1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong việc phá sản (2)

73 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 73
Dung lượng 1,37 MB

Cấu trúc

  • TRẦN THỊ THÚY

  • MỤC LỤC

  • LỜI MỞ ĐẦU 1

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • 2.1. Quyền của chủ nợ trong giai đoạn nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

  • 2.2. Quyền của chủ nợ trong giai đoạn mở thủ tục phá sản

  • 2.3. Quyền của chủ nợ trong giai đoạn phục hồi hoạt động kinh doanh

  • 2.4. Quyền của chủ nợ trong giai đoạn thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ

  • 2.5. Quyền của chủ nợ trong giai đoạn tuyên bố phá sản

Nội dung

H I QU T VỀ CHỦ NỢ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ẢO VỆ QU ỀN ỢI CỦ CHỦ NỢ TRONG QU TR NH GIẢI QU ẾT U CẦU MỞ THỦ TỤC PH SẢN

Chủ nợ

Khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản, quyền lợi của chủ nợ sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên Do đó, việc hiểu rõ khái niệm chủ nợ, phân loại các loại chủ nợ theo pháp luật hiện hành và quyền lợi của từng loại là rất quan trọng Điều này không chỉ giúp các chủ nợ có cơ chế tự bảo vệ mà còn ngăn chặn sự tùy tiện từ những chủ thể áp dụng pháp luật.

Khi một chủ thể được xác định là chủ nợ của doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) đang trong tình trạng phá sản, họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ đặc biệt mà những người không phải là chủ nợ không có, bao gồm quyền nộp đơn yêu cầu khởi động quá trình phá sản, tham gia hội nghị chủ nợ, và quyền ưu tiên thanh toán từ tài sản của DN hoặc HTX con nợ.

Theo từ điển tiếng Việt phổ thông (2002): chủ nợ là “người cho vay nợ hoặc bán chịu hàng hóa trong quan hệ với con nợ” 5

Mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ được hình thành từ hợp đồng vay tài sản hoặc hợp đồng mua bán, trong đó bên bán trở thành chủ nợ khi bên mua chưa thanh toán tiền hàng Chủ nợ có quyền yêu cầu con nợ thực hiện các nghĩa vụ tài sản nhất định liên quan đến khoản nợ chưa thanh toán.

Theo từ điển bách khoa Việt Nam (1995), chủ nợ là người cho vay tiền hoặc tài sản cho con nợ Khi đến hạn, chủ nợ có quyền yêu cầu con nợ hoàn trả một số tiền, tài sản hoặc dịch vụ nhất định.

Theo từ điển Luật học (2006), chủ nợ được định nghĩa là người cho tổ chức hoặc cá nhân khác vay tiền hoặc hiện vật Khi đến hạn, chủ nợ có quyền yêu cầu con nợ hoàn trả khoản vay cùng với lãi suất Chủ nợ giữ vai trò quan trọng trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, đặc biệt là trong hợp đồng vay.

Theo khái niệm này, mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ được thiết lập thông qua hợp đồng vay tài sản Tuy nhiên, nếu chỉ hiểu theo nghĩa này, khái niệm chủ nợ vẫn chưa phản ánh đầy đủ như định nghĩa trong từ điển tiếng Việt (2002).

5 Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB TP Hồ Chí Minh, tr.161

Trong Luật Phá sản (LPS) của nhiều quốc gia, chủ nợ được định nghĩa là các cá nhân hoặc tổ chức có khoản nợ chưa được thanh toán đúng hạn Điều này bao gồm cả các chủ nợ có bảo đảm, nhưng chỉ áp dụng cho phần nợ vượt quá giá trị tài sản bảo đảm mà họ đang nắm giữ.

Tuy nhiên, LPS 2004 chỉ đưa ra khái niệm về các loại chủ nợ Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của chủ nợ

Theo tác giả, khái niệm chủ nợ trong Luật Phá sản cần được định nghĩa một cách tổng quát nhằm không bỏ sót các khoản nợ và dễ dàng tiếp cận Thay vì xây dựng khái niệm cho từng loại chủ nợ, LPS nên tập trung vào việc phân loại khoản nợ thành hai loại: khoản nợ được bảo đảm và khoản nợ không được bảo đảm Như vậy, sẽ có hai loại chủ nợ: chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm và chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm.

Theo tác giả, khoản nợ được bảo đảm là khoản nợ có tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba làm đảm bảo, trong khi khoản nợ không được bảo đảm không có tài sản bảo đảm Thời điểm xác định tính chất của khoản nợ là khi chủ nợ gửi giấy đòi nợ hoặc khi khoản nợ đến hạn.

Trong thủ tục phá sản, các chủ nợ có quyền lợi bình đẳng, nhưng không phải ai cũng có quyền lợi giống nhau Việc phân loại chủ nợ thành chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần là rất quan trọng, vì quyền lợi của họ khác nhau ở từng giai đoạn của quy trình giải quyết phá sản Chủ nợ có bảo đảm không được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nhưng được ưu tiên thanh toán bằng tài sản bảo đảm, trong khi chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, mặc dù thứ tự thanh toán của họ thấp hơn đối với phần nợ không được bảo đảm Do đó, việc xác định loại hình chủ nợ là cần thiết để rõ ràng quyền và nghĩa vụ của họ trong quá trình phá sản.

Khác với LPS của các nước trên thế giới, LPS của Việt Nam chia chủ nợ thành

3 loại: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, và chủ nợ không có bảo đảm.Cụ thể, tại Điều 6 LPS 2004 quy định:

8 PGS Hoàng Công Thi (1993), Phá sản và xử lý phá sản ở các nước và Việt Nam, Viện khoa học tài chính

Chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của DN,

HTX hoặc của người thứ ba

Theo luật pháp của nhiều quốc gia, chủ nợ có bảo đảm được định nghĩa là người giữ tài sản cầm cố (tài sản thế chấp) của doanh nghiệp hoặc con nợ, hoặc có các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của người vay (doanh nghiệp).

Tài sản thế chấp có thể là động sản hoặc bất động sản, và giá trị của nó thường được xác định theo giá thị trường Số tiền vay thường thấp hơn giá trị tài sản thế chấp Tại Thụy Điển, các loại động sản như cổ phiếu và trái phiếu không được phép dùng làm tài sản thế chấp Ngược lại, một số quốc gia cho phép sử dụng chứng khoán làm tài sản thế chấp, nhưng giá trị của chúng sẽ bị chiết giảm từ 80% đến 90% Đối với chứng khoán dài hạn có bảo lãnh, giá trị giảm còn 80%, trong khi các chứng khoán dài hạn khác chỉ còn 50% đến 70% giá trị.

Pháp luật Việt Nam quy định tại Điều 4 và 5 Nghị định 163/2006/NĐ-CP rằng tài sản bảo đảm có thể do các bên thoả thuận, thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ hoặc của bên thứ ba cam kết sử dụng Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai, và phải được phép giao dịch Ngoài ra, Điều 5 cũng cho phép một tài sản được dùng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ, với giá trị tài sản có thể lớn, bằng hoặc nhỏ hơn tổng giá trị các nghĩa vụ.

Chủ nợ có bảo đảm một phần là những chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của bên thứ ba, tuy nhiên giá trị tài sản bảo đảm lại thấp hơn khoản nợ Quy định này tạo ra hai cách hiểu khác nhau về tình trạng bảo đảm nợ.

Để xác định loại hình chủ nợ, cần xem xét giá trị tài sản bảo đảm Nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn hoặc bằng khoản nợ, chủ nợ được coi là chủ nợ có bảo đảm Ngược lại, nếu giá trị tài sản bảo đảm nhỏ hơn khoản nợ, chủ nợ sẽ được xem là chủ nợ có bảo đảm một phần.

Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và các nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản

1.2.1 Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản

Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật về phá sản đóng vai trò quan trọng, giúp đảm bảo sự vận hành trôi chảy của nền kinh tế Đối với các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, luật phá sản cung cấp cơ hội để khôi phục hoạt động kinh doanh hoặc rút lui một cách có trật tự Đối với chủ nợ, luật này tạo điều kiện cho họ lựa chọn phương án tối ưu nhằm bảo toàn nguồn vốn Hơn nữa, luật phá sản cũng bảo vệ quyền lợi của công nhân khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản.

Khi doanh nghiệp hoặc hợp tác xã gặp phải tình trạng phá sản, chủ nợ là những người đầu tiên có nguy cơ mất trắng khoản tín dụng đã cung cấp Hơn nữa, sự phá sản này thường dẫn đến hiệu ứng dây chuyền, làm ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp khác Do đó, việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ không chỉ quan trọng mà còn liên quan chặt chẽ đến việc duy trì sự ổn định của nền kinh tế.

