NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TIÊU DÙNG VÀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI ĐI VAY
Những vấn đề lý luận về hợp đồng tín dụng tiêu dùng
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng tín dụng tiêu dùng
Hoạt động cho vay đã tồn tại từ lâu, bắt nguồn từ nhu cầu cân bằng trong lưu thông hàng hóa và tiền tệ Hiện nay, cho vay trở thành một hoạt động chủ yếu của các tổ chức tín dụng (TCTD), nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh và đời sống Khái niệm cho vay được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau Theo pháp luật ngân hàng, cho vay của TCTD được định nghĩa là hình thức cấp tín dụng, trong đó TCTD chuyển giao một khoản vốn cho bên vay (khách hàng) để sử dụng trong thời gian nhất định, sau đó bên vay phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thỏa thuận.
Hiện nay, sự phát triển không ngừng của ngân hàng đã tạo ra nhiều hình thức cho vay, đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng, nơi cạnh tranh giữa các ngân hàng và công ty tài chính ngày càng trở nên sôi động Tín dụng tiêu dùng cung cấp vốn cho cá nhân và hộ gia đình nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm, nâng cao đời sống, như mua nhà, xe cộ, chi phí học hành và giải trí Khái niệm tiêu dùng được hiểu là việc sử dụng của cải vật chất phục vụ đời sống, do đó, mục đích vay mượn rất đa dạng Mặc dù cho vay tiêu dùng đã phát triển mạnh ở nhiều nước tiên tiến, nhưng tại Việt Nam, hình thức này chỉ mới thu hút sự quan tâm trong những năm gần đây Theo thời gian, khái niệm tín dụng tiêu dùng cũng đã được mở rộng, bao gồm cả cho vay cho gia đình có con em đi du học và các nhu cầu khác.
Theo Khoản 16 Điều 4 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và Khoản 1 Điều 3 trong Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, được ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN, quy định rõ về các nguyên tắc và điều kiện cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Xuất khẩu lao động và chữa bệnh ở nước ngoài là những hoạt động nổi bật trong lĩnh vực tín dụng, đặc biệt là cho vay đầu tư vào bất động sản, chứng khoán, và mua vàng, đô la Mỹ, vượt ra ngoài khái niệm tín dụng tiêu dùng thông thường.
Tại Việt Nam, khái niệm cho vay tiêu dùng chưa có định nghĩa chính thức trong văn bản pháp lý, mà được quy định chủ yếu qua Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và Quy chế cho vay của TCTD Các văn bản này không sử dụng thuật ngữ "cho vay tiêu dùng", mà chỉ đề cập đến cho vay phục vụ nhu cầu đời sống và các dự án đầu tư liên quan Tuy nhiên, trong Công văn số 2956/NHNN-CSTT ngày 14/04/2011, NHNN đã nhắc đến cho vay tiêu dùng như là hình thức cho vay phục vụ nhu cầu vốn cho đời sống và qua thẻ tín dụng Do đó, việc xác định mục đích cho vay tiêu dùng hiện vẫn chưa được quy định cụ thể, mà chỉ có thể hiểu gián tiếp thông qua các quy định về hoạt động kinh doanh, thương mại theo Luật Thương mại.
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định rằng mục đích tiêu dùng là hoạt động phục vụ nhu cầu sinh hoạt và chi tiêu hàng ngày của người dân mà không nhằm mục đích lợi nhuận Để thiết lập quan hệ cho vay tiêu dùng, người vay và chủ thể cho vay cần ký kết hợp đồng tín dụng tiêu dùng (HĐTDTD) theo quy định của pháp luật.
Nguyễn Đắc Hưng emphasizes the importance of developing safe and effective consumer credit in his article published on the VNBA website The article highlights strategies for enhancing consumer credit systems to ensure financial security and promote responsible borrowing practices Accessed on January 20, 2014, it serves as a valuable resource for understanding the dynamics of consumer credit development.
