1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Quy định pháp luật về hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản

90 43 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 90
Dung lượng 582,5 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN (11)
    • 1.1. Khái quát chung về phá sản và thủ tục phá sản (11)
      • 1.1.1. Khái niệm phá sản (11)
      • 1.1.2. Thủ tục phá sản (15)
      • 1.1.3. Mục tiêu của thủ tục phá sản (23)
    • 1.2. Khái quát chung về Hội nghị chủ nợ (25)
      • 1.2.1. Khái niệm chủ nợ và phân loại chủ nợ (25)
      • 1.2.2. Hội nghị chủ nợ và vai trò của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản (29)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN (33)
    • 2.1. Triệu tập Hội nghị chủ nợ (33)
      • 2.1.1. Mục đích triệu tập Hội nghị chủ nợ (33)
      • 2.1.2. Thời điểm triệu tập Hội nghị chủ nợ (35)
      • 2.1.3. Thành phần được triệu tập (42)
    • 2.2. Điều kiện tiến hành Hội nghị chủ nợ (49)
      • 2.2.1. Điều kiện để tiến hành Hội nghị chủ nợ một cách hợp lệ (49)
      • 2.2.2. Các trường hợp không tiến hành Hội nghị chủ nợ (52)
      • 2.2.3. Các trường hợp hoãn Hội nghị chủ nợ (53)
      • 2.2.4. Các trường hợp đình chỉ thủ tục phá sản do có chủ thể tham gia Hội nghị chủ nợ vắng mặt (55)
    • 2.3. Nội dung Hội nghị chủ nợ (57)
      • 2.3.1. Nội dung Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất (57)
      • 2.3.2. Nội dung Hội nghị chủ nợ tiếp theo (65)
    • 2.4. Thực thi Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ (66)
      • 2.4.1. Thực thi Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phục hồi hoạt động (66)
    • 3.1. Kiến nghị chung (71)
      • 3.1.1. Mở rộng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (71)
      • 3.1.2. Quyền nộp đơn của doanh nghiệp khi nhận thấy doanh nghiệp có nguy cơ phá sản (71)
      • 3.1.3. Xây dựng thủ tục phá sản rút gọn (72)
      • 3.1.4. Tăng cường quyền tự quyết của chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ (72)
    • 3.2. Yêu cầu và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản (0)
      • 3.2.1. Những yêu cầu nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản (73)
      • 3.2.2. Những kiến nghị cụ thể (0)
  • KẾT LUẬN (84)

Nội dung

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN

Khái quát chung về phá sản và thủ tục phá sản

Thuật ngữ phá sản có nguồn gốc từ thời La Mã cổ đại, đề cập đến tình trạng con nợ không thanh toán được nợ và bị xử lý nghiêm khắc Tại Việt Nam, khái niệm này được biết đến từ thời kỳ Pháp thuộc khi người Pháp áp dụng Bộ luật Thương mại Pháp Tuy nhiên, thuật ngữ "phá sản" không phổ biến mà được thay thế bằng "khánh tận", chỉ tình trạng mất khả năng thanh toán của thương nhân, xuất hiện lần đầu tại Điều 180 của Bộ luật Thương mại Trung Kỳ 1942 Bộ luật Thương mại Sài Gòn 1972 đã thay thế Bộ luật Thương mại Trung Kỳ, đánh dấu sự chuyển biến trong cách hiểu và áp dụng pháp luật về phá sản tại Việt Nam.

Năm 1942, thuật ngữ "khánh tận" được quy định tại Điều 864, chỉ tình trạng thương gia không còn khả năng thanh toán nợ Tình trạng này có thể xảy ra tự nhiên hoặc theo yêu cầu của trái chủ, và sẽ được Tòa án tuyên bố khánh tận.

