng minh tư cách của mình trong việc đòi lại tài sản, tức là phải xác nhận rằng tài sản đó thuộc sở hữu của mình dựa trên các căn cứ pháp lý quy định.
5 Lê Minh Hùng (Chủ biên) (2017), tlđd (1), tr.146
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2017/DS-ST, Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã giải quyết tranh chấp giữa bà Ngô Thị Kim Thảo và ông Phạm Ngọc Hải liên quan đến chiếc máy phát điện công nghiệp hiệu Kohler công suất 250 KVA Bà Thảo, chủ cơ sở kinh doanh máy phát điện Thảo Phát, yêu cầu ông Hải trả lại tài sản mà bà đã cho ông Phạm Mạnh Cường thuê để canh tác rẫy cao su Sau khi ông Cường bán rẫy cho ông Hải, ông Hải đã chiếm giữ và sử dụng máy phát điện mà không có căn cứ pháp luật Tòa án xác định bà Thảo là chủ sở hữu hợp pháp và buộc ông Hải phải trả lại tài sản theo Điều 166 và Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015, và việc áp dụng pháp luật của Tòa án trong trường hợp này được xem là hợp lý và thuyết phục.
Chứng minh quyền sở hữu tài sản, đặc biệt là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký, thường dễ dàng thông qua các chứng thư như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy đăng ký xe Tuy nhiên, đối với động sản không cần đăng ký, việc xác minh quyền sở hữu trở nên phức tạp hơn Một ví dụ điển hình là vụ tranh chấp giữa ông Đồng Văn Hơn và ông Nguyễn Thanh Phong về hai con trâu, trong đó ông Hơn khẳng định trâu của mình bị lạc và ông Học lại cho rằng đó là trâu của ông Phong Dù cả hai bên đều có mô tả về đặc điểm và nguồn gốc của con trâu, nhưng những thông tin này không đủ để xác định rõ quyền sở hữu.
6 Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2017/DS-ST ngày 09/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (Phụ lục 1)
Quyết định Giám đốc thẩm số 189/2012/DS-GĐT ngày 23/4/2012 của Tòa án nhân dân tối cao đã xác định quyền sở hữu thực sự của trâu, tuy nhiên, qua nhiều cấp xét xử, vấn đề này vẫn chưa có kết quả cuối cùng.
Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2008/DSST ngày 11/12/2008 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn đã xác nhận hai con trâu của ông Hơn dựa trên mô tả chi tiết về đặc điểm của chúng Cụ thể, con trâu cái màu đen đang chửa khoảng 11 tuổi có những đặc điểm như một khoáy ở giữa trán, một u trắng dưới cằm và hai đốm trắng trên mỗi bên má, cùng với sừng dài 44 cm và một vết lõm gốc sừng Trong khi đó, con trâu nghé đực khoảng hai tuổi có lông màu mốc và cũng có những đặc điểm tương tự Tòa án đã buộc ông Phong phải trả lại hai con trâu đang tranh chấp cho ông Hơn và chịu mọi chi phí liên quan đến việc giải quyết tranh chấp.
Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã quyết định hủy bản án dân sự sơ thẩm số 05/2008/DSST ngày 11/12/2008 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn trong Bản án dân sự phúc thẩm số 02/2009/DSPT ngày 16/01/2009, và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn để giải quyết lại.
Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn đã đưa ra phán quyết trái ngược với quyết định trước đó trong vụ án dân sự sơ thẩm số 02/2009/DSST ngày 16/2/2009, khi bác bỏ yêu cầu của ông Đồng Xuân Hơn về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn Phong trả lại hai con trâu và yêu cầu ông Hơn phải hoàn trả mọi chi phí phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Ông Hơn không đồng ý với kết quả giải quyết và đã kháng cáo Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 14/2009/DSPT ngày 16/6/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai, hai con trâu tranh chấp được công nhận thuộc sở hữu của ông Hơn, buộc ông Phong phải trả lại tài sản và chịu chi phí phát sinh Tuy nhiên, do có sai sót trong bản án này, ông Hơn đã khiếu nại và đề nghị Giám đốc thẩm Kết quả, Giám đốc thẩm đã hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 14/2009/DSPT và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử phúc thẩm lại.
Vụ án này cho thấy việc chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản động sản không đăng ký là rất khó khăn Các cấp xét xử chủ yếu dựa vào mô tả đặc điểm của tài sản, điều này không đủ để xác định tư cách chủ sở hữu Kết quả là vụ việc kéo dài qua nhiều lần xét xử mà vẫn chưa có kết luận cuối cùng.
Nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, theo Khoản 1, Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, quy định rằng “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ hợp pháp.”
Nguyên đơn là người khởi kiện, có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm Họ có nghĩa vụ chứng minh sự xâm phạm này, trong khi bị đơn có quyền phản bác và chứng minh rằng nguyên đơn khởi kiện không đúng, nhưng không có nghĩa vụ phải làm điều đó.
Tác giả đề xuất rằng Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành hướng dẫn cụ thể để giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản động sản không được đăng ký quyền sở hữu Chủ sở hữu tài sản nên áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khả thi để chứng minh tư cách chủ sở hữu của mình.
Phương pháp mô tả tài sản tập trung vào việc nêu bật những đặc điểm độc đáo và riêng biệt của tài sản đó, giúp phân biệt nó với các tài sản cùng loại khác Những đặc điểm này không chỉ làm nổi bật giá trị của tài sản mà còn tạo ra sự khác biệt rõ rệt, góp phần vào việc xác định và nhận diện tài sản một cách chính xác hơn.