Theo Khoản 16 Điều 4 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và Điều 1 của Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng, được ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, quy định rõ các điều kiện và quy trình cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
6 Điểm 2 Công văn số 2956/NHNN-CSTT ngày 14/04/2011 của NHNN về kiểm soát hoạt động tín dụng năm
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005, hoạt động thương mại được định nghĩa là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và đầu tư xúc tiến thương mại Tương tự, Khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định rằng kinh doanh là việc thực hiện các công đoạn trong quá trình đầu tư nhằm sinh lợi từ sản phẩm hoặc dịch vụ Hợp đồng tín dụng tiêu dùng không chỉ là văn bản thể hiện sự tự nguyện tham gia vào quan hệ cho vay mà còn là cơ sở pháp lý để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ đã được xác lập Việc ký kết hợp đồng bằng văn bản là sự xác nhận công khai về mối quan hệ pháp lý giữa các bên, giúp người thứ ba hiểu rõ và có cách xử sự hợp lý trong trường hợp cần thiết Hợp đồng tín dụng tiêu dùng cũng là căn cứ pháp lý cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên.
Hợp đồng tín dụng tiêu dùng là một loại hợp đồng dân sự, cụ thể là hợp đồng tín dụng thông thường, được quy định theo Điều 388 BLDS 2005 Hợp đồng này là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) và khách hàng (bên vay), nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên theo quy định pháp luật Theo đó, tổ chức tín dụng sẽ chuyển giao một khoản tiền cho khách hàng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng trong một khoảng thời gian nhất định, và bên vay có trách nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lãi sau thời gian đó.
Từ khái niệm này có thể thấy HĐTDTD có các đặc điểm dưới đây:
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng tín dụng tiêu dùng
1.1.2.1 Đặc điểm về chủ thể của hợp đồng
Chủ thể của HĐTDTD gồm 2 bên là bên cho vay và bên đi vay
Bên cho vay trong hợp đồng tín dụng tiêu dùng (HĐTDTD) tại Việt Nam thường là tổ chức tín dụng (TCTD) hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài Theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, TCTD là doanh nghiệp thực hiện các hoạt động ngân hàng, bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã, cùng với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng như công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính Các tổ chức tín dụng có thể được thành lập dưới nhiều hình thức khác nhau.
Theo Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005, hợp đồng dân sự được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
9 Trường Đại học Luật Tp HCM (2013), Giáo trình Luật ngân hàng, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
10 Khoản 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010
Theo Điều 4, Khoản 2 và Khoản 4 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, các tổ chức tín dụng (TCTD) bao gồm cả TCTD liên doanh và TCTD 100% vốn nước ngoài, được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài, chịu trách nhiệm về nghĩa vụ và cam kết tại Việt Nam, với hoạt động được quy định cụ thể trong Giấy phép do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp, phù hợp với quy mô và lĩnh vực của ngân hàng Trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng, các NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các công ty tài chính là chủ thể chính cho vay Để tham gia Hợp đồng tín dụng tiêu dùng, các TCTD cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
+ Có giấy phép thành lập và hoạt động do NHNN cấp
+ Có điều lệ do NHNN chuẩn y
+ Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp
+ Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng đối với khách hàng
Các điều kiện nêu trên xác định tư cách pháp lý của tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc ký kết hợp đồng tín dụng tiêu dùng (HĐTDTD) Đây không chỉ là yêu cầu cho hoạt động cho vay tiêu dùng mà còn áp dụng cho tất cả các hình thức cho vay của TCTD Quy định này có mục đích giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế, cải thiện quan hệ tín dụng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên đi vay.
Bên đi vay trong hợp đồng tín dụng tiêu dùng (HĐTDTD) chủ yếu là cá nhân và hộ gia đình, không bao gồm pháp nhân, vì mục đích vay vốn nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt và tiêu dùng Để được cấp vốn từ các tổ chức tín dụng (TCTD), bên vay cần tuân thủ các quy định pháp luật và điều kiện mà TCTD đặt ra Hiện nay, hoạt động cho vay tiêu dùng vẫn chịu sự điều chỉnh của Quy chế cho vay của TCTD dành cho khách hàng.
12 Khoản 8 Điều 4, khoản 4 Điều 6 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010
13 Khoản 9 Điều 4, khoản 3 Điều 123 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010
Pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng
Lãi suất cao hiện nay đang gây khó khăn cho khách hàng vay tiêu dùng, khiến nhiều người gặp trở ngại trong việc tiếp cận nguồn vốn cần thiết cho chi tiêu cá nhân Điều này ảnh hưởng đến quyết định vay mượn của người tiêu dùng, dẫn đến sự giảm sút trong hoạt động tiêu dùng và ảnh hưởng đến nền kinh tế Các ngân hàng cần xem xét lại chính sách lãi suất để hỗ trợ khách hàng tốt hơn trong bối cảnh này.