Sau khi giành độc lập, Việt Nam đã xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với chủ thể chính là các doanh nghiệp nhà nước, trong đó Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế thông qua hai thành phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể Các doanh nghiệp hoạt động theo kế hoạch và chỉ tiêu bằng nguồn vốn Nhà nước, với lợi nhuận nộp vào ngân sách và được hỗ trợ khi gặp khó khăn Tuy nhiên, trong bối cảnh này, hiện tượng phá sản không xảy ra Đến Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, vẫn giữ sự quản lý của Nhà nước.

3 Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr 697

4 Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr 701

Pháp luật phá sản của Việt Nam, theo Dương Đăng Huệ (2005), không chỉ đơn thuần là một sự lựa chọn mà là một nhu cầu khách quan trong bối cảnh nền kinh tế thị trường Các chủ thể kinh doanh phải tuân thủ các quy luật như cạnh tranh, cung cầu và giá trị, điều này dẫn đến việc cần thiết phải có một khung pháp lý rõ ràng để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.

Ngày nay, nhiều quốc gia đã công nhận phá sản là một phần tất yếu của nền kinh tế thị trường Pháp luật về phá sản ngày càng mang tính nhân văn, không chỉ tập trung vào quyền lợi của chủ nợ mà còn hướng tới việc bảo vệ quyền lợi của con nợ Mục tiêu chính là cân bằng lợi ích giữa hai bên, đồng thời tìm kiếm giải pháp khôi phục doanh nghiệp mắc nợ Các quy định hiện hành đã xác định rõ dấu hiệu phá sản, biện pháp bảo toàn tài sản, tổ chức Hội nghị chủ nợ, cũng như quy trình phục hồi hoạt động kinh doanh và thứ tự thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản.

Mặc dù thuật ngữ "phá sản" rất phổ biến, nhưng hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào chính thức định nghĩa rõ ràng về phá sản tại Việt Nam.

"Doanh nghiệp và hợp tác xã gặp phải tình trạng phá sản, dẫn đến việc một số chủ thể có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với các tổ chức này."

Năm 1990, doanh nghiệp được coi là lâm vào tình trạng phá sản khi tổng giá trị tài sản nhỏ hơn tổng giá trị nợ đến hạn Đến năm 1993, Luật Phá sản doanh nghiệp quy định rằng doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết, nhưng vẫn không có khả năng thanh toán nợ đến hạn Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ đã hướng dẫn cụ thể các dấu hiệu để xác định tình trạng phá sản của doanh nghiệp.

Theo Điều 6 của Luật Công ty năm 1990, một công ty được coi là lâm vào tình trạng phá sản khi tổng giá trị tài sản còn lại không đủ để thanh toán các khoản nợ đến hạn Điều này xảy ra khi công ty gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong hoạt động kinh doanh Tương tự, Điều 17 của Luật Doanh nghiệp tư nhân cũng quy định về tình trạng này, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý tài chính để tránh rơi vào tình trạng phá sản.

Theo quy định năm 1990, doanh nghiệp tư nhân được coi là lâm vào tình trạng phá sản khi gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, dẫn đến tổng giá trị tài sản còn lại không đủ để thanh toán các khoản nợ đến hạn.

Doanh nghiệp gặp khó khăn khi liên tiếp thua lỗ trong hai năm, dẫn đến tình trạng không thể thanh toán nợ đến hạn Hơn nữa, doanh nghiệp cũng không đủ khả năng chi trả lương cho người lao động theo thỏa ước và hợp đồng lao động trong ba tháng liên tiếp.

Khi doanh nghiệp gặp khó khăn, cần áp dụng các biện pháp tài chính thiết yếu như tổ chức lại sản xuất, quản lý chặt chẽ chi phí, và tìm kiếm thị trường tiêu thụ Ngoài ra, cần có kế hoạch xử lý hàng tồn kho, thu hồi nợ và tài sản bị chiếm dụng, cũng như thương lượng với chủ nợ để hoãn hoặc giảm nợ Doanh nghiệp cũng nên tìm kiếm các khoản tài trợ và vay vốn để trang trải nợ đến hạn và đầu tư vào công nghệ mới.