Nhiều doanh nghiệp thực hiện hành vi kinh doanh mạo hiểm hoặc chiếm dụng vốn của chủ nợ, dẫn đến việc lợi ích của chủ doanh nghiệp được ưu tiên hơn Điều này khiến mục đích đầu tư của chủ nợ bị đe dọa, không chỉ vì không thu hồi được lợi nhuận mà còn có nguy cơ mất trắng vốn đầu tư ban đầu Không ai muốn đầu tư mà lại nhận lại ít hơn số vốn đã bỏ ra.

Nếu tình trạng này tiếp diễn, các nhà đầu tư lớn sẽ ngần ngại đầu tư vào doanh nghiệp, dẫn đến sự kém phát triển của nền kinh tế quốc gia.

Pháp luật phá sản đã xác định lợi ích của chủ nợ là ưu tiên hàng đầu từ khi ra đời Khi doanh nghiệp không còn khả năng thanh toán nợ, chủ nợ có quyền khởi động thủ tục phá sản như một biện pháp đòi nợ đặc biệt Trong quá trình giải quyết, pháp luật cung cấp các cơ chế để bảo vệ tối đa quyền lợi của chủ nợ, bao gồm việc kiểm tra, giám sát hoạt động của con nợ, tham gia vào các vấn đề liên quan đến quyền lợi của mình, và khiếu nại các quyết định của Tòa án Tất cả những điều này nhằm tối đa hóa khả năng thu hồi nợ cho chủ nợ.

1.2.2 Các nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ là một vấn đề quan trọng đã được đề cập từ Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 đến Luật Phá sản hiện hành Việc bảo vệ này không chỉ mang tính tạm thời mà đã trở thành nguyên tắc xuyên suốt trong các quy định pháp luật về phá sản, nhằm đảm bảo quyền lợi của chủ nợ một cách hiệu quả và thiết thực Dù Luật Phá sản năm 2004 chưa cụ thể hóa tư tưởng này thành hệ thống nguyên tắc rõ ràng, nhưng qua các điều luật, có thể thấy rõ quan điểm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ Quy định này giúp hạn chế việc áp dụng tùy tiện từ các cơ quan thực thi pháp luật và cung cấp cho chủ nợ cơ chế tự bảo vệ hiệu quả Các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ cần được xác định rõ ràng để đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình giải quyết các vụ việc phá sản.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, được quy định tại Điều 12 Hiến pháp 1992, khẳng định rằng Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và liên tục tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa Đây là nguyên tắc nền tảng của hệ thống pháp luật Việt Nam, yêu cầu tất cả các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt.

Tuân thủ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là rất quan trọng, vì nó bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và các bên liên quan, đồng thời đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ pháp luật phá sản Nguyên tắc này đóng vai trò then chốt trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật phá sản Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các nguyên tắc pháp lý khác.

Hai là, nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ nợ Điều 52 Hiến pháp 1992 quy định: “Mọi công dân đều có quyền đẳng trước pháp luật”

Theo Hiến pháp và pháp luật phá sản, nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ nợ được thừa nhận, đặc biệt là giữa các chủ nợ cùng loại Luật pháp Việt Nam không công nhận bất kỳ sự đặc quyền nào cho bất kỳ đối tượng nào Tất cả các chủ nợ đều có quyền đòi nợ và quyền khiếu nại các quyết định của Tòa án, tổ quản lý và thanh lý tài sản ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.

Chủ nợ không chỉ có quyền bình đẳng mà còn có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật phá sản Tuy nhiên, sự bình đẳng này không đồng nghĩa với việc tất cả chủ nợ đều giống nhau, mà còn phụ thuộc vào từng loại chủ thể Chẳng hạn, chỉ những chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần mới có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp hoặc hợp tác xã khi nhận thấy cần thiết.

Khi doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) gặp khó khăn tài chính và lâm vào tình trạng phá sản, các chủ nợ có bảo đảm không có quyền ưu tiên thanh toán Điều này sẽ được giải thích chi tiết trong chương sau Theo quy định về thứ tự thanh toán, người lao động được ưu tiên thanh toán trước tiên Việc này xuất phát từ vị trí của họ trong DN, HTX, khi mà họ chỉ là những người lao động làm công ăn lương, do đó, việc ưu tiên thanh toán cho họ là hoàn toàn hợp lý.

Tóm lại, đây là một nguyên tắc quan trọng, mang bản chất của pháp luật phá sản

Vì vậy nó cần phải được tuân thủ

Ba là, nguyên tắc hòa giải

Pháp luật phá sản đặt ra vấn đề hòa giải giữa chủ nợ và con nợ nhằm bảo vệ quyền tự do sản xuất, kinh doanh Hòa giải chỉ cần thiết khi có khả năng đạt được kết quả; nếu không, sự can thiệp của cơ quan Nhà nước mới được xem xét Nguyên tắc này thể hiện rõ trong Hội nghị chủ nợ, nơi các bên có thể thỏa thuận phương án phục hồi, giúp doanh nghiệp, hợp tác xã con nợ tránh được tình trạng phá sản Điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của các bên mà còn giảm thiểu thiệt hại cho xã hội Nếu hòa giải không thành công, việc phá sản trở thành điều tất yếu.

Nguyên tắc này nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, đảm bảo sự khách quan và công bằng trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và hợp tác xã Việc thực hiện nguyên tắc này một cách hiệu quả sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch trong quá trình xử lý các vụ việc phá sản.

Nguyên tắc làm việc tập thể là đặc trưng của pháp luật phá sản, thể hiện tính chất đặc biệt trong quá trình giải quyết phá sản Đây là một thủ tục thanh toán nợ tập trung, nhằm đảm bảo công bằng giữa các chủ nợ Trong quá trình này, hầu hết các giao dịch thanh toán nợ riêng lẻ bị hạn chế, và việc thanh toán cho các chủ nợ chỉ diễn ra đồng thời khi có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã con nợ.

Hội nghị chủ nợ được tổ chức nhằm đảm bảo tính bình đẳng giữa các chủ nợ, với nguyên tắc làm việc dựa trên sự tập thể Tại hội nghị, các vấn đề sẽ được thảo luận và phải được biểu quyết thông qua để đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên liên quan.

Quyền của chủ nợ trong giai đoạn nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

2.1.1 Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: của chủ nợ, của người lao động (chủ nợ đặc biệt)

2.1.1.1 Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ

Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khởi động quá trình giải quyết phá sản, theo quy định của pháp luật Chỉ những người có quyền lợi liên quan trực tiếp, như chủ nợ, mới có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp hoặc hợp tác xã mắc nợ Quá trình này chủ yếu nhằm giải quyết mối quan hệ tài sản giữa chủ nợ và các bên mắc nợ, với mục tiêu bảo vệ quyền lợi của chủ nợ.

Khoản 1 Điều 7 LPSDN 1993 quy định: “sau thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không được doanh nghiệp thanh toán nợ, chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn đến Toà án nơi đặt trụ sở chính của DN yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản DN”

Trong hơn 9 năm thực hiện nhiệm vụ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo Luật Phá sản Doanh nghiệp (LPSDN) 1993, các Tòa án trên toàn quốc chỉ thụ lý 151 đơn, trong đó chỉ có 46 doanh nghiệp được tuyên bố phá sản Tuy nhiên, số liệu này không phản ánh đúng thực trạng nền kinh tế, bởi thực tế số lượng doanh nghiệp gặp khó khăn và lâm vào tình trạng phá sản lớn hơn rất nhiều so với con số được công nhận.

Số liệu cho thấy rằng việc thụ lý và giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp tại các Tòa án hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế trong việc xử lý các trường hợp phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam.

Nguyên nhân của tình trạng khó khăn trong việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp có thể được lý giải bởi những bất cập trong Luật Phá sản Doanh nghiệp (LPSDN) 1993, đặc biệt là quy định về việc nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản Cụ thể, Điều 7 LPSDN 1993 yêu cầu chủ nợ phải cung cấp các tài liệu chứng minh doanh nghiệp mắc nợ đã mất khả năng thanh toán Tuy nhiên, việc thu thập những tài liệu này là rất khó khăn, vì thông tin chỉ có thể được xác định từ sổ sách kế toán của doanh nghiệp mắc nợ, điều mà chủ nợ không thể tiếp cận.

12 Ths Vũ Thị Hồng Vân (2005), “Quy định của LPS 2004 về nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”, Tạp chí TAND (21), tr.8

Để khắc phục những hạn chế của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004 đã quy định rõ ràng và hợp lý hơn về các đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn, cũng như thủ tục, trình tự và hồ sơ yêu cầu mở thủ tục phá sản Cụ thể, Điều 13 của Luật Phá sản 2004 đã đưa ra các quy định chi tiết liên quan đến vấn đề này.