Bài viết đề cập đến một số văn bản pháp luật quan trọng liên quan đến chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, bao gồm Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 01/03/2011 nhằm kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, Công văn số 2956/NHNN-CSTT ngày 14/04/2011 về kiểm soát hoạt động tín dụng năm 2011, và Công văn số 8844/NHNN-CSTT ngày 14/11/2011 liên quan đến hoạt động tín dụng trong các tháng cuối năm 2011 Ngoài ra, các văn bản từ NHNN như số 6840/NHNN-TTGSNH ngày 08/10/2012, số 683/NHNN-TTGSNH ngày 28/01/2013, và số 5461/NHNN-TTGSNH ngày 30/07/2013 cũng được nêu rõ để nhấn mạnh sự quan trọng của việc quản lý tín dụng và ổn định kinh tế.
In the article "Competition in Developing the Consumer Credit Market," published in the Banking Journal (2007), Nguyễn Đắc Hưng discusses the dynamics of competition within the consumer credit sector The piece highlights the importance of market development and strategic competition among financial institutions to enhance consumer access to credit For further details, the article can be accessed through the Vietnam Banking Association's website, with the last access noted on March 28, 2014.
1.3.1 Khái niệm và đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng
1.3.1.1 Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng
Pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng (HĐTDTD) là một lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, tập trung vào việc đảm bảo quyền lợi cho người vay Lĩnh vực này không chỉ liên quan đến quyền lợi của người đi vay mà còn gắn liền với tín dụng tiêu dùng và các khái niệm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng Để hiểu rõ về pháp luật này, cần nghiên cứu các khái niệm liên quan đến người đi vay, tín dụng tiêu dùng, HĐTDTD và pháp luật nói chung.
Pháp luật là những quy tắc do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh hành vi con người và có tính cưỡng chế Trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng (HĐTDTD), pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay và các bên liên quan, đảm bảo thực thi theo một trật tự xã hội nhất định Đây là một phần của hệ thống pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, vừa mang đặc điểm chung của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, vừa có những đặc thù riêng liên quan đến tín dụng tiêu dùng Do đó, để hiểu rõ về pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong HĐTDTD, cần có cái nhìn tổng quát về pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng là tập hợp các quy phạm hướng dẫn hành vi của các chủ thể liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Tại Việt Nam, pháp luật này được hiểu là một hệ thống pháp luật liên quan, trong đó các đạo luật riêng rẽ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chỉ có giá trị tiên phong Để đảm bảo tối đa quyền lợi cho người tiêu dùng, các luật chuyên ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ trong từng lĩnh vực Khái niệm này nhấn mạnh đến hình thức biểu hiện bề ngoài của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.
Khi phân tích pháp luật thực định của Việt Nam, có thể thấy rõ hình thức biểu hiện trong việc bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng.
Hiện nay, vấn đề tín dụng tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi của người vay tại Việt Nam vẫn thiếu một hệ thống pháp luật thống nhất và đồng bộ Các quy định về cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan trong từng trường hợp cụ thể chưa được thiết lập rõ ràng, gây khó khăn cho việc thực thi quyền lợi của người tiêu dùng.
Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng (HĐTDTD) hiện chưa được ghi nhận trong bất kỳ văn bản pháp lý nào.
Pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng (HĐTDTD) là tập hợp các quy định do Nhà nước ban hành nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người vay khi ký kết và thực hiện HĐTDTD với các tổ chức tín dụng (TCTD) Các quy định này chủ yếu được quy định trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và phân tán trong các văn bản pháp luật tín dụng ngân hàng Cho vay tiêu dùng được coi là một hình thức cho vay đặc thù, vì vậy, pháp luật về hoạt động cho vay tiêu dùng bao gồm cả quy định chung về cho vay và những văn bản liên quan đến cho vay tiêu dùng Những văn bản như Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và các quyết định liên quan đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay tiêu dùng, tuy nhiên, chưa có điều khoản nào quy định riêng về cho vay tiêu dùng mà cho phép các TCTD tự xây dựng quy định riêng dựa trên các quy định chung về cho vay.
1.3.1.2 Đặc điểm của pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng
Thứ nhất, pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ
HĐTDTD là một phần quan trọng trong hệ thống pháp luật, liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và điều chỉnh các hợp đồng tín dụng Luật này nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người tiêu dùng trong các giao dịch tín dụng, tạo ra một môi trường an toàn và minh bạch.