- Dùng hóa đơn thanh toán, hợp đồng mua bán, chứng từ khác
Chủ thể bị đòi lại tài sản
Người bị yêu cầu trả lại tài sản là người đang chiếm hữu tài sản một cách bất hợp pháp, tức là không phải là chủ sở hữu hợp pháp hoặc không có căn cứ hợp pháp để chiếm hữu tài sản đó.
Bộ luật Dân sự quy định từ Điều 183 đến Điều 188 về việc phân loại chiếm hữu tài sản dựa trên ý chí của chủ thể, bao gồm chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình và không ngay tình Việc xác định tính chất chiếm hữu này rất quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp đòi lại tài sản, vì nó ảnh hưởng đến quyền kiện đòi tài sản, đối tượng bị kiện, cũng như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và trả hoa lợi, lợi tức phát sinh trong thời gian chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật.
1.2.1 Người chiếm hữu trái pháp luật (chiếm hữu không có căn cứ pháp luật)
Người chiếm hữu tài sản trái pháp luật là hành vi chiếm hữu tài sản mà không có cơ sở pháp lý hợp lệ, tức là không tuân thủ các quy định của pháp luật Theo khoản 1 Điều 165 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc chiếm hữu này được coi là không phù hợp với quy định pháp luật.
Theo Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015, người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật có trách nhiệm trả lại tài sản cho chủ sở hữu Pháp luật dân sự quy định rằng người chiếm hữu không ngay tình phải hoàn trả tài sản trong mọi trường hợp.
Trong vụ tranh chấp tài sản giữa bà Nguyễn Thị Mỹ và ông Phan Ứng Hùng, Quyết định Giám đốc thẩm số 17/2014/DS-GĐT ngày 15/4/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ ra rằng ông Hùng là người quản lý di sản thừa kế, bao gồm đất và căn nhà tại số 38 Nguyễn Văn Trỗi, quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh Vào tháng 02/2005, các đồng thừa kế đã thống nhất yêu cầu ông Hùng bán căn nhà và chia đều số tiền thu được, với mỗi người thừa kế sẽ biếu lại ông Hùng 20 lượng vàng Sau khi bán nhà, ông Hùng đã giao cho bà Mỹ 266,8 lượng vàng, nhưng giữ lại 30 lượng vàng của bà Mỹ với lý do 20 lượng vàng là khoản biếu theo thỏa thuận và 10 lượng vàng còn lại không được giải thích.
Quyết định Giám đốc thẩm số 17/2014/DS-GĐT ngày 15/4/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nêu rõ rằng ông Hùng đã tự ý đưa cho anh Trường, người cùng sống trong căn nhà, để anh Trường đồng ý ký tên bán nhà.
Tòa án xác định rằng 10 lượng vàng mà ông Hùng chuyển cho anh Trường là tài sản của bà Mỹ, và do ông Hùng tự ý sử dụng nên phải hoàn trả lại cho bà Mỹ, đồng thời chịu án phí theo quy định pháp luật Vụ án này nhấn mạnh rằng việc ông Hùng tự ý sử dụng tài sản của bà Mỹ mà không có căn cứ pháp luật là không hợp lệ và cần phải trả lại cho chủ sở hữu.
1.2.2 Người thứ ba ngay tình
Pháp luật dân sự Việt Nam không định nghĩa cụ thể về người thứ ba mà chỉ đề cập đến “người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình” trong Bộ luật Dân sự năm 2005 Định nghĩa này mô tả người chiếm hữu không biết và không thể biết rằng việc chiếm hữu tài sản là không có căn cứ pháp luật Tuy nhiên, trong Bộ luật Dân sự năm 2015, định nghĩa này đã được loại bỏ và thay thế bằng khái niệm “chiếm hữu ngay tình”.
Theo Bộ luật dân sự năm 2015, "chiếm hữu ngay tình" được định nghĩa là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu tin rằng mình có quyền đối với tài sản Người thứ ba ngay tình là người đã chiếm hữu tài sản mà không biết hoặc không thể biết rằng việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật Họ không nhận thức được rằng mình đã giao dịch với người không có quyền định đoạt tài sản Do đó, khi có tranh chấp về tài sản liên quan đến người thứ ba, cần xem xét tính ngay tình của họ để bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba ngay tình.
Trong giao dịch dân sự, người thứ ba ngay tình là người chiếm hữu tài sản mà không có căn cứ pháp luật, nhưng không biết và không thể biết về tính chất không hợp pháp của việc chiếm hữu đó Khi tham gia giao dịch để sở hữu tài sản, họ thể hiện ý chí ngay thẳng và thiện chí, do đó quyền lợi của họ cần được bảo vệ Pháp luật dân sự quy định rằng, mặc dù họ chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật, vẫn có những trường hợp mà họ phải trả lại tài sản và những trường hợp mà họ không phải hoàn trả.
Quyền đòi lại động sản không đăng ký từ người thứ ba ngay tình không có sự thay đổi từ Bộ luật Dân sự năm 2005 đến 2015 Theo quy định, người chiếm hữu tài sản ngay tình qua giao dịch không đền bù với người không có quyền định đoạt phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu Việc này không ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba, vì vậy pháp luật cho phép chủ sở hữu đòi lại tài sản trong trường hợp này.