- Sau khi đã áp dụng các biện pháp nêu trên mà vẫn không thanh toán được nợ thì bị coi là lâm vào tình trạng phá sản

Luật Phá sản doanh nghiệp hiện nay đã trở thành rào cản đối với các chủ thể không thể sử dụng pháp luật này như công cụ đòi nợ, do yêu cầu doanh nghiệp phải thua lỗ trong 02 năm liên tiếp để được coi là lâm vào tình trạng phá sản Kinh doanh thua lỗ là nguyên nhân chính dẫn đến mất khả năng thanh toán, nhưng doanh nghiệp có thể rơi vào kiệt quệ tài chính nhanh chóng do các giao dịch thất bại hoặc thay đổi chính sách kinh tế Ngoài ra, tình huống doanh nghiệp thua lỗ không liên tiếp cũng dẫn đến việc không thể thanh toán nợ, nhưng lại không đủ điều kiện để tiến hành thủ tục phá sản theo quy định.

Thủ tục phá sản doanh nghiệp được coi là biện pháp cuối cùng để xử lý tài sản con nợ, khi doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng tài chính kiệt quệ Thay vì tìm cách tái cơ cấu để phục hồi hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải giải quyết các mâu thuẫn với chủ nợ và người lao động Do đó, quy định pháp luật về phục hồi doanh nghiệp trong thủ tục phá sản thường không có giá trị áp dụng thực tế.

Luật Phá sản 2004 đã khắc phục những hạn chế trước đó, thể hiện rõ mục tiêu bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, người lao động và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, hợp tác xã gặp khó khăn Luật này nhấn mạnh mối quan hệ hữu cơ giữa lợi ích của chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ, đảm bảo rằng khi doanh nghiệp được phục hồi, quyền lợi của chủ nợ sẽ được thanh toán đầy đủ nhất Hơn nữa, tính nhân văn của luật phá sản thể hiện qua việc tạo cơ hội cho doanh nghiệp mắc nợ phục hồi và trở lại thị trường Các nhà lập pháp đã điều chỉnh quy định để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, theo đó, doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ đến hạn khi có yêu cầu từ chủ nợ được xem là căn cứ duy nhất để mở thủ tục phá sản, thay vì phải xem xét các dấu hiệu khác như trước đây Sự tiến bộ này cho thấy Luật Phá sản hiện hành đã phù hợp hơn với thực tiễn và xu hướng quốc tế.

2004 đã tạo điều kiện cho việc áp dụng thủ tục phá sản kịp thời, nâng cao khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 7

Theo Điều 3 Luật Phá sản 2004, một doanh nghiệp bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi đáp ứng các điều kiện sau:

Thứ nhất, không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn Luật Phá sản

Khái quát chung về Hội nghị chủ nợ

1.2.1 Khái niệm chủ nợ và phân loại chủ nợ

1.2.1.1 Khái niệm về chủ nợ

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, chủ nợ là người cho vay nợ trong quan hệ với người vay nợ 15

Theo Điều 7 của Thông tư số 79/2011/TT-BTC ban hành ngày 08/6/2011, Bộ Tài chính quy định về tổ chức và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn Thông tư này nhằm hướng dẫn các quy định pháp lý liên quan đến việc thành lập và quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn, đảm bảo sự tuân thủ các quy định hiện hành.

Bài viết của Phạm Bình An (2002) nghiên cứu về các vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến việc thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh Nghiên cứu này thuộc đề tài cấp Thành phố, nhằm phân tích những thách thức và giải pháp trong việc áp dụng luật phá sản, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp trong khu vực.

Chủ nợ được định nghĩa là các tổ chức hoặc cá nhân có quyền thu hồi nợ, theo tài liệu từ Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (2011).

Theo Điều 3 Nghị định 104/2007/NĐ-CP, nợ là nghĩa vụ mà tổ chức kinh tế hoặc cá nhân phải hoàn trả tài sản cho tổ chức kinh tế hoặc cá nhân khác Chủ nợ được xác định là tổ chức kinh tế hoặc cá nhân có quyền yêu cầu thu hồi nợ.