BVQLNTD năm 2010 đóng vai trò tiên phong trong việc bảo vệ người đi vay, cùng với các luật chuyên ngành như Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và Luật Thương mại 2005 Pháp luật này dựa trên nền tảng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhưng chỉ áp dụng trong mối quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng (HĐTDTD), do đó có những nét tương đồng nhưng cũng mang đặc thù riêng của lĩnh vực tín dụng tiêu dùng Hệ thống pháp luật này phản ánh tính chuyên ngành hẹp của hoạt động tín dụng, khẳng định đây là lĩnh vực dịch vụ chuyên biệt với những yêu cầu và quy định riêng.
Thứ hai, vì pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ
HĐTDTD được xây dựng dựa trên pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhưng chỉ áp dụng trong phạm vi quan hệ HĐTDTD Pháp luật về hợp đồng tín dụng quy định rõ ràng hành vi của hai bên trong hợp đồng, bao gồm các hành vi được phép và không được phép Trong khi đó, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng chủ yếu tập trung vào quyền lợi của người tiêu dùng mà không can thiệp sâu vào hành vi của nhà sản xuất Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng trong các giao dịch mua bán Pháp luật bảo vệ quyền lợi người đi vay trong HĐTDTD quy định nghĩa vụ của TCTD phải đảm bảo quyền lợi của người vay theo luật bảo vệ người tiêu dùng Chẳng hạn, quyền được cung cấp thông tin chính xác và đầy đủ theo Điều 8 Luật BVQLNTD năm 2010 được thể hiện qua nghĩa vụ của TCTD trong việc cung cấp thông tin khi khách hàng yêu cầu.
Theo Nguyễn Như Phát (2010), trong bài viết "Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng", các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng vay rất nghiêm ngặt Nếu vi phạm, cá nhân hoặc tổ chức có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đến 60 triệu đồng.
Thứ ba, “người đi vay” trong quan hệ HĐTDTD được xác định chính là
Theo định nghĩa của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, người tiêu dùng là cá nhân, gia đình hoặc tổ chức mua hàng hóa và sử dụng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hoặc phục vụ cho mục đích kinh doanh Mỗi quốc gia có tiêu chí và định nghĩa khác nhau về người tiêu dùng, chủ yếu dựa vào tư cách chủ thể và mục đích sử dụng Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng của cá nhân, gia đình, tổ chức Trong bối cảnh hợp đồng tín dụng tiêu dùng, người đi vay có thể được coi là người tiêu dùng khi họ cần vốn từ ngân hàng để đáp ứng nhu cầu mua sắm nhưng chưa có đủ tài chính ngay lập tức.
Thực trạng các sai phạm của ngân hàng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng
DÙNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng (HĐTDTD) bao gồm các quy phạm nằm rải rác trong các văn bản pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và tín dụng tiêu dùng Nội dung chính của pháp luật này tập trung vào nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước Bài viết sẽ phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này, bao gồm việc vi phạm pháp luật của ngân hàng - với trọng tâm là một ngân hàng điển hình - và tình hình quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ HĐTDTD.
2.1 Thực trạng các sai phạm của ngân hàng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng
2.1.1 Các vi phạm về hình thức hợp đồng tín dụng tiêu dùng
2.1.1.1 Hình thức trình bày của hợp đồng không thuận lợi cho người đi vay
Theo Quy chế cho vay của TCTD, hợp đồng tín dụng phải được lập bằng văn bản Tuy nhiên, nhiều mẫu hợp đồng do ngân hàng phát hành vi phạm quy định về cỡ chữ Mặc dù luật không quy định phông chữ cụ thể, nhưng cỡ chữ tối thiểu phải là 12 Thực tế cho thấy hầu hết các hợp đồng mẫu đều sử dụng cỡ chữ nhỏ, trình bày dày đặc và khó đọc, gây khó khăn cho khách hàng trong việc nắm bắt thông tin.
Theo Điều 17 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, việc cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng phải được thực hiện thông qua hợp đồng tín dụng Hợp đồng này cần bao gồm các nội dung quan trọng như điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và các cam kết khác mà hai bên đã thỏa thuận.
Khoản 1 Điều 7 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP quy định rằng hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung cần phải được lập thành văn bản và phải đáp ứng các yêu cầu chung cụ thể.