Nếu người chiếm hữu tài sản ngay tình thông qua giao dịch có đền bù, họ không phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu Theo trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ, chủ sở hữu đã chuyển giao tài sản cho người khác Do đó, người chiếm hữu hợp pháp phải chịu trách nhiệm theo hợp đồng với chủ sở hữu khi chuyển giao tài sản cho bên thứ ba Trong trường hợp này, chủ sở hữu có quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại từ người mà họ đã giao tài sản.
Theo quy định tại điều 167 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp người thứ ba ngay tình phải trả lại tài sản khi chủ sở hữu đòi lại, quyền lợi của họ được bảo vệ bằng cách được yêu cầu bồi thường thiệt hại từ người đã giao dịch với họ, hưởng hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản kể từ khi chiếm hữu cho đến khi trả lại, cũng như được thanh toán các chi phí đã bỏ ra để tăng giá trị tài sản.
Trong Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2017/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, ông Phạm Ngọc Hải bị xác định là người chiếm giữ chiếc máy phát điện mà ông Cường thuê từ bà Thảo mà không có thỏa thuận rõ ràng về việc bán hoặc tặng tài sản Tòa án đã nhận định ông Hải là người thứ ba ngay tình, có được tài sản thông qua hợp đồng không có đền bù với ông Cường, người không có quyền định đoạt tài sản Theo Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015, chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, do đó, quyết định buộc ông Hải phải trả lại chiếc máy phát điện cho bà Thảo là hoàn toàn hợp lý.
9 Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2017/DS-ST ngày 09/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (Phụ lục 1)
Việc xác định tính ngay tình của người thứ ba trong giao dịch tài sản động sản không đăng ký quyền sở hữu gặp nhiều khó khăn, vì điều này phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia Một người có thể ban đầu ngay tình nhưng sau đó trở thành không ngay tình nếu họ nhận thức được rằng việc chiếm hữu tài sản là không có căn cứ pháp luật, nhưng vẫn tiếp tục giữ và sử dụng tài sản đó do lòng tham hoặc sự thờ ơ.
Tài sản bị đòi là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu
Theo pháp luật Dân sự Việt Nam, tài sản được phân loại thành động sản và bất động sản dựa trên khả năng di dời Đối với động sản, việc đăng ký quyền sở hữu không phải là yêu cầu bắt buộc cho tất cả, mà chỉ áp dụng cho một số loại tài sản nhất định như tàu biển, phương tiện giao thông cơ giới, và di vật, cổ vật Điều 106 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rằng quyền sở hữu đối với động sản không cần đăng ký trừ khi có quy định khác Những động sản cần đăng ký thường liên quan đến an toàn xã hội và việc quản lý của nhà nước, trong khi các động sản khác không yêu cầu đăng ký quyền sở hữu.
Trong trường hợp chiếm hữu tài sản động sản không cần đăng ký quyền sở hữu, người nhận chuyển giao không cần xác minh liệu người chuyển giao có phải là chủ sở hữu thực sự hay không, miễn là họ đang nắm giữ tài sản và tự xưng là chủ sở hữu Việc chuyển giao tài sản cần được thực hiện công khai, minh bạch và với giá trị hợp lý.
Việc xác định quyền sở hữu đối với động sản không đăng ký rất khó khăn, đặc biệt khi chúng không có dấu hiệu nhận biết riêng biệt Trong các giao dịch, người thứ ba có thể nhận được tài sản từ người không phải chủ sở hữu thực sự hoặc từ người không có quyền định đoạt mà không hay biết Do đó, việc chiếm hữu của người thứ ba có thể được phân loại thành chiếm hữu ngay tình hoặc không ngay tình.
Tôi không biết!
Bài viết của Trần Thị Huệ và Chu Thi Lam Giang nêu rõ những bất cập trong quy định tại điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong các giao dịch dân sự vô hiệu Tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải xem xét và điều chỉnh các quy định này để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên liên quan, nhằm tăng cường tính minh bạch và công bằng trong các giao dịch dân sự.
Trong Quyết định số 05/2007/QĐST-DS ngày 03/7/2007 của Tòa án nhân dân huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum, anh Ngô Bá Thanh yêu cầu trả lại con bò cái đã mất, với các đặc điểm nhận biết cụ thể Sau khi điều tra, con bò được phát hiện đang được anh Thái Thể chăn nuôi và đã sinh ra một con bê Anh Thể cho rằng con bò này là tài sản mua lại từ anh Nguyễn Đình Hoài, và không biết anh Hoài có phải là chủ sở hữu hợp pháp hay không Kết quả hòa giải đã đạt được thỏa thuận: anh Thể sẽ trả lại con bò mẹ cho anh Thanh, nhận con bê, và anh Thanh sẽ thanh toán 450.000 đồng cho chi phí nuôi dưỡng, chăm sóc con bò.
Nguyên đơn đã chứng minh quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản bị thất lạc thông qua việc mô tả các đặc điểm nhận dạng riêng biệt, và bị đơn đã thừa nhận điều này Bị đơn không biết rằng con bò mình mua là tài sản bị chiếm hữu trái pháp luật, do đó trở thành người thứ ba ngay tình Sự thỏa thuận giữa hai bên được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, vì vậy Tòa án đã công nhận thỏa thuận này.