Chủ nợ là cá nhân hoặc tổ chức đồng ý cho vay tài sản cho người khác, phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất, kinh doanh.

Khác với nợ trong giao lưu dân sự, nợ theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam có phạm vi áp dụng hẹp hơn Trong khi nhiều quốc gia như Thái Lan, Singapore và Mỹ cho phép Luật Phá sản áp dụng cho cả cá nhân và tổ chức, thì tại Việt Nam, đối tượng áp dụng chủ yếu là các doanh nghiệp và hợp tác xã Sự hạn chế này dẫn đến mục đích của các khoản nợ chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất và kinh doanh.

Các khoản nợ của doanh nghiệp có thể phát sinh từ nhiều loại giao dịch khác nhau, bao gồm mua bán tài sản, thuê mướn tài sản, vay tài sản, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và nghĩa vụ thuế Ví dụ, trong hợp đồng mua bán, nếu doanh nghiệp thanh toán chậm, khoản tiền chưa thanh toán sẽ trở thành nợ phải trả Mối quan hệ nợ không chỉ giới hạn ở việc vay mượn mà còn bao gồm các hợp đồng vay, hợp đồng mua bán tài sản, thuê tài sản, nghĩa vụ thuế với cơ quan nhà nước, và nợ lương đối với người lao động Do đó, nhiều đối tượng có thể trở thành chủ nợ của doanh nghiệp, bao gồm bên cho vay, bên bán hàng, cơ quan nhà nước và người lao động.

Chủ nợ trong thủ tục phá sản bao gồm cá nhân và tổ chức mà doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán tiền hoặc tài sản có giá trị tương đương Ngoài các chủ nợ thông thường trong hoạt động kinh doanh, còn có các chủ nợ đặc biệt như người lao động mà doanh nghiệp chưa trả lương và Nhà nước mà doanh nghiệp nợ thuế.

Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 và Luật Phá sản 2004 không định nghĩa rõ ràng về chủ nợ, mà chỉ phân loại họ dựa vào tài sản bảo đảm Tiêu chí này là yếu tố duy nhất để phân loại chủ nợ trong hai đạo luật Mục tiêu của luật là không chỉ phục hồi doanh nghiệp mà còn bảo vệ tối đa khả năng thu hồi nợ của chủ nợ Do đó, chủ nợ được phân loại theo giá trị tài sản bảo đảm so với khoản nợ Tài sản bảo đảm trở thành công cụ bảo vệ chủ nợ, đảm bảo họ có khả năng thanh toán từ chính tài sản này, mang lại lợi ích rõ ràng hơn so với khả năng phục hồi của con nợ Tài sản bảo đảm được xem là yếu tố hiện hữu và an toàn nhất đối với các chủ nợ.

Việc phân loại chủ nợ là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của từng loại chủ nợ, với mỗi chủ nợ có quyền và nghĩa vụ khác nhau Không phải tất cả các chủ nợ đều có quyền yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản doanh nghiệp hoặc quyền biểu quyết tại Hội nghị chủ nợ Do đó, tiêu chí phân loại chủ nợ của nhà làm luật dựa vào giá trị tài sản bảo đảm.

Chủ nợ có bảo đảm là những người cho vay có khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc của bên thứ ba Khi một giao dịch phát sinh nghĩa vụ thanh toán và nghĩa vụ này được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, chủ nợ sẽ được xem là chủ nợ có bảo đảm Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện tại hoặc tài sản hình thành trong tương lai, miễn là không vi phạm quy định pháp luật về giao dịch.

Giá trị tài sản bảo đảm của doanh nghiệp cần phải bằng hoặc lớn hơn giá trị nghĩa vụ thanh toán Tuy nhiên, giá trị này có thể thay đổi theo thời gian, ảnh hưởng đến tư cách của chủ nợ Do đó, việc xác định thời điểm để đánh giá giá trị tài sản bảo đảm là rất quan trọng, nhằm đảm bảo quyền lợi và tư cách của chủ nợ được bảo vệ.

Chủ nợ có bảo đảm thường gây nhầm lẫn