1 Ngôn ngữ sử dụng bằng tiếng Việt, nội dung phải rõ ràng, dễ hiểu; cỡ chữ ít nhất là 12
2 Nền giấy và màu mực thể hiện nội dung hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung phải tương phản nhau”
Hợp đồng mẫu trong Phụ lục số 02 của luận văn được thiết kế với chữ nhỏ và khoảng cách giữa các dòng quá hẹp, gây cảm giác khó đọc cho người vay tiêu dùng Điều này khiến họ thường ngại đọc từng dòng chữ nhỏ, trong khi đó, người vay chủ yếu dựa vào sự tư vấn và trao đổi trực tiếp với nhân viên tín dụng của ngân hàng.
2.1.1.2 Sử dụng thuật ngữ chuyên môn khó hiểu trong hợp đồng
Hợp đồng tín dụng tiêu dùng thường có nội dung đơn giản, phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân, không như các hợp đồng tín dụng phức tạp cho tổ chức Các ngân hàng có thể giải thích thuật ngữ chuyên ngành trong một mục riêng hoặc không, tùy thuộc vào mức độ hiểu biết của khách hàng Mặc dù người vay tiêu dùng có thể hiểu biết tương đối, nhiều thuật ngữ như “khấu giữ” hay “văn bản không hủy ngang” vẫn có thể khó hiểu đối với họ Điều này đặc biệt đúng với các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam như HSBC và Standard Chartered Do đó, tiêu chí về ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu trong hợp đồng chưa được đảm bảo theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các nghị định liên quan.
2.1.2 Các vi phạm chung về nội dung hợp đồng tín dụng tiêu dùng
2.1.2.1 Quy định không rõ ràng, thiếu minh bạch các điều khoản trong hợp đồng
Nội dung hợp đồng mẫu do ngân hàng phát hành thường chứa nhiều điều khoản không rõ ràng và minh bạch, không đáp ứng tiêu chí bảo vệ người tiêu dùng theo quy định pháp luật Sự thiếu cụ thể trong các điều khoản khiến người đi vay dễ dàng hiểu sai hoặc hiểu theo nhiều cách khác nhau Hơn nữa, ngôn ngữ phức tạp và rườm rà mà ngân hàng sử dụng trong hợp đồng tín dụng tiêu dùng cũng gây khó khăn cho người đọc.
75 Xem Phụ lục số 03 ở cuối luận văn
Theo Khoản 2 Điều 14 Luật BVQLNTD năm 2010 và Khoản 1 Điều 7 NĐ số 99/2011/NĐ-CP, người vay thường thiếu kiên nhẫn để đọc hiểu toàn bộ hợp đồng tín dụng Ví dụ, trong hợp đồng của ngân hàng HD Bank, Điều 3.3 quy định rằng “lãi suất phạt bằng 150% của lãi suất đang áp dụng” được tính trên số tiền trả góp và lãi quá hạn từ ngày đến hạn đến khi thanh toán đầy đủ Cách diễn đạt dài dòng và phức tạp khiến người đọc khó tiếp cận, đặc biệt là quy định về "lãi suất phạt" cần được làm rõ là phạt do trả nợ quá hạn Các ngân hàng có vốn nước ngoài thường sử dụng câu chữ phức tạp hơn so với ngân hàng thương mại trong nước Chẳng hạn, Phụ lục các điều kiện vay tiêu dùng của ngân hàng TNHH MTV Standard Chartered Việt Nam có nhiều điều khoản dài, thiếu dấu chấm câu, khiến người đọc khó theo dõi, như Điều 13 của phụ lục này có đoạn đầu dài và khó hiểu, chỉ sử dụng dấu chấm câu ở cuối đoạn.
2.1.2.2 Sử dụng các điều kiện, điều khoản không tương xứng về quyền và nghĩa vụ của các bên gây bất lợi, ép buộc người đi vay
Ngân hàng TNHH MTV Standard Chartered Việt Nam áp dụng các quy định không công bằng trong hợp đồng vay tiêu dùng cá nhân, cho phép ngân hàng thực hiện các hành vi mà không cần sự đồng ý hay giải thích cho bên vay Cụ thể, trong các điều khoản như mục 4.4, mục 5.11 và mục 9.1(h), ngân hàng có quyền hành xử theo ý chí của mình mà không cần xem xét nguyên nhân vi phạm của người vay, dù là vô ý hay cố ý Các quy định tại mục 14.2 về việc chấm dứt khoản vay và mục 15.2 về miễn trách nhiệm của ngân hàng cũng thể hiện tính chất vô lý, khi ngân hàng có quyền hủy bỏ khoản vay mà không cần lý do hay thông báo trước, đồng thời không chịu trách nhiệm về bất kỳ tổn thất nào liên quan đến việc thay đổi hoặc chấm dứt khoản vay.