Khi doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) rơi vào tình trạng phá sản, các chủ nợ, dù có bảo đảm hay không, đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Điều này cho phép chủ nợ không cần cung cấp các giấy tờ chứng minh DN đã mất khả năng thanh toán, mà chỉ cần chứng minh rằng họ đã yêu cầu thanh toán nhưng không nhận được khoản nợ đến hạn từ DN.

Luật Phá sản Dân sự năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004 không cho phép chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, điều này đã gây ra nhiều tranh cãi về tính hợp lý và sự công bằng giữa các chủ nợ Mặc dù một số ý kiến cho rằng quy định này không công bằng, tác giả cho rằng việc không cho phép chủ nợ có bảo đảm nộp đơn là hợp lý, dựa trên những lý do cụ thể mà sẽ được trình bày trong bài viết.

Chủ nợ có bảo đảm được bảo vệ quyền lợi đầy đủ thông qua tài sản thế chấp hoặc cầm cố của doanh nghiệp hoặc người thứ ba Trong trường hợp doanh nghiệp hoặc hợp tác xã gặp khó khăn tài chính và phải tiến hành thủ tục phá sản, các chủ nợ này sẽ được ưu tiên thanh toán từ tài sản đã cầm cố hoặc thế chấp, theo quy định tại Điều 35 Luật Phá sản 2004.

Nếu quy định cho chủ nợ có bảo đảm quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, câu hỏi đặt ra là liệu họ có thực hiện quyền này hay không, khi mà quyền lợi của họ đã được bảo đảm bằng tài sản Quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm chỉ bị đe dọa khi giá trị tài sản giảm sút Trong trường hợp này, họ trở thành chủ nợ có bảo đảm một phần và vẫn có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp hoặc hợp tác xã mắc nợ.

Vì lợi ích của chủ nợ có bảo đảm luôn được bảo vệ trong mọi trường hợp, nên việc quy định quyền nộp đơn cho họ là không cần thiết.

2.1.1.2 Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động

Theo Điều 8 LPSDN 1993, nếu doanh nghiệp không trả lương cho người lao động trong ba tháng liên tiếp, đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động ở nơi chưa có tổ chức công đoàn có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp Sau khi nộp đơn, đại diện này sẽ được coi là chủ nợ và không cần phải nộp tiền tạm ứng lệ phí Tuy nhiên, quy định này không phù hợp và gây nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện.

Để khắc phục hạn chế của Luật Phá sản Doanh nghiệp (LPSDN) 1993 và bảo vệ quyền lợi người lao động, Khoản 1 Điều 14 LPS 2004 quy định rằng khi doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) không thể trả lương và các khoản nợ khác cho người lao động, người lao động có quyền cử đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn để nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX đó.

Luật Phá sản 2004 đã loại bỏ thời hạn nợ lương của doanh nghiệp và hợp tác xã đối với người lao động, cho phép họ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi không được trả lương và các khoản nợ khác Điều này tạo điều kiện cho người lao động bảo vệ quyền lợi của mình trong trường hợp doanh nghiệp hoặc hợp tác xã gặp khó khăn tài chính.

DN, HTX đã thực sự lâm vào tình trạng phá sản

Luật phá sản (LPS) 2004 đã công nhận người lao động là chủ nợ của doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) khi xảy ra nợ nần Tuy nhiên, theo quy định của LPS hiện hành, người lao động không được quyền tự nộp đơn mà phải thông qua đại diện hoặc đại diện công đoàn, dẫn đến quy trình cử người đại diện trở nên phức tạp và khó thực hiện Hệ quả là quyền nộp đơn của người lao động trong DN bị hạn chế và gần như không còn hiệu lực.

Quyền của chủ nợ trong giai đoạn mở thủ tục phá sản

2.2.1 Quyền đƣợc thông báo quyết định mở thủ tục phá sản Đây là một quy định mới so với LPSDN 1993 LPSDN 1993 quy định rất đơn giản tại Điều 15: “Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải được đăng báo địa phương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính và báo hàng ngày của Trung ương trong ba số liên tiếp” Quy định như vậy rất dễ dẫn đến việc các chủ nợ và các chủ thế có liên quan khác không thể biết được về thông báo mở thủ tục phá sản vì những lý do khách quan nào đó

Quyết định mở thủ tục phá sản là bước đầu tiên quan trọng, tạo ra nhiều hệ quả pháp lý cho con nợ, chủ nợ và các bên liên quan Theo Điều 29 LPS 2004, quyết định này phải được gửi đến doanh nghiệp hoặc hợp tác xã gặp khó khăn, Viện kiểm sát cùng cấp, và được công bố trên báo địa phương cũng như báo trung ương trong ba số liên tiếp Đồng thời, thông báo cũng phải được gửi đến các chủ nợ và người mắc nợ của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã trong vòng bảy ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định.

Pháp luật phá sản đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ bằng cách quy định rằng họ có quyền nhận thông báo từ Tòa án về quyết định mở thủ tục phá sản, giúp họ tham gia vào quá trình giải quyết và bảo vệ quyền lợi của mình.

2.2.2 Quyền gửi giấy đòi nợ

Pháp luật phá sản quy định rằng chủ nợ có quyền gửi giấy đòi nợ doanh nghiệp hoặc hợp tác xã mắc nợ cho Tòa án, xuất phát từ nhận thức rằng không ai bảo vệ quyền lợi của mình tốt hơn chính bản thân mình Tuy nhiên, quyền này không phải là tuyệt đối, vì chủ nợ chỉ có thể thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định theo quy định của luật.

Theo Điều 21 LPSDN 1993, trong vòng sáu mươi ngày kể từ ngày công bố quyết định của Toà án về việc mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trên các phương tiện truyền thông, các chủ nợ phải nộp giấy đòi nợ đến Toà án.

Luật Phá sản 2004 quy định rõ ràng hơn so với Luật Phá sản doanh nghiệp 1993, cụ thể tại khoản 1 Điều 51, yêu cầu các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ cho Tòa án trong vòng 60 ngày kể từ ngày công bố quyết định mở thủ tục phá sản Giấy đòi nợ cần nêu rõ các khoản nợ, thời hạn, cũng như tình trạng nợ có bảo đảm và không có bảo đảm Nếu không gửi giấy đòi nợ trong thời hạn này, các chủ nợ sẽ bị coi là từ bỏ quyền đòi nợ Điều này nhấn mạnh tính chất tập thể trong quy trình đòi nợ trong thủ tục phá sản, yêu cầu các chủ nợ phải hành động đồng loạt.

Tác giả cho rằng không nên giới hạn thời gian đòi nợ của chủ nợ như quy định hiện hành của LPS, vì trong nhiều trường hợp, chủ nợ không nắm được thông tin về việc Tòa án mở thủ tục giải quyết phá sản, dẫn đến việc không thể thu hồi nợ Việc không hạn chế thời gian đòi nợ không có nghĩa là kéo dài quá trình này.

"Không giới hạn" nhằm khắc phục tình trạng nhiều chủ nợ chờ đợi một hoặc hai chủ nợ thiểu số không nắm rõ thông tin về doanh nghiệp, hợp tác xã đang trong quá trình phá sản Điều này cũng nhằm nâng cao trách nhiệm của chủ nợ trong việc bảo vệ tài sản của chính họ.

Giấy đòi nợ mà chủ nợ gửi cho Tòa án là căn cứ quan trọng để Tổ quản lý, thanh lý tài sản lập danh sách chủ nợ và số nợ Tuy nhiên, quá trình này gặp nhiều khó khăn, dẫn đến việc kéo dài thời gian mở thủ tục phá sản và ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ Theo Điều 15 LPS, DN, HTX phải cung cấp các tài liệu như báo cáo tình hình hoạt động, các biện pháp tài chính đã thực hiện, bảng kê chi tiết tài sản, danh sách chủ nợ và người mắc nợ Thực tế cho thấy, một số hồ sơ không đầy đủ vẫn được thụ lý, dẫn đến việc Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục phá sản mà không có đủ thông tin Do đó, Tổ quản lý, thanh lý tài sản phải yêu cầu DN làm lại các báo cáo, nhưng thường mất từ hai đến ba tháng mới nhận được tài liệu, kéo dài thời gian giải quyết phá sản Hiện tại, pháp luật chưa quy định rõ các biện pháp chế tài để xử lý khi DN không hợp tác, gây khó khăn cho quá trình thanh lý tài sản.