Quyền đòi lại động sản không đăng ký chỉ có thể thực hiện khi tài sản vẫn còn tồn tại tại thời điểm kiện Nếu tài sản đã mất, hủy hoại hoặc bị xẻ thịt, mục đích kiện đòi sẽ không đạt được, và chủ sở hữu chỉ có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại Tuy nhiên, Luật dân sự chỉ quy định quyền kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền) mà không có quy định về việc kiện đòi bồi thường thiệt hại từ người thứ ba, dù là ngay tình hay không.
Tác giả đề xuất rằng Tòa án nhân dân tối cao cần đưa ra hướng dẫn cụ thể về việc giải quyết tranh chấp tài sản với người thứ ba ngay tình Khi tài sản không còn, chủ sở hữu có quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại từ người mà họ đã trực tiếp giao tài sản hoặc từ người đang chiếm hữu tài sản của mình.
12 Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 05/2007/QĐST-DS ngày 03/7/2007 của Tòa án nhân dân huyện Kon rẫy, tỉnh Kon Tum (Phụ lục 5)
Nghiên cứu về kiện đòi tài sản động sản không cần đăng ký quyền sở hữu cho thấy một số kết luận quan trọng Các tranh chấp liên quan đến tài sản này thường phức tạp và đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về quy định pháp luật Việc xác định quyền sở hữu và chứng minh quyền lợi hợp pháp là yếu tố then chốt trong quá trình giải quyết tranh chấp Thực tiễn cho thấy, việc thu thập chứng cứ rõ ràng và đầy đủ sẽ góp phần tăng cường khả năng thành công trong các vụ kiện.
Để đòi lại tài sản động sản không cần đăng ký quyền sở hữu, chủ thể phải chứng minh tư cách chủ sở hữu hợp pháp của mình Người sở hữu hoặc chiếm hữu hợp pháp tài sản có nghĩa vụ cung cấp căn cứ xác lập quyền sở hữu theo Bộ luật dân sự và các bằng chứng thuyết phục khác.
Theo nguyên tắc chung, khi chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật, người chiếm hữu phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu Tuy nhiên, trong một số trường hợp, pháp luật dân sự bảo vệ quyền lợi của người chiếm hữu ngay tình Do đó, việc xác định tính chất ngay tình của giao dịch và liệu giao dịch đó có phải là hợp đồng có đền bù hay không là rất quan trọng Trên thực tế, chủ sở hữu tài sản thường kiện người đã trực tiếp chiếm hữu tài sản của mình, thay vì kiện người thứ ba, dẫn đến việc quy phạm pháp luật hướng dẫn giải quyết các trường hợp này còn hạn chế.
Do đặc điểm của tài sản động sản không cần đăng ký quyền sở hữu, việc xác định chủ sở hữu thực sự gặp khó khăn Vì vậy, việc lưu giữ hóa đơn, chứng từ và các giấy tờ chứng minh là rất cần thiết để bảo vệ quyền lợi trong trường hợp xảy ra tranh chấp Hơn nữa, tìm hiểu nguồn gốc, xuất xứ và đặc điểm của tài sản trước khi giao dịch cũng là điều quan trọng để tránh những mâu thuẫn không mong muốn sau này.
HỆ QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC ĐÒI LẠI TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN KHÔNG PHẢI ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU
Người chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản
Nghĩa vụ hoàn trả tài sản do chiếm hữu và sử dụng tài sản mà không có căn cứ pháp luật được xác định là nghĩa vụ dân sự theo quy định tại Điều 579 Bộ luật Dân sự năm 2015 Theo đó, người chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản của người khác mà không có quyền hợp pháp phải hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu hoặc các chủ thể có quyền khác Nếu không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ thể có quyền, người chiếm hữu phải giao nộp tài sản cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
13 Lê Minh Hùng (Chủ biên) (2017), tlđd (1), tr.161 cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại điều 236 của
Theo Bộ luật này, nếu một cá nhân hoặc tổ chức nhận được lợi ích tài sản mà không có căn cứ pháp luật và gây thiệt hại cho người khác, họ có nghĩa vụ hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại, trừ những trường hợp được quy định tại điều 236 của Bộ luật.
2.1.1 Người hoàn trả tài sản Đối với việc đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không ngay tình thì việc chủ sở hữu kiện đòi tài sản nơi người không có căn cứ pháp luật và không ngay tình về nguyên tắc pháp luật thì yêu cầu đó luôn phải được đáp ứng để thể hiện sự bảo vệ tuyệt đối của Nhà nước về quyền sở hữu 14
Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật thường chiếm giữ tài sản trái với ý chí của chủ sở hữu, vì chủ sở hữu không chuyển nhượng tài sản hoặc không cho phép người khác chiếm giữ Do đó, trong mọi trường hợp, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu.
Người chiếm hữu ngay tình sở hữu tài sản không có căn cứ pháp luật và theo nguyên tắc chung, họ phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu Tuy nhiên, do sự ngay tình trong giao dịch, pháp luật quy định một số trường hợp cụ thể mà họ không phải trả lại tài sản Cụ thể, nếu tài sản được có được thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt, hoặc nếu tài sản được nhận qua hợp đồng có đền bù nhưng không theo ý chí của chủ sở hữu, thì người chiếm hữu ngay tình không phải hoàn trả Ngoài các trường hợp này, họ có nghĩa vụ trả lại tài sản.