77 Xem Phụ lục số 01 ở cuối luận văn
78 Xem Phụ lục số 03 ở cuối luận văn
Phụ lục số 03 trong luận văn đề cập đến các quy định của ngân hàng, trong đó nổi bật là việc sử dụng ngôn từ mang tính quyền lực, như "ngân hàng, theo quyền xác định tuyệt đối của mình" Điều này cho thấy sự khẳng định quyền lực và vai trò quyết định của ngân hàng trong các quy định này.
“không cần đưa ra bất kỳ lý do gì”, “ngay lập tức”, “không cần thông báo trước”,
Trong hợp đồng, ngân hàng thường sử dụng các cụm từ như “không chịu trách nhiệm cho bất kỳ tổn thất, thiệt hại nào”, “tại bất kỳ thời điểm nào” và “là chung thẩm, cuối cùng” để bảo vệ quyền lợi của mình Tuy nhiên, những từ ngữ này hầu như không được áp dụng khi đề cập đến quyền của người đi vay.
Để thuận lợi cho việc thu hồi nợ, các ngân hàng thường yêu cầu người vay thực hiện một số nghĩa vụ, như việc trích lương và các khoản thu nhập khác để trả nợ theo hợp đồng Tuy nhiên, quy định này cho thấy ngân hàng không cần xin ý kiến của người vay, điều này có thể bị coi là sự áp đặt và thiếu tôn trọng quyền được góp ý của khách hàng.
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng quy định rằng các điều khoản trong hợp đồng giao kết với người tiêu dùng sẽ không có hiệu lực nếu cho phép bên kinh doanh chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ cho bên thứ ba mà không có sự đồng ý của người tiêu dùng Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều hợp đồng tín dụng vẫn bao gồm các điều khoản vi phạm quy định này, như trường hợp Ngân hàng ACB có quyền chuyển nhượng hoặc ủy thác hợp đồng mà không cần sự chấp thuận của bên vay Điều này cho thấy sự cần thiết phải tăng cường giám sát và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong các giao dịch tài chính.
2.1.2.3 Ngân hàng có quyền đơn phương thay đổi các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng tiêu dùng, ngân hàng thường xuyên điều chỉnh một số điều khoản đã thỏa thuận với người vay Những thay đổi này đã được các ngân hàng thực hiện nhằm phù hợp với tình hình thực tế và nhu cầu của khách hàng.
80 Điều 9.2 Các điều kiện về việc cấp tín dụng và áp dụng các biện pháp bảo đảm tại ngân hàng TMCP Á Châu, xem Phụ lục số 01 ở cuối luận văn
81 Khoản 1.i Điều 16 Luật BVQLNTD năm 2010
82 Xem Điều 7.1 Phụ lục số 02 ở cuối luận văn
Trong hợp đồng vay ngân hàng, thường có điều khoản cho phép ngân hàng tự ý thay đổi lãi suất mà không cần sự đồng ý của bên vay, chỉ cần thông báo trước Điều này có thể xảy ra do biến động thị trường, quy định của Nhà nước hoặc chính sách nội bộ của ngân hàng Ví dụ, ngân hàng TNHH MTV Standard Chartered Việt Nam quy định rõ ràng trong các điều khoản cho vay rằng lãi suất có thể được điều chỉnh Người vay thường được tư vấn mức lãi suất thấp ban đầu, nhưng sau thời gian ngắn, lãi suất có thể tăng cao, khiến họ cảm thấy bị lừa Một số ngân hàng không ghi rõ quyền thay đổi lãi suất trong hợp đồng, nhưng vẫn thực hiện điều này khi cần thiết.
2.1.2.4 Vi phạm về nghĩa vụ bảo mật thông tin của người đi vay
Thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi của người đi vay
Trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đặc biệt là người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng, thuộc về Chính phủ, với Bộ Công thương là cơ quan chủ chốt Cục Quản lý cạnh tranh, một đơn vị chuyên môn của Bộ Công thương, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm hỗ trợ Bộ trưởng trong việc quản lý nhà nước về quyền lợi người tiêu dùng Do đó, việc phân tích thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng là cần thiết.