Công ty TNHH Trung Minh Nghĩa đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản vào ngày 14/5/2005 Tòa án tiếp nhận đơn vào ngày 31/5/2005 và quyết định mở thủ tục vào ngày 28/7/2005 Tuy nhiên, sau một thời gian dài, công ty vẫn chưa thực hiện quyết toán thuế, gây khó khăn cho Tổ quản lý trong việc xác định số nợ và danh sách chủ nợ.

Theo quy định của Luật Phá sản 2004, các doanh nghiệp khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cần phải kèm theo báo cáo tài chính, điều này tạo ra nhiều phức tạp Việc không thực hiện báo cáo tài chính một cách "tích cực" hoặc không cung cấp cho các chủ nợ có thể ảnh hưởng đến quyền nộp đơn của họ Hơn nữa, các quy định của Luật Phá sản có thể "bỏ sót" một số doanh nghiệp, dẫn đến sự không nhất quán trong việc áp dụng pháp luật từ các cơ quan có thẩm quyền.

Theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 15 LPS 2004, chỉ có công ty cổ phần mới bắt buộc thực hiện kiểm toán khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho Tòa án, trong khi các loại hình doanh nghiệp khác, bao gồm doanh nghiệp Nhà nước, không phải thực hiện công việc này.

13 Vũ Thị Hồng Vân (2007), “Một số vấn đề về chủ thể quản lý tài sản phá sản”, Tạp chí TAND (6), tr.21

Bài viết của Phan Thị Minh Tâm (2008) tập trung vào cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong trường hợp phá sản Nghiên cứu này được trình bày trong khoá luận tốt nghiệp cử nhân Luật tại Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, trang 60 Nội dung nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền lợi cho chủ nợ trong các quy trình pháp lý liên quan đến phá sản.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 16 và khoản 1 Điều 89 Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003, các công ty Nhà nước phải thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm theo quy định pháp luật Do đó, khi doanh nghiệp Nhà nước nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, cần gửi kèm theo các báo cáo tài chính đã được kiểm toán Việc này là yêu cầu bắt buộc, mặc dù Điều 15 Luật Phá sản không quy định rõ.

Để áp dụng quy định về kiểm toán trong thủ tục phá sản, các doanh nghiệp (DN) phải tuân thủ các nội dung pháp luật liên quan Cụ thể, những DN bắt buộc phải kiểm toán báo cáo tài chính khi hoạt động kinh doanh cần gửi kèm báo cáo đã được kiểm toán cùng với đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Ngược lại, các DN không thuộc diện phải kiểm toán theo quy định pháp luật sẽ không cần nộp báo cáo tài chính đã kiểm toán.

Quyền của chủ nợ trong giai đoạn phục hồi hoạt động kinh doanh

2.3.1 Quyền tham gia Hội nghị chủ nợ và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ

Theo quy định của Luật Phá sản (LPS) 2004, Hội nghị chủ nợ bao gồm các thành phần như: các chủ nợ có tên trong danh sách, đại diện người lao động, người bảo lãnh đã trả nợ cho doanh nghiệp hoặc hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, và đại diện hợp pháp của con nợ (Điều 62, Điều 63 LPS).

18 Hoàng Minh Hiếu (2004), “Góp ý về dự án LPS (sửa đổi)”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (02), tr.70

2004) Trong quá trình tham gia Hội nghị chủ nợ, các chủ nợ có quyền biểu quyết để thông qua nghị quyết của Hội nghị chủ nợ

Luật Phá sản 2004 đã quy định quyền tham gia và biểu quyết của các chủ nợ tại Hội nghị chủ nợ, nơi quyết định các vấn đề liên quan đến tình trạng phá sản của doanh nghiệp và hợp tác xã Tại đây, doanh nghiệp có thể được xem xét phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc tiến hành thanh lý Hội nghị chủ nợ cũng là diễn đàn cho các bên liên quan thảo luận và thống nhất phương án phục hồi Thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ rất quan trọng, vì nó không chỉ thể hiện vai trò trong quá trình phục hồi mà còn giúp đưa ra những giải pháp hữu ích cho doanh nghiệp.

Luật Phá sản 2004 (LPS 2004) đã trao quyền cho Hội nghị chủ nợ trong việc đề nghị Thẩm phán cử người quản lý và điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã gặp khó khăn, nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ Đây là một bước tiến quan trọng, thể hiện sự chú trọng đến vai trò của Hội nghị chủ nợ trong quy trình phá sản và phục hồi doanh nghiệp Mặc dù LPS 2004 chưa quy định cụ thể về các đối tượng có thể được cử làm người quản lý, nhưng quyền này giúp Hội nghị chủ nợ thực hiện các quyết định hiệu quả hơn Thêm vào đó, Hội nghị chủ nợ cũng có thẩm quyền bầu người đại diện trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản, một tổ chức đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết phá sản, từ đó bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các chủ nợ.

Hội nghị chủ nợ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, đồng thời tạo cơ hội cho doanh nghiệp và hợp tác xã con nợ có khả năng phục hồi và tái sinh.

Hội nghị chủ nợ được coi là hợp lệ theo Điều 65 LPS 2004 khi có đủ hai điều kiện: thứ nhất, quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm tham gia, đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên; thứ hai, các chủ nợ tham gia cần có quyền lợi hợp pháp trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến nợ.

Có sự tham gia của người có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ quy định tại Điều

Theo Điều 63 LPS 2004, khi tính đầu người tham gia Hội nghị chủ nợ, chỉ tính chủ nợ không có bảo đảm, nhưng giá trị khoản nợ lại bao gồm cả nợ không có bảo đảm của chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần Điều này không hợp lý vì chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần là hai loại chủ nợ khác nhau, dẫn đến việc chủ nợ không có bảo đảm có quyền đại diện cho khoản nợ không có bảo đảm của chủ nợ có bảo đảm một phần Hơn nữa, tính hợp lệ của Hội nghị chủ nợ phụ thuộc vào sự có mặt của chủ nợ không có bảo đảm, khiến tiếng nói của chủ nợ có bảo đảm một phần không có giá trị Ví dụ điển hình là Công ty TNHH Bảo Sơn, khi Hội nghị chủ nợ bị hoãn do vắng mặt của chủ nợ lớn nhất, chiếm gần 50% tổng số nợ, điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm một phần.

Mặc dù đã gửi giấy triệu tập hợp lệ, hội nghị chủ nợ lần hai vào ngày 11/10/1999 không đạt đủ số lượng chủ nợ đại diện cho 2/3 tổng số nợ không bảo đảm, dẫn đến việc hội nghị không thành công Sau đó, Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với Công ty TNHH Bảo Sơn 20.

Như vậy, quy định về điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ tại Điều 65 LPS

Năm 2004 đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ nợ, khiến quy định trở nên không hợp lý và có vẻ thụt lùi so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 Theo Điều 29 của Luật này, hội nghị chủ nợ chỉ được coi là hợp lệ khi có sự tham gia của hơn một nửa số chủ nợ, đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm.

Hội nghị chủ nợ được quy định tại Điều 64 LPS 2004, trong đó nội dung các hội nghị tiếp theo do Thẩm phán quyết định Hội nghị chủ nợ lần đầu tiên sẽ thông qua nghị quyết nếu có hơn một nửa các chủ nợ không có bảo đảm và đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm tham gia biểu quyết Theo Điều 13 LPS 2004, chủ nợ có bảo đảm một phần được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và tham gia hội nghị, nhưng không có quyền biểu quyết Điều này dẫn đến việc chủ nợ không có bảo đảm sẽ có tiếng nói quyết định trong việc xử lý nợ của chủ nợ có bảo đảm một phần, gây thiệt thòi cho quyền lợi của họ Quy định này cần được xem xét lại, vì nó ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm một phần và quyền lợi chung của tất cả các chủ nợ.

Vấn đề khúc mắc trong LPS 2004 xuất phát từ quy định thiếu hợp lý về khái niệm các loại chủ nợ, khi không phân biệt rõ giữa chủ nợ có khoản nợ có bảo đảm và không có bảo đảm Nếu LPS đưa ra sự phân loại này, các chủ nợ không có bảo đảm sẽ được tham gia Hội nghị chủ nợ và biểu quyết về lợi ích của mình mà không cần quan tâm đến tư cách chủ nợ Điều này sẽ giúp loại bỏ sự phân biệt giữa các loại chủ nợ và bảo vệ quyền lợi của họ Tuy nhiên, quy định hiện tại tạo ra sự bất bình đẳng và không có cơ chế bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ có bảo đảm một phần Ngoài ra, Điều 67 LPS 2004 quy định về việc Thẩm phán có quyền đình chỉ thủ tục phá sản cũng cần được xem xét.