2.1.2 Đối tượng phải hoàn trả
Khi chủ sở hữu kiện đòi tài sản, nếu tài sản vẫn còn, đối tượng phải hoàn trả chính là tài sản đó Nếu tài sản không còn hoặc bị hư hỏng, mục đích thu hồi tài sản nguyên vẹn của chủ sở hữu không đạt được, dẫn đến việc người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật phải bồi thường bằng tiền theo quy định tại Điều 579 và Điều 580 Bộ luật dân sự năm 2015.
14 Lê Minh Hùng (Chủ biên) (2017), tlđd (1), tr.158
Trong vụ án dân sự sơ thẩm số 20/2017/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, bà Ngô Thị Kim Thảo đã yêu cầu ông Phạm Ngọc Hải trả lại chiếc máy phát điện công nghiệp Koleh 250 KVA mà ông đang chiếm giữ Tòa án đã phán quyết buộc ông Hải phải trả lại tài sản này, xác nhận rằng ông có được máy phát điện thông qua hợp đồng không có đền bù với ông Cường, mặc dù hai bên không làm rõ tính chất giao dịch Vụ việc cho thấy việc xác định trách nhiệm trả lại tài sản dựa trên hợp đồng có đền bù hay không vẫn còn thiếu tính thấu đáo và hợp lý.
Bản án dân sự sơ thẩm số 170/2017/DSST ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang đã giải quyết tranh chấp giữa bà Trần Thị Nguyệt và bà Lương Thị Mai liên quan đến khoản vay 3,5 lượng vàng 24 kara vào năm 1993 Sau khi bị xử lý hình sự và thụ án 10 năm tù giam, bà Nguyệt không thể thu hồi khoản nợ Khi ra tù, bà yêu cầu bà Mai trả lại số vàng, nhưng bà Mai cho rằng đã trả cho cha và mẹ kế của bà Nguyệt Tòa án xác định việc thanh toán nợ không đúng chủ thể và yêu cầu bà Mai hoàn trả 3,5 lượng vàng Do vàng không còn, Tòa đã định giá và buộc bà Mai phải trả số tiền tương đương 119.105.000 đồng cho bà Nguyệt Bà Nguyệt đã không yêu cầu tài sản từ ông Nam và bà Sang, mặc dù họ là những người đã nhận vàng.
15 Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2017/DS-ST ngày 09/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (Phụ lục 1)
Bản án dân sự sơ thẩm số 170/2017/DSST ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang xác định rằng người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật đã khởi kiện bà Mai, người mà họ đã giao dịch về tài sản Tòa án đã buộc bà Mai phải trả lại tài sản cho bà Nguyệt, trong khi quyền lợi của bà Mai có thể được bảo vệ thông qua việc kiện ông Nam và bà Sang trong một vụ án khác Mặc dù kết quả xét xử xác định đối tượng phải hoàn trả là hợp lý, nhưng việc xác định chủ thể phải hoàn trả chưa bảo vệ triệt để quyền lợi của các bên tham gia giao dịch.
Vụ án tranh chấp tài sản giữa vợ chồng ông Bùi Văn Nu và bà Lê Thị Nga với ông Bùi Văn Lẹt cho thấy việc xác định chủ thể phải hoàn trả tài sản vẫn còn nhiều tranh cãi Cụ thể, ông Nu và bà Nga đã gửi 30 chỉ vàng cho ông Lẹt, nhưng ông Lẹt đã tự ý bán số vàng này để lấy tiền cho ông Bùi Văn Lợi 60.000.000 đồng Việc xác định ông Lẹt hay ông Lợi có nghĩa vụ hoàn trả tài sản chưa đúng với tinh thần của điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015 Hơn nữa, Tòa án chưa đưa ra phán quyết cụ thể về việc hoàn trả là tiền hay vàng, chỉ yêu cầu ông Lẹt phải trả lại cho ông Nu và bà Nga.
30 chỉ vàng và tính ra thành tiền tại thời điểm xét xử là 3.560.000 đồng/chỉ
Việc xác định đối tượng phải hoàn trả tài sản hiện nay còn thiếu sự thống nhất và không đúng với tinh thần của điều luật Tác giả đề xuất Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể về việc xác định chủ thể hoàn trả tài sản, tập trung vào người thực tế chiếm giữ tài sản Đồng thời, trong trường hợp không xác định được việc có được tài sản thông qua hợp đồng, cần mặc nhiên coi đó là hợp đồng không có đền bù.
Trường hợp phải trả lại hoa lợi, lợi tức hoặc không trả lại hoa lợi, lợi tức
Hoa lợi là sản phẩm tự nhiên mang lại giá trị tài sản, bao gồm trứng từ gia cầm, con cái từ gia súc, và hoa màu thu được từ hoạt động trồng trọt.
Bản án dân sự sơ thẩm số 83/2017/DS-ST ngày 29/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp khẳng định rằng khi hoa lợi được tách khỏi vật, hoa lợi trở thành một vật độc lập Từ thời điểm đó, hoa lợi thuộc quyền sở hữu của chủ sở hữu vật, trừ khi có thỏa thuận khác trong giao dịch dân sự giữa các bên.
Lợi tức là khoản thu nhập từ việc khai thác tài sản, thường được biểu thị bằng một số tiền cụ thể Ví dụ, lợi tức có thể đến từ việc cho thuê nhà, cho thuê các tài sản khác, hoặc từ lãi vay khi cho vay tài sản.
Việc xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức được quy định tại điều
Theo Bộ luật dân sự năm 2015, chủ sở hữu và người sử dụng tài sản có quyền sở hữu hoa lợi và lợi tức từ tài sản của họ, dựa trên thỏa thuận hoặc quy định pháp luật, kể từ thời điểm thu được những lợi ích này.