Nghị định số 95/2012/NĐ-CP và Nghị định 99/2011/NĐ-CP quy định chức năng và nhiệm vụ của Bộ Công thương, đồng thời hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) năm 2010 Bài viết phân tích thực trạng hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh trong việc bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt là người vay tiêu dùng, từ năm 2011 đến nay Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người vay tiêu dùng vẫn còn hạn chế và chưa được chú trọng như các lĩnh vực khác ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng con người Các hoạt động quản lý này cần được cải thiện để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.
2.2.1 Công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng
Hiện tại, chưa có văn bản pháp luật nào quy định trực tiếp về bảo vệ người đi vay trong hợp đồng tín dụng tiêu dùng (HĐTDTD) Cục Quản lý cạnh tranh vẫn chưa phối hợp với các cơ quan liên quan để xây dựng các văn bản hướng dẫn bảo vệ người đi vay trong lĩnh vực này Công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) năm 2010, như Nghị định số 99/2011/NĐ-CP và Nghị định số 19/2012/NĐ-CP, tuy không quy định trực tiếp về bảo vệ người đi vay nhưng vẫn có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền lợi của họ.
Việc kiểm soát mẫu hợp đồng theo hình thức điện tử (HĐTDTD) cần được xem xét kỹ lưỡng, đặc biệt là trong bối cảnh Quyết định số 02/2012/QĐ-Ttg ngày 13/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu yêu cầu đăng ký hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục Tuy nhiên, việc triển khai xây dựng Đề án liên quan đến vấn đề này vẫn chưa được thực hiện.
2.2.2 Công tác thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng
105 Cục Quản lý cạnh tranh (2013), Báo cáo hoạt động Cục Quản lý cạnh tranh 2013, tr.54
Công tác này gồm 2 hoạt động:
- Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của người vay tiêu dùng
Từ năm 2011 đến 2013, Cục Quản lý cạnh tranh đã tiếp nhận và hỗ trợ giải quyết 106 khiếu nại của người tiêu dùng liên quan đến nhiều sản phẩm và dịch vụ khác nhau Đáng chú ý, hầu hết các khiếu nại tập trung vào lĩnh vực sức khỏe và tiêu dùng, như xe cộ và thực phẩm, trong khi lĩnh vực tín dụng tiêu dùng của các ngân hàng và tổ chức tín dụng vẫn chưa ghi nhận vụ việc nổi bật nào.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người vay tiêu dùng
Cục Quản lý cạnh tranh thường xuyên tổ chức các hoạt động thanh tra, kiểm tra vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phối hợp với các Sở Công thương các tỉnh, thành phố để kiểm tra hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân Tuy nhiên, các hoạt động này chủ yếu tác động đến kinh doanh chung, chưa trực tiếp ảnh hưởng đến lĩnh vực cho vay tiêu dùng của ngân hàng Đến nay, Cục vẫn chưa thực hiện hoặc đề xuất thanh tra kiểm tra nào về hoạt động cho vay, đặc biệt là cho vay tiêu dùng, có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của người đi vay.
2.2.3 Hoạt động kiểm soát các mẫu hợp đồng tín dụng tiêu dùng của ngân hàng, tổ chức tín dụng
Hợp đồng tín dụng tiêu dùng của ngân hàng và TCTD là loại hợp đồng mẫu không thuộc phạm vi đăng ký theo Quyết định số 02/2012/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ Trách nhiệm của Cục Quản lý cạnh tranh chỉ dừng lại ở việc kiểm tra tính hợp pháp của các hợp đồng này, nhưng đến nay, Cục vẫn chưa tiến hành rà soát hệ thống hoặc riêng lẻ các mẫu hợp đồng để phát hiện vi phạm trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của người đi vay.
2.2.4 Các hoạt động hỗ trợ thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi của người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng
- Phát triển mạng lưới các cơ quan, tổ chức có liên quan về bảo vệ quyền lợi của người vay tiêu dùng
106 Cục Quản lý cạnh tranh (2013), Báo cáo hoạt động Cục Quản lý cạnh tranh 2013, tr.24
Ngoài vai trò của cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội bảo vệ người tiêu dùng cũng có trách nhiệm quan trọng và được pháp luật quy định rõ ràng Tuy nhiên, các tổ chức này hiện vẫn còn thiếu hụt và yếu kém trong việc bảo vệ quyền lợi của người vay tiêu dùng, chủ yếu tập trung vào việc bảo vệ người tiêu dùng nói chung Hiện tại, cả nước có 48 Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp tỉnh và 1 Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trung ương (Vinatas).