Theo quy định của LPS 2004, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền rút lại đơn yêu cầu, điều này thể hiện sự bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, vì việc nộp đơn không phải là nghĩa vụ mà là quyền của họ Hơn nữa, trong trường hợp chỉ có một hoặc một số người rút đơn yêu cầu, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành thủ tục phá sản nếu họ là những người đã nộp đơn theo các điều 13, 14, 15, 16, 17, 18 của LPS.

Quy định tại Điều 67 về việc đình chỉ thủ tục phá sản chưa đề cập đến tình huống nhiều người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản rút đơn nhưng doanh nghiệp (DN) không còn khả năng phục hồi Việc tiếp tục tiến hành thủ tục phá sản trong trường hợp này là cần thiết, vì DN không còn khả năng tồn tại Mặc dù thủ tục phá sản nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, nhưng cũng cần chú ý đến lợi ích phát triển lành mạnh của nền kinh tế Các DN hoạt động không hiệu quả có thể gây tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế chung Cần có tiêu chí cụ thể để quyết định tiếp tục thủ tục phá sản và quy định trách nhiệm của thẩm phán để tránh sự tùy tiện trong quyết định Sau khi thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phá sản, cần làm rõ hậu quả pháp lý của quyết định này và xác định xem DN có còn lâm vào tình trạng phá sản hay không, cũng như cách giải quyết các vụ án bị đình chỉ theo quy định hiện hành.

Về vấn đề này có hai quan điểm:

Theo quan điểm thứ nhất, khi Thẩm phán quyết định đình chỉ thủ tục phá sản, doanh nghiệp hoặc hợp tác xã sẽ không còn trong tình trạng phá sản Việc thi hành án dân sự hoặc giải quyết vụ án bị đình chỉ sẽ được thực hiện theo Điều 77 LPS 2004, nếu chưa được thi hành hoặc giải quyết theo Điều 57 LPS 2004 Điều này có nghĩa là các thủ tục thi hành án và giải quyết vụ án vẫn tiếp tục diễn ra Sau khi ra quyết định đình chỉ, Tòa án cần gửi hồ sơ vụ án về Tòa án có thẩm quyền để tiếp tục xử lý theo quy định của pháp luật.

Quan điểm thứ hai cho rằng quyết định đình chỉ thủ tục phá sản của thẩm phán xảy ra khi người nộp đơn không có mặt hoặc rút đơn, trong khi doanh nghiệp hoặc hợp tác xã vẫn đang trong tình trạng phá sản Luật phá sản không quy định rõ ràng hậu quả của việc đình chỉ này, dẫn đến việc thi hành án dân sự hoặc giải quyết vụ án theo Điều 57 LPS 2004 chưa được thực hiện, và điều này không thuộc thẩm quyền của thẩm phán đã ra quyết định đình chỉ.

Tác giả ủng hộ quan điểm rằng việc đình chỉ thủ tục phá sản theo Điều 67 LPS 2004 không đồng nghĩa với việc doanh nghiệp hoặc hợp tác xã đã khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ và trở lại hoạt động bình thường Do đó, các quy định tại Điều 57 và Điều 77 LPS 2004 không thể được áp dụng Hơn nữa, LPS 2004 không quy định rõ ràng về tình huống xảy ra sau khi đình chỉ thủ tục phá sản, điều này gây ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các chủ nợ Vì vậy, cần thiết phải bổ sung quy định trong LPS 2004 để tiếp tục giải quyết các vụ việc phá sản đã bị đình chỉ.

2.3.2 Quyền xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã trình Hội nghị chủ nợ xem xét, quyết định

Quyền của chủ nợ trong giai đoạn thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ

2.4.1 Quyền khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý Để bảo đảm lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, LPS 2004 đã đưa ra rất nhiều quy định, theo đó, các quyết định của các quyết định của Tòa án, Tổ quản lý, thanh lý tài sản phải được thông báo cho chủ nợ và cho phép chủ nợ được quyền khiếu nại các quyết định này Khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản là một trong nợ có quyền khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của con nợ Thời hạn khiếu nại là hai mươi ngày, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản Khi có quyết định thanh lý thì sẽ có phương án phân chia tài sản của DN, HTX mắc nợ, chủ nợ sẽ có cơ hội nhận được khoản nợ mà DN, HTX nợ mình

Khi quyết định thanh lý tài sản mang lại lợi ích cho chủ nợ, họ luôn mong muốn có được quyết định này, vì nó giúp họ thu hồi khoản nợ Ngược lại, nếu quyết định thanh lý gây bất lợi cho chủ nợ, họ sẽ không ủng hộ Ví dụ, nếu Tòa án ra quyết định thanh lý tài sản mà chưa xác định đầy đủ tài sản của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã mắc nợ, chủ nợ có quyền khiếu nại quyết định đó.

Ví dụ: trường hợp của một Xí nghiệp sản xuất chế biến nông lâm sản xuất khẩu

Vào ngày 20/4/2005, Xí nghiệp đã nộp đơn xin mở thủ tục phá sản do gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh từ năm 2003, với nợ ngân hàng chưa thanh toán, doanh thu hạn chế và lỗ liên tiếp trong ba năm Tòa án đã thụ lý vụ việc và ra quyết định mở thủ tục phá sản vào ngày 30/6/2005 Tiếp theo, vào ngày 20/12/2005, tòa án đã quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản dựa trên nghị quyết của Hội nghị chủ nợ ngày 19/12/2005 Tuy nhiên, do có hai chủ nợ khiếu nại, hồ sơ đã được chuyển lên TANDTC tại TP HCM để xem xét giải quyết.

Có một số vướng mắc liên quan đến quyết định mở thủ tục thanh lý, đặc biệt là trong trường hợp doanh nghiệp hoặc hợp tác xã rơi vào tình trạng phá sản mà không lập phương án tổ chức lại hoạt động kinh doanh để trình Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất Điều này đặt ra câu hỏi liệu thẩm phán có thể ra quyết định thanh lý tài sản hay không, và nếu có, thì căn cứ vào điều nào trong Luật Phá sản để thực hiện quyết định này Hiện tại, vấn đề này đang có hai quan điểm khác nhau.

Theo điểm d, Khoản 1 Điều 64 LPS 2004, nếu tại Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất, doanh nghiệp hoặc hợp tác xã rơi vào tình trạng phá sản mà không có dự kiến hay phương án tổ chức lại hoạt động kinh doanh để trình Hội nghị, thì Hội nghị chủ nợ vẫn có quyền ra Nghị quyết về việc thanh lý tài sản Thẩm phán sẽ căn cứ vào Nghị quyết này để ra quyết định thanh lý tài sản.

Bài viết của Phan Thị Minh Tâm (2008) trình bày cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong quá trình phá sản Nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật tại Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, trang 59.

Quan điểm thứ hai cho rằng, do thủ tục thanh lý tài sản không quy định điều kiện ra quyết định thanh lý tài sản của doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) trong trường hợp phá sản, Thẩm phán cần tổ chức lại Hội nghị chủ nợ lần thứ hai Tại hội nghị này, DN, HTX phải trình bày dự kiến và phương án tổ chức lại hoạt động kinh doanh Nếu DN, HTX không lập phương án hoặc phương án không được thông qua tại Hội nghị chủ nợ lần thứ hai, thì mới có thể ra quyết định thanh lý tài sản.

Tác giả ủng hộ quan điểm cho rằng Hội nghị chủ nợ cần thông qua nghị quyết cho phép doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) xây dựng phương án phục hồi; nếu không, Hội nghị chủ nợ sẽ không có hiệu lực Trong trường hợp này, Hội nghị chủ nợ sẽ ban hành nghị quyết về việc thanh lý tài sản, và Thẩm phán sẽ dựa vào nghị quyết đó để quyết định thanh lý tài sản của DN và HTX.

2.4.2 Quyền đƣợc thanh toán các khoản nợ từ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã

Khi doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) thực hiện thành công phương án phục hồi kinh doanh được Hội nghị chủ nợ thông qua, các chủ nợ sẽ được thanh toán các khoản nợ theo nội dung đã đề ra Tuy nhiên, không phải tất cả DN và HTX đều có khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh, dẫn đến việc Tòa án phải ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản trong nhiều trường hợp.

Khi DN và HTX rơi vào tình trạng phá sản, các chủ nợ có quyền thanh toán các khoản nợ theo thứ tự ưu tiên theo quy định pháp luật Để thực hiện việc này, trước tiên cần xác định khối tài sản còn lại của DN và HTX, từ đó mới có thể xác định thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ.

Việc xác định tài sản phá sản đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, giúp phân chia tài sản của con nợ cho các chủ nợ và bảo đảm quyền lợi của họ Tuy nhiên, việc xác định tài sản của doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) không hề đơn giản Quá trình này dựa vào sổ sách kế toán, bản tự kê khai của DN, HTX và kiểm đếm thực tế Các công việc liên quan chủ yếu được thực hiện bởi Tổ quản lý, thanh lý tài sản.