Theo nguyên tắc, người chiếm hữu và sử dụng tài sản mà không có căn cứ pháp luật và không ngay tình phải hoàn trả hoa lợi và lợi tức từ thời điểm chiếm hữu Trong khi đó, người chiếm hữu ngay tình chỉ cần hoàn trả hoa lợi và lợi tức từ khi họ nhận thức hoặc lẽ ra phải biết rằng việc chiếm hữu tài sản là không hợp pháp.
Theo Quyết định số 05/2007/QĐST-DS ngày 03/7/2007 của Tòa án nhân dân huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum, anh Ngô Bá Thanh đã mất một con bò cái, hiện đang do anh Thái Thể chiếm hữu, con bò này có nguồn gốc từ việc mua lại của anh Nguyễn Đình Hoài Tòa án đã quyết định rằng anh Thái Thể được giữ lại con bê sinh ra trong thời gian anh đang chăn thả bò cái.
Hoa lợi trong trường hợp này là con bê mà anh Thể sở hữu trước khi nhận thức được việc chiếm hữu tài sản của mình là không có cơ sở pháp lý Do đó, Tòa án đã công nhận thỏa thuận cho phép anh Thể giữ lại hoa lợi này là hợp lý, và đây là trường hợp không phải trả lại hoa lợi theo quy định của pháp luật dân sự.
18 Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên) (2014), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, tr 235
19 Lê Minh Hùng (Chủ biên) (2017), tlđd (1), tr.163-164
20 Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 05/2007/QĐST-DS ngayg 03/7/2007 của Tòa án nhân dân huyện Kon rẫy, tỉnh Kon Tum (Phụ lục 5)
Phải bồi hoàn lại bằng giá trị, bồi thường thiệt hại khi tài sản không còn, mất mát, hư hỏng
Theo Điều 170 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại được xác định rõ ràng Cụ thể, chủ sở hữu hoặc các chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu bồi thường từ những người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu hoặc quyền khác liên quan đến tài sản.
Quyền kiện đòi lại động sản không cần đăng ký quyền sở hữu chỉ được thực hiện khi tài sản vẫn còn tồn tại Nếu tài sản liên quan đến vụ kiện đã mất hoặc bị tiêu hủy, mục đích đòi lại sẽ không được đáp ứng Trong trường hợp này, quyền của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp chỉ có thể được bảo vệ thông qua kiện trái quyền.
Trong trường hợp chủ sở hữu kiện đòi tài sản nhưng tài sản đó không còn, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật sẽ phải bồi thường bằng tiền Cơ sở pháp lý cho việc bồi thường này khi tài sản bị mất hoặc hư hỏng được quy định tại Điều
580 Bộ luật Dân sự năm 2015 về tài sản hoàn trả
Theo Quyết định Giám đốc thẩm số 189/2012/DS-GĐT ngày 23/4/2012 của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định rằng việc công nhận con trâu cái và con nghé đực đang tranh chấp là của ông Đồng Xuân Hơn là có căn cứ Do đó, ông Nguyễn Văn Phong phải có trách nhiệm trả lại hai con trâu cho ông Hơn Tuy nhiên, nếu ông Phong không tìm thấy hai con trâu này sau khi đã thả vào rừng, ông phải bồi thường giá trị của chúng theo giá thị trường.
2.3.1 Trường hợp khi chủ sở hữu không được đòi lại tài sản
Trong trường hợp tài sản đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình và chủ sở hữu không thể đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật, vấn đề bồi thường thiệt hại chỉ có thể được thực hiện giữa các chủ thể là chủ sở hữu.
Nghiên cứu của Phùng Trung Tập (2009) tập trung vào vấn đề kiện đòi lại tài sản là động sản không cần đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình Đề tài này được thực hiện trong khuôn khổ nghiên cứu khoa học cấp trường tại Khoa Luật Dân sự, Đại học Luật Hà Nội.
Quyết định Giám đốc thẩm số 189/2012/DS-GĐT ngày 23/4/2012 của Tòa án nhân dân tối cao nêu rõ rằng, trong trường hợp tài sản và người có lỗi dẫn đến việc giao dịch với người thứ ba, người thứ ba đã được công nhận quyền sở hữu tài sản đó và không phải trả lại tài sản Chủ sở hữu có quyền kiện đòi bồi thường từ người đã thực hiện giao dịch với người thứ ba.
Khi chủ sở hữu chuyển giao tài sản, giữa họ và người nhận phát sinh nghĩa vụ dân sự Nếu người chiếm hữu vi phạm nghĩa vụ và không trả lại tài sản, họ phải chịu trách nhiệm dân sự với chủ sở hữu Ví dụ, trong vụ án dân sự sơ thẩm số 83/2017/DS-ST tại Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, anh Bùi Văn Lẹt đã nhận giữ 30 chỉ vàng của ông Bùi Văn Nu và bà Lê Thị Nga nhưng đã bán 20 chỉ vàng mà không có sự đồng ý của họ Ông Nu và bà Nga đã quyết định kiện anh Lẹt để đòi lại tài sản thay vì kiện người thứ ba là anh Bùi Văn Lợi Tòa án đã buộc anh Lẹt phải trả lại 30 chỉ vàng hoặc thanh toán giá trị tương ứng theo giá vàng tại thời điểm xét xử, thể hiện đúng tinh thần quy định của pháp luật.