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo vệ quyền lợi của người vay tiêu dùng
Trong những năm qua, công tác tuyên truyền pháp luật bảo vệ người tiêu dùng đã diễn ra đa dạng và phong phú, với nhiều hình thức như tổ chức hội thảo trên toàn quốc và địa phương cho người tiêu dùng và doanh nghiệp, cũng như các sự kiện hưởng ứng Ngày Quyền của Người Tiêu Dùng Thế Giới 15/3 Tuy nhiên, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật bảo vệ người vay tiêu dùng vẫn gặp nhiều hạn chế, khi chưa tập trung vào lĩnh vực này mà lại bao quát cả lĩnh vực ngân hàng Trong năm 2012 và 2013, Cục Quản lý cạnh tranh đã phối hợp với các cơ quan chuyên ngành tổ chức lớp tập huấn cho doanh nghiệp ngân hàng về kiểm soát hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung Cục cũng đã tổ chức hội thảo chuyên đề về bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và tài chính, từ đó cải thiện quyền lợi của người vay tiêu dùng.
Tổng đài hỗ trợ và website bảo vệ người tiêu dùng là hai công cụ quan trọng mà Cục Quản lý cạnh tranh triển khai nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Hai kênh này không chỉ cung cấp thông tin và hỗ trợ trực tiếp cho người tiêu dùng mà còn phục vụ như nguồn thông tin hữu ích cho cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội Tổng đài hỗ trợ người tiêu dùng (Call center) đã giúp người vay tiêu dùng tra cứu và nhận tư vấn về các hoạt động bảo vệ quyền lợi, đồng thời tiếp nhận và hỗ trợ các yêu cầu của họ.
107 Cục Quản lý cạnh tranh (2013), Báo cáo hoạt động Cục Quản lý cạnh tranh 2013, tr.27
108 Cục Quản lý cạnh tranh (2012), Báo cáo hoạt động Cục Quản lý cạnh tranh 2012, tr.32
Cục Quản lý cạnh tranh (2013), Báo cáo hoạt động Cục Quản lý cạnh tranh 2013, tr.30
Nhiều cuộc gọi từ người tiêu dùng đã được ghi nhận, cho thấy rằng mặc dù các yêu cầu giải đáp và khiếu nại của người vay tiêu dùng không chiếm đa số, nhưng chúng vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của họ Website bảo vệ người tiêu dùng, http://bvntd.vca.gov.vn, cung cấp thông tin chính thức về quyền lợi người tiêu dùng, tuy nhiên, vấn đề bảo vệ người vay tiêu dùng vẫn chưa được đề cập một cách đầy đủ và thường xuyên trên trang này.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng
Các chương trình hợp tác trong khối ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ
Trong năm 2012 và 2013, Cục Quản lý cạnh tranh đã thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ bảo vệ người tiêu dùng, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm từ các nước khác Mặc dù những hoạt động này chưa có tác động trực tiếp đến việc bảo vệ người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng, nhưng chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện và xây dựng pháp luật bảo vệ người vay tiêu dùng trong tương lai.
Trong những năm qua, các hoạt động bảo vệ người đi vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng tiêu dùng của Cục Quản lý cạnh tranh và Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được ghi nhận, nhưng vẫn thiếu sự quan tâm từ các cơ quan quản lý nhà nước Công tác này thường được xem xét trong bối cảnh rộng hơn của lĩnh vực tài chính, bao gồm ngân hàng, bảo hiểm và kiểm soát hợp đồng mẫu, mà không được tách biệt ra thành một lĩnh vực riêng Hiện tại, Cục Quản lý cạnh tranh chưa tiến hành khảo sát điều tra các hợp đồng mẫu của ngân hàng và tổ chức tín dụng để phát hiện và tổng hợp các vi phạm Điều này dẫn đến sự bức xúc trong đại bộ phận người dân về lĩnh vực cho vay tiêu dùng, nhưng vẫn chưa được các cơ quan chức năng làm rõ.