Theo quy định tại Điều 49 LPS 2004 thì các loại tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản gồm:

“1 Tài sản và quyền về tài sản mà DN, HTX có tại thời điểm Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;

2 Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà DN, HTX sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;

3 Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của DN, HTX;

4 Giá trị quyền sử dụng đất của DN, HTX được xác định theo quy định của pháp luật về đất đai.” Đây chính là bốn nhóm tài sản chính có liên quan tới DN, HTX Ngoài ra, tài sản của Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh còn bao gồm cả “tài sản của chủ

Doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh”

Việc quy định hiện tại gây khó khăn trong việc xác định tài sản của doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) bị tuyên bố phá sản do không rõ thời điểm xác định tài sản Theo Luật Phá sản 2004, giá trị tài sản được xác định bởi Tổ quản lý, thanh lý tài sản sau khi hết thời hạn gửi giấy đòi nợ, trước khi tổ chức Hội nghị chủ nợ Tuy nhiên, giá trị tài sản này không phản ánh đúng giá trị tài sản phá sản của DN, HTX, vì sau Hội nghị chủ nợ, có thể xảy ra việc thông qua phương án hòa giải Nếu chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản do vi phạm cam kết, tài sản của DN, HTX sẽ bị thay đổi Dù không được áp dụng thủ tục phục hồi, DN, HTX vẫn có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh dưới sự giám sát của Thẩm phán trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.

Theo quy định của LPS 2004, khối tài sản của doanh nghiệp và hợp tác xã sẽ thay đổi trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản cho đến khi hoàn tất quyết định thanh lý tài sản Tuy nhiên, luật này không quy định rõ ràng các nhóm tài sản và quyền tài sản tại Điều 49, dẫn đến việc bỏ qua một số tài sản có thể thu hồi và thanh lý để trả nợ cho chủ nợ Cụ thể, tài sản và quyền tài sản mà con nợ có được sau khi mở thủ tục phá sản cũng nên được xem xét như tài sản có thể được thanh lý.

24 Ths Hà Thị Thanh Bình (2003), “Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị phá sản”, Tạp chí

Quyền của chủ nợ trong giai đoạn tuyên bố phá sản

Quyền khiếu nại quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

Khi tham gia vào thủ tục phá sản, chủ nợ luôn mong muốn thu hồi khoản nợ từ doanh nghiệp hoặc hợp tác xã Tuy nhiên, quá trình thu hồi tài sản có thể gặp khó khăn nếu Tổ quản lý và thanh lý tài sản không thu hồi được toàn bộ hoặc con nợ sử dụng các biện pháp để che giấu, tẩu tán tài sản Điều này dẫn đến việc Tổ quản lý không thể phát hiện và thu hồi tài sản, từ đó không thể phân chia tài sản cho các chủ nợ Trong tình huống này, nếu Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản, tình hình sẽ càng trở nên phức tạp hơn.

Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cả chủ nợ và con nợ, LPS đã cho phép các bên có quyền khiếu nại quyết định của Tòa án liên quan đến việc tuyên bố doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) không đảm bảo nghĩa vụ với chủ nợ.

Theo Điều 91 của Luật Phá sản 2004, doanh nghiệp phải hoàn tất thủ tục phá sản trong vòng 20 ngày kể từ ngày công bố quyết định tuyên bố phá sản trên báo Bài viết của Nguyễn Thái Phúc (2005) trên Tạp chí Khoa học Pháp lý đã chỉ ra những tiến bộ và hạn chế của LPS 2004 trong việc quản lý quy trình phá sản.

Trong quá trình ra quyết định tuyên bố phá sản, một số vướng mắc xuất hiện khiến việc tuyên bố này không thể thực hiện, mặc dù các thủ tục thanh lý tài sản và lập phương án phân chia tài sản đã hoàn tất.

Toàn bộ hồ sơ của người mắc nợ doanh nghiệp tại thời điểm Tòa án tiếp nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được xem là quyền về tài sản của doanh nghiệp, theo Điều 49 LPS 2004 Những tài sản này nằm trong tổng giá trị tài sản được phân chia Nếu Tổ quản lý và thanh lý tài sản chưa thu hồi hết nợ, việc thực hiện phương án phân chia tài sản sẽ không hoàn tất, dẫn đến không thể ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản theo khoản 2 Điều 85 LPS 2004 và tuyên bố phá sản.

Trước khi có quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản và tuyên bố phá sản từ Tòa án, nghĩa vụ tài sản phát sinh trước đó không thể được giải quyết theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự và các luật liên quan Tuy nhiên, thời gian chờ để thu hồi hết nợ và khả năng thực hiện điều này vẫn là vấn đề khó xác định.

Những khó khăn trong việc giải quyết phá sản đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của chủ nợ, dẫn đến tình trạng thủ tục bị đình trệ Điều này khiến cho doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) rơi vào tình trạng "chết nhưng không được khai tử".

Một quy định quan trọng của Luật Phá sản (LPS) là việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong giai đoạn doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh công ty hợp danh bị tuyên bố phá sản, cho phép tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Theo Điều 90 LPS 2004, chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh công ty hợp danh không được miễn trừ nghĩa vụ tài sản đối với chủ nợ chưa được thanh toán, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định pháp luật khác Điều này có nghĩa là nếu doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh đã sử dụng toàn bộ tài sản để trả nợ nhưng vẫn chưa thanh toán hết, họ sẽ vẫn phải chịu trách nhiệm cho khoản nợ đó cho đến khi trả xong Quy định này bảo vệ quyền lợi tối đa cho các chủ nợ, đặc biệt là những chủ nợ không có bảo đảm.

Quyết định tuyên bố phá sản thường giải phóng trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) con nợ, bất kể giá trị tài sản còn lại có đủ để thanh toán cho các chủ nợ hay không Tuy nhiên, theo Điều 90 LPS 2004, chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh của công ty hợp danh không được miễn trừ nghĩa vụ tài sản Điều này có nghĩa là nếu tài sản còn lại không đủ để thanh toán nợ, họ vẫn phải tiếp tục chịu trách nhiệm thanh toán phần nợ chưa được thanh toán bằng tài sản trong tương lai, mà không bị giới hạn về thời gian Quy định này dẫn đến một số bất cập trong việc thực hiện nghĩa vụ tài chính của các chủ doanh nghiệp và thành viên hợp danh.

Quy định tại Điều 90 LPS 2004 không còn phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Luật Phá sản hiện đại, theo đó, khi con nợ đã sử dụng toàn bộ tài sản để thanh toán nợ, họ sẽ được giải phóng khỏi các khoản nợ chưa thanh toán Nguyên tắc này xuất phát từ lẽ công bằng trong việc xử lý nợ.

Tính chịu trách nhiệm vô hạn của doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh công ty hợp danh đã tạo ra sự đảm bảo lớn cho các chủ nợ, vì tất cả tài sản của họ, bao gồm cả tài sản kinh doanh và cá nhân, đều có thể được sử dụng để thanh toán nợ Khi doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh sử dụng toàn bộ tài sản của mình để trả nợ, họ đã hoàn thành trách nhiệm vô hạn của mình Nếu chỉ áp dụng quy định không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản cho doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh, điều này có thể dẫn đến sự phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp.

Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là nghĩa vụ của doanh nghiệp và hợp tác xã khi rơi vào tình trạng này Tuy nhiên, quy định cứng nhắc hiện tại khiến nhiều doanh nghiệp e ngại, dẫn đến tình trạng "doanh nghiệp đã chết mà không được chôn", gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Đối với các cá nhân như chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, giám đốc, chủ tịch và các thành viên hội đồng quản trị, cũng như các thành viên ban quản trị hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, Luật Phá sản quy định họ không được làm người quản lý trong thời gian từ một đến ba năm kể từ ngày tuyên bố phá sản, trừ một số trường hợp nhất định.

DN, HTX bị tuyên bố phá sản vì lý do bất khả kháng (Điều 94 LPS 2004)

Quy định này được thiết lập nhằm răn đe doanh nghiệp và hợp tác xã mắc nợ, đồng thời bảo vệ quyền lợi của chủ nợ Tuy nhiên, tác giả cho rằng quy định này quá cứng nhắc và đã hạn chế sự sáng tạo cũng như những ý tưởng táo bạo trong kinh doanh của các doanh nghiệp.