2.3.2 Trường hợp khi chủ sở hữu được đòi lại tài sản
Chủ sở hữu có quyền yêu cầu người thứ ba trả lại tài sản, trong khi người thứ ba có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại từ người đã chuyển giao tài sản đó.
Theo Quyết định số 05/2007/QĐST-DS ngày 03/7/2007 của Tòa án nhân dân huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum, anh Ngô Bá Thanh đã bị mất con bò cái, và hiện tại con bò này đang do một bên khác giữ.
Bài viết của Nguyễn Minh Tuấn (2008) trong Tạp chí Luật học, số 4, tập trung vào việc bảo vệ quyền sở hữu thông qua phương thức kiện đòi tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam và so sánh với pháp luật dân sự của một số quốc gia khác.
24 Bản án dân sự sơ thẩm số 83/2017/DS-ST ngày 29/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp (Phụ lục 4)
Quyết định số 05/2007/QĐST-DS của Tòa án nhân dân huyện Kon Rẫy vào ngày 03/7/2007 công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự, trong đó anh Thái Thể đã chiếm hữu tài sản có nguồn gốc mua lại từ anh Nguyễn Đình Hoài Tài sản này đã rời khỏi tay anh Thanh một cách ngoài ý chí của anh (bị thất lạc), và anh Thể nhận được tài sản thông qua hợp đồng mua bán có đền bù Do đó, chủ sở hữu có quyền đòi lại con bò, trong khi anh Thể có quyền yêu cầu anh Hoài bồi thường thiệt hại.
Luật dân sự không quy định rõ về việc bồi thường thiệt hại từ người thứ ba ngay tình, nhưng theo các quy định hiện hành, nếu người thứ ba ngay tình chiếm hữu tài sản và gây hư hỏng hoặc mất mát, họ có trách nhiệm bồi thường khi chủ sở hữu yêu cầu đòi lại tài sản Tuy nhiên, trong trường hợp tài sản đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình và bị hư hỏng hoặc mất mát không do lỗi của họ, như bị trộm hay hỏa hoạn, pháp luật hiện tại chưa có hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm bồi thường Do đó, tác giả đề xuất Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn rõ ràng rằng nếu tài sản không còn hoặc bị hư hỏng không do lỗi của người thứ ba ngay tình, họ không phải bồi thường giá trị tài sản, mà người đã giao dịch với chủ sở hữu sẽ phải chịu trách nhiệm.
Người chiếm hữu ngay tình được thanh toán chi phí bảo quản, làm tăng giá trị tài sản
Khi người chiếm hữu ngay tình khai thác tài sản để thu lợi, họ thường phải chi trả cho các khoản duy tu, bảo dưỡng và sửa chữa Những chi phí này có thể kéo dài từ khi bắt đầu chiếm hữu cho đến khi người chiếm hữu nhận thức được việc chiếm hữu của mình không có căn cứ pháp luật Trong trường hợp chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản và yêu cầu trả lại hoa lợi, lợi tức, vấn đề hoàn trả các chi phí này và mức độ hoàn trả vẫn chưa được pháp luật quy định rõ ràng.
Trong vụ án dân sự sơ thẩm số 01/2017/DS-ST ngày 28/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, nguyên đơn Lò Văn Kim và bị đơn Quàng Văn Biên tranh chấp về một con trâu đực 4 tuổi trị giá 20.000.000 đồng Cả hai đều mất trâu và tìm kiếm, anh Biên phát hiện con trâu có đặc điểm giống trâu của mình trong đàn của ông Nạ Văn Chấn và mang về Khi anh Kim nhìn thấy trâu tại nhà anh Biên, anh đã kiện đòi lại Kết quả xét nghiệm ADN xác định con trâu có quan hệ huyết thống với trâu mẹ của anh Kim, từ đó Tòa án xác định tài sản thuộc về anh Kim Anh Biên đồng ý trả lại trâu và yêu cầu anh Kim bồi thường 10.000.000 đồng tiền công chăn nuôi.
Tòa án đã công nhận rằng anh Quàng Văn Biên chiếm giữ và chăn dắt con trâu một cách ngay tình, do đó đã chấp thuận yêu cầu thanh toán tiền công chăn dắt Thời gian tính tiền công này bắt đầu từ ngày xảy ra tranh chấp cho đến ngày xét xử.
Trong suốt 136 ngày tranh chấp, anh Biên vẫn kiên định cho rằng con trâu là tài sản của mình, và Ủy ban nhân dân xã Pú Hồng đã giao tạm con trâu cho anh quản lý chờ Tòa án giải quyết Tòa án đã áp dụng Điều 231 và Điều 583 của Bộ luật Dân sự năm 2015 để yêu cầu anh Kim hoàn trả tiền công nuôi dưỡng con trâu cho anh Biên, dựa trên chi phí cần thiết mà người chiếm hữu ngay tình đã bỏ ra Tuy nhiên, Điều 231 không quy định rõ về thời gian tính tiền công nuôi dưỡng, dẫn đến việc Tòa án chỉ xem xét khoảng thời gian từ khi xảy ra tranh chấp đến khi xét xử, mà không đề cập đến chi phí từ lúc bắt được con trâu Gia đình anh Biên yêu cầu mức tiền nuôi dưỡng 150.000 đồng/ngày, nhưng Tòa án xác minh và xác định mức tiền công lao động phổ thông tại địa phương là 120.000 đồng/ngày.