DN, HTX - một điều rất cần trong nền kinh tế thị trường hiện nay

Bảo vệ quyền lợi của chủ nợ nhưng cũng cần phải bảo vệ quyền lợi của con nợ nhằm tạo sự công bằng

Chương này đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật phá sản, tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản Các biện pháp này sẽ giúp nâng cao tính minh bạch và công bằng trong quy trình phá sản, đảm bảo rằng quyền lợi của chủ nợ được bảo vệ tốt hơn và giảm thiểu rủi ro trong các giao dịch tài chính.

Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật phá sản nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản

Ngày nay, pháp luật cần phát triển đồng hành và thậm chí dẫn dắt nền kinh tế để hỗ trợ sự phát triển bền vững Một môi trường pháp lý ổn định và rõ ràng là yếu tố then chốt để thu hút đầu tư trong nước và quốc tế Hệ thống pháp luật với các cơ chế pháp lý vững chắc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng sản xuất phát triển hiệu quả.

Phát triển kinh tế không thể được thực hiện bằng mọi giá, mà cần chú trọng đến các vấn đề có thể phát sinh trong từng giai đoạn của hoạt động kinh tế Luật pháp về phá sản được thiết lập nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp và hợp tác xã đang gặp khó khăn, quy định các biện pháp phòng ngừa tình trạng phá sản Đồng thời, luật cũng đưa ra các thủ tục giúp doanh nghiệp và hợp tác xã vượt qua khó khăn, giảm thiểu tác động tiêu cực từ việc phá sản.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của LPS là xử lý các trường hợp phá sản của doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) do lỗi của những người tham gia kinh doanh Mục tiêu chính là nâng cao đạo đức kinh doanh của DN và HTX, đồng thời ngăn chặn tình trạng cố ý gây thiệt hại cho các bên liên quan.

Luật Phá sản (LPS) không chỉ bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, bao gồm cả người lao động, mà còn ngăn chặn tình trạng khó khăn của doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) lan rộng đến chủ nợ và nhân viên LPS 2004 đã kế thừa và cải tiến từ các kinh nghiệm quốc tế, khắc phục những hạn chế của LPSDN 1993, nhằm tạo ra cơ chế pháp lý tốt hơn cho việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ Tuy nhiên, LPS 2004 vẫn tồn tại một số hạn chế, ảnh hưởng đáng kể đến quyền lợi của các chủ nợ, điều này đi ngược lại với mục tiêu bảo vệ chính của pháp luật phá sản.

Do đó để thực hiện được mục tiêu này nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các chủ

Một là, tối đa hoá việc thu hồi tài sản phá sản

Cơ hội thực tiễn cho việc tổ chức lại doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) nên được xem xét trong những tình huống thích hợp, khi mà việc duy trì hoạt động của các DN, HTX con nợ có thể đáp ứng tốt hơn quyền lợi của chủ nợ và nhu cầu xã hội, thay vì tiến hành thanh toán cho các DN, HTX này.

Ba là, quy định cách thức đối xử đối với các chủ nợ một cách công bằng và có thể dự đoán được

Bốn là, đem lại cơ hội bắt đầu lại cho các con nợ trung thực sau khi đã được áp dụng thủ tục phục hồi

Để pháp luật về phá sản thực sự hiệu quả, cần đảm bảo bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ mà không làm ảnh hưởng đến khả năng cứu vãn doanh nghiệp và hợp tác xã đang gặp khó khăn Việc kết hợp hài hòa giữa các mục tiêu này là rất quan trọng.

Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật phá sản nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản

Dựa trên những hạn chế của Luật Phá sản (LPS) đã được nêu ra ở chương 2, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật phá sản, với hy vọng những đề xuất này sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ.

3.2.1 Về các quyền cụ thể của chủ nợ

Sửa đổi quy định về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động là cần thiết, vì mặc dù Luật Phá sản đã công nhận người lao động là chủ nợ và trao quyền này, nhưng thực tế họ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện Việc nộp đơn yêu cầu phải thông qua đại diện người lao động hoặc công đoàn, tuy nhiên, quy trình cử đại diện lại phức tạp, mất thời gian, dẫn đến việc từ khi Luật Phá sản 2004 có hiệu lực đến nay, chưa có trường hợp nào người lao động thực hiện quyền này.

Dựa trên những lý do đã nêu trong mục 2.1.1 về việc đảm bảo quyền lợi của người lao động, tác giả đề xuất LPS cần sửa đổi quy định Cụ thể, sau thời gian chậm trả lương một tháng theo Điều 59 BLLĐ, nếu người lao động vẫn chưa nhận được lương, họ có quyền yêu cầu giải quyết.

Khi doanh nghiệp (DN) hoặc hợp tác xã (HTX) rơi vào tình trạng phá sản, mọi người lao động đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản Tuy nhiên, việc kiến nghị này cần được thực hiện một cách thận trọng, không vội vàng, nhằm tránh làm gia tăng áp lực cho Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ việc phá sản của DN và HTX.

- Kéo dài thời hạn ra quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản:

Tác giả kiến nghị sửa đổi quy định về thời hạn ra quyết định mở thủ tục phá sản, kéo dài lên 60 ngày từ ngày thụ lý, nhằm tạo điều kiện cho Thẩm phán có đủ thời gian xem xét và đưa ra quyết định chính xác Trong khoảng thời gian này, LPS không có sự can thiệp pháp lý nào, dẫn đến nguy cơ tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ Vấn đề này sẽ được giải quyết trong phần sửa đổi quy định về thời hạn xác định giao dịch vô hiệu theo Điều 43 LPS 2004.

Để Toà án có cơ sở vững chắc trong việc quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản, cần yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đúng các thủ tục pháp luật quy định ngay khi thụ lý Các bộ phận thụ lý của Toà án nhân dân phải dựa vào các Điều 16, 17, 18 và 19 của LPS 2004 để yêu cầu người nộp đơn cung cấp các giấy tờ theo quy định tại Điều 15 Đồng thời, Toà án nhân dân tối cao cần hướng dẫn bổ sung cho trường hợp tại Điều 24 LPS, khi người nộp đơn không cung cấp đầy đủ tài liệu và không thực hiện yêu cầu bổ sung từ Toà án, dẫn đến việc đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị trả lại.

Để đảm bảo quyết định mở thủ tục phá sản chính xác, hồ sơ cần đầy đủ báo cáo tài chính, báo cáo thuế năm trước và các tháng trong năm hiện tại, cùng với danh mục tài sản cố định và lưu động, danh sách chủ nợ và người mắc nợ theo quy định tại điều 52, 53 Luật Phá sản Dữ liệu phải được tính toán trong vòng một tháng trước khi Tòa án thụ lý hồ sơ Bản sao hồ sơ phải được cung cấp cho Cơ quan Thi hành án dân sự và kết quả hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản cũng cần gửi kịp thời cho Tòa án Ngoài ra, Tòa án tối cao cần hướng dẫn kiểm toán trước khi thụ lý hồ sơ phá sản, nhằm đảm bảo các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được đánh giá đúng giá trị tài sản còn lại và tổ chức Hội nghị chủ nợ để xem xét khả năng khôi phục hoạt động.

Khi doanh nghiệp (DN) bị tuyên bố phá sản, tòa án sẽ mở thủ tục thanh lý tài sản, và DN sẽ chịu trách nhiệm quản lý tài sản từ thời điểm hồ sơ được thụ lý cho đến khi có quyết định thanh lý Đồng thời, DN cần thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo tài chính và tình hình kinh doanh; nếu có sai sót trong báo cáo, người quản lý sẽ phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự tùy theo mức độ vi phạm.

- Không nên bó buộc thời hạn thực hiện quyền đòi nợ của chủ nợ:

Theo phân tích tại mục 2.2.2 về quyền gửi giấy đòi nợ của chủ nợ (Điều 51 LPS 2004), không nên hạn chế thời hạn đòi nợ của chủ nợ, vì nhiều trường hợp chủ nợ không biết thông tin về việc Tòa án mở thủ tục giải quyết phá sản, dẫn đến việc không đòi được nợ Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, cần mở rộng thời hạn thực hiện quyền đòi nợ từ khi mở thủ tục đến thời điểm thanh lý tài sản phá sản Mặc dù LPS 2004 đã đề cập đến vấn đề này, nhưng chưa quy định cụ thể thời hạn thực hiện quyền đòi nợ, điều này cần được chú ý trong văn bản hướng dẫn luật.

- Kéo dài thời gian được quyền khiếu nại danh sách chủ nợ của chủ nợ:

Việc LPS 2004 quy định thời hạn khiếu nại danh sách chủ nợ chỉ trong 10 ngày là không hợp lý, do đó cần sửa đổi để kéo dài thời gian niêm yết lên khoảng 30 ngày Đồng thời, cần bổ sung thủ tục thông báo địa điểm và thời gian niêm yết danh sách chủ nợ, cũng như công bố danh sách trên các báo địa phương và Trung ương trong hai số liên tiếp Hơn nữa, việc công bố danh sách chủ nợ trên trang web của Tòa án hoặc của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản cũng là một công cụ thông tin hiệu quả chưa được khai thác triệt để, giúp các chủ nợ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Theo Điều 43 Luật Phá sản 2004, các giao dịch nhằm tẩu tán tài sản của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã đang mắc nợ sẽ bị coi là vô hiệu nếu diễn ra trong vòng 3 tháng trước khi Tòa án tiếp nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

Tác giả Hoàng Minh Hiếu đề xuất rằng để ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản của doanh nghiệp và hợp tác xã con nợ, cũng như nâng cao khả năng thu hồi nợ cho các chủ nợ, cần xem xét việc nới lỏng khoảng thời gian ba tháng hiện tại.

Theo phân tích tại mục 2.2.5, tác giả đề xuất quy định nguyên tắc về thời gian giao dịch vô hiệu, cho rằng mọi hành vi tẩu tán tài sản có thể bị coi là vô hiệu ở bất kỳ giai đoạn nào sau khi phát sinh nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã con nợ Điều này có nghĩa là ngay cả trước khi bắt đầu thủ tục giải quyết phá sản, nếu doanh nghiệp thực hiện hành vi tẩu tán tài sản trước khi bị kiện ra tòa kinh tế, giao dịch đó vẫn có thể bị coi là vô hiệu nếu có chứng minh rõ ràng về mục đích tẩu tán Việc không quy định thời gian cụ thể sẽ tăng cường hiệu lực của điểm đ khoản 1 Điều 43 Luật Phá sản.

Năm 2004, tác giả nhận định rằng điểm 1 Điều 43 Luật Phá sản (LPS) 2004 có tính dự báo và có khả năng ngăn chặn các giao dịch nhằm tẩu tán tài sản Quy định này không chỉ ngăn chặn hành vi thành lập doanh nghiệp mới bằng cách rút tài sản từ doanh nghiệp đang hoạt động mà còn khắc phục tình trạng thiếu kiểm soát pháp luật trong khoảng thời gian từ khi thụ lý đến khi quyết định mở thủ tục phá sản được ban hành.

- Sửa đổi quy định về điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ:

Việc quy định điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ tại khoản 1 Điều 65 LPS 2004 hiện nay không hợp lý và dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các chủ nợ Mặc dù việc thiết lập điều kiện hợp lệ cho Hội nghị là cần thiết, nhưng cần phải điều chỉnh để đảm bảo tính khả thi trong thực tiễn Tác giả đề xuất sửa đổi Khoản 1 Điều 65 LPS 2004 thành: “Phải có sự tham gia của quá nửa số chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm (có quyền tham dự Hội nghị chủ nợ) đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm.”

- Sửa đổi quy định về quyền biểu quyết của các chủ nợ tại Hội nghị chủ nợ:

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:07

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
10. Bộ tư pháp (Viện Khoa học pháp lý), Từ điển Luật học, NXB từ điển bách khoa và NXB tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Luật học
Nhà XB: NXB từ điển bách khoa và NXB tư pháp
11. Ban biên soạn chuyên từ điển Newera (2008), Từ điển tiếng Việt, NXB Văn hoá - Thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển tiếng Việt
Tác giả: Ban biên soạn chuyên từ điển Newera
Nhà XB: NXB Văn hoá - Thông tin
Năm: 2008
12. Công trình dự thi giải thưởng “Khoa học sinh viên – Ueréka” lần 7 năm 2005, “chủ thể có quyền và nghĩa vụ yêu cầu giải quyết phá sản theo LPS 2004” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khoa học sinh viên – Ueréka” lần 7 năm 2005, “chủ thể có quyền và nghĩa vụ yêu cầu giải quyết phá sản theo LPS 2004
13. Dương Đăng Huệ, Cao Đăng Vinh (2004), “Về dự thảo 9 Luật Phá sản”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (04), tr.68 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về dự thảo 9 Luật Phá sản”," Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Dương Đăng Huệ, Cao Đăng Vinh
Năm: 2004
14. Dương Kim Thế Nguyên (2009), “Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh lâm vào tình trạng phá sản”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (04), tr.52 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh lâm vào tình trạng phá sản”, "Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Dương Kim Thế Nguyên
Năm: 2009
15. Đặng Huy Dũng (2000), “Một số khía cạnh pháp lý của việc xác định tư cách chủ nợ và thứ tự ưu tiên thanh toán theo Luật Phá sản doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (05), tr.30 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số khía cạnh pháp lý của việc xác định tư cách chủ nợ và thứ tự ưu tiên thanh toán theo Luật Phá sản doanh nghiệp Việt Nam”, "Tạp chí Nhà nước và pháp luật
Tác giả: Đặng Huy Dũng
Năm: 2000
16. Hoàng Minh Hiếu (2004), “Góp ý về dự án Luật Phá sản (sửa đổi)”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (02), tr.64 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp ý về dự án Luật Phá sản (sửa đổi)”, "Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Hoàng Minh Hiếu
Năm: 2004
19. Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Chí Hòa (1994), Tìm hiểu các quy định hỏi đáp về LPS doanh nghiệp, NXB TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu các quy định hỏi đáp về LPS doanh nghiệp
Tác giả: Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Chí Hòa
Nhà XB: NXB TP.HCM
Năm: 1994
20. Nhà pháp luật Viêt Pháp (2002), Hội thảo pháp luật về phá sản doanh nghiệp, Tài liệu tham khảo_lưu hành nội bộ, Hà Nội 16,17, ngày 18/4/2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội thảo pháp luật về phá sản doanh nghiệp
Tác giả: Nhà pháp luật Viêt Pháp
Năm: 2002
21. Nguyễn Thị Bích Đào (2003), “Vấn đề tồn tại sau khi quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực pháp luật”, Tạp chí Tòa án nhân dân (06), tr.20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề tồn tại sau khi quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực pháp luật”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Nguyễn Thị Bích Đào
Năm: 2003
22. Nguyễn Thị Thủy (2004), “Những điểm mới của LPS năm 2004”, Tạp chí Kiểm sát (10), tr.22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những điểm mới của LPS năm 2004”, "Tạp chí Kiểm sát
Tác giả: Nguyễn Thị Thủy
Năm: 2004
23. Nguyễn Thái phúc (2005), LPS 2004 – Những tiến bộ và hạn chế, Tạp chí khoa học pháp lý (06), tr.37 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí khoa học pháp lý
Tác giả: Nguyễn Thái phúc
Năm: 2005
24. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (2010), Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển tiếng Việt thông dụng
Tác giả: Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành
Nhà XB: NXB Giáo dục Việt Nam
Năm: 2010
25. PGS. Hoàng Công Thi (1993), Phá sản và xử lý phá sản ở các nước và Việt Nam, Viện khoa học tài chính Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phá sản và xử lý phá sản ở các nước và Việt Nam
Tác giả: PGS. Hoàng Công Thi
Năm: 1993
26. Phạm Duy Nghĩa (2003), “Đi tìm triết lý của Luật Phá sản”, Bài tham luận tại Hội thảo góp ý Luật Phá sản (sửa đổi) ngày 20/11/2003 tại VICC, báo điện tử Trung tâm xúc tiến phát triển phần mềm DN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đi tìm triết lý của Luật Phá sản
Tác giả: Phạm Duy Nghĩa
Năm: 2003
27. PGS-TS. Dương Đăng Huệ (2004), tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004, tr.111 Sách, tạp chí
Tiêu đề: tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004
Tác giả: PGS-TS. Dương Đăng Huệ
Năm: 2004
28. PGS-TS Dương Đăng Huệ (2005), Pháp luật phá sản của Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật phá sản của Việt Nam
Tác giả: PGS-TS Dương Đăng Huệ
Nhà XB: NXB Tư pháp
Năm: 2005
29. PGS-TS. Dương Đăng Huệ (2005), “Luật Phá sản năm 2004 với việc cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (03), tr.26 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Phá sản năm 2004 với việc cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam”, "Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
Tác giả: PGS-TS. Dương Đăng Huệ
Năm: 2005
30. PGS-TS Dương Đăng Huệ, ThS. Nguyễn Thanh Tịnh (2008), “Thực trạng pháp luật phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam”, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng pháp luật phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam
Tác giả: PGS-TS Dương Đăng Huệ, ThS. Nguyễn Thanh Tịnh
Năm: 2008
31. Phan Thị Minh Tâm (2008), “Cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong việc phá sản” , Khoá luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong việc phá sản
Tác giả: Phan Thị Minh Tâm
Năm: 2008

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w