26 Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2017/DS-ST ngày 28/7/2017 của Tòa án nhân dân huyệ Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên (Phụ lục 7)
Biên chăm sóc 05 con trâu, với mức tiền công bình quân 25.000 đồng/ngày, nhằm đưa ra phán quyết về số tiền phải trả lại Tuy nhiên, tác giả cho rằng cách tính chi phí này hợp lý nhưng chưa hợp lý về khoảng thời gian áp dụng thanh toán, vì có một khoản chi phí thực tế phát sinh nhưng chưa được tính toán, điều này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên.
Vào ngày 04/7/2015, gia đình ông TVH phát hiện mất một con trâu và tìm thấy tại nhà ông NLC Sau khi thông báo với chính quyền địa phương nhưng không đạt được hòa giải, ông H yêu cầu thả trâu về cho chủ sở hữu thực sự, tuy nhiên ông C không đồng ý, khẳng định đó là trâu của mình Ông H đã khởi kiện và vào ngày 03/11/2015, Tòa án sơ thẩm quyết định tạm giao con trâu cho bị đơn quản lý trong thời gian giải quyết vụ án, đồng thời yêu cầu bồi thường 30.000.000 đồng nếu có thiệt hại xảy ra.
Vào tháng 7 năm 2016, Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh đã xét xử sơ thẩm và buộc ông C phải trả lại con trâu cho ông H Sau đó, ông C đã kháng cáo và Tòa phúc thẩm đã tiến hành giám định ADN giữa con trâu của ông C và con trâu đang tranh chấp Kết quả giám định cho thấy hai con trâu này không có quan hệ huyết thống.
Tòa án đã yêu cầu ông H bồi thường tiền công chăm sóc con trâu từ ngày 03/11/2015 đến ngày tuyên án sơ thẩm, với mức bồi thường 40.000 đồng/ngày, phù hợp với mức thu nhập lao động phổ thông trong khu vực Do đó, Tòa án quyết định ông C phải trả lại con trâu cho ông H, và ông H có trách nhiệm thanh toán cho ông C số tiền hơn 10.000.000 đồng.
Trong vụ án này, không làm rõ việc ông C chiếm hữu con trâu một cách ngay tình hay không, điều này dẫn đến việc hiểu rằng chủ sở hữu cần phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Bài viết của Thanh Vân trên Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh bàn về một án lệ liên quan đến vụ mất trâu, trong đó có những phản đối mạnh mẽ Tòa án đã quyết định rằng việc tính toán chi phí và trả công chăm sóc, nuôi dưỡng phải được thực hiện trong mọi trường hợp, không phân biệt giữa ngay tình hay không ngay tình Điều này có thể dẫn đến việc những người chiếm hữu trái pháp luật tài sản của người khác vẫn được thanh toán khoản chi phí này Tòa án cũng quy định thời gian tính toán chi phí từ khi bên bị đơn được tạm giao quản lý tài sản cho đến khi xét xử sơ thẩm, nhưng không đề cập đến chi phí trong khoảng thời gian từ khi ông C nhận được con trâu cho đến khi Tòa án giao tạm quản lý, cũng như thời gian từ xét xử sơ thẩm đến phúc thẩm.
Tác giả đề xuất rằng Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể về cách tính thời gian thanh toán chi phí bảo quản và làm tăng giá trị tài sản khi kiện đòi lại tài sản Cụ thể, thời gian tính chi phí phải trả lại bắt đầu từ khi người chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản cho đến khi họ trả lại tài sản cho chủ sở hữu Ngược lại, người chiếm hữu không ngay tình sẽ không được quyền yêu cầu hoàn trả chi phí này.
2.5 Trường hợp không trả lại tài sản Để bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu thì tại Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định: “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tìnhh, thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực”, có nghĩa là người thứ ba vẫn trở thành chủ sở hữu tài sản Trường hợp này khi xảy ra sự việc thì chủ sở hữu đã được bồi thường toàn bộ thiệt hại trước khi phát hiện ra người thứ ba đang chiếm hữu tài sản của mình, vì vậy không cần thiết buộc người thứ ba phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu
Mặt khác, chủ sở hữu tài sản không được kiện đòi lại tài sản trong hai trường hợp như sau:
Theo Điều 167 Bộ luật dân sự năm 2015, chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản nếu tài sản đã rời khỏi quyền sở hữu của mình do ý chí của chủ sở hữu, và đã bị người thứ ba chiếm hữu ngay tình thông qua hợp đồng có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản Trong trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao tài sản cho người chiếm hữu hợp pháp qua hợp đồng cho thuê, cho mượn, hoặc gửi giữ, và người này lại chuyển giao tài sản cho bên thứ ba thông qua hợp đồng có đền bù, chủ sở hữu không thể kiện đòi tài sản Tuy nhiên, chủ sở hữu có quyền kiện bên mà mình đã ký hợp đồng để yêu cầu bồi thường thiệt hại, và tranh chấp sẽ được giải quyết theo quy định về hợp đồng dân sự.
Anh Nguyễn Văn Đức đã cho cô Lê Thị Thiên Lý mượn một chiếc laptop, nhưng sau đó cô Lý lại bán chiếc laptop này cho anh Nguyên Mạnh.
Khi anh Đức phát hiện ra rằng anh Hà đang sử dụng chiếc laptop của mình, anh không thể kiện anh Hà trực tiếp mà phải yêu cầu cô Lý bồi thường cho chiếc laptop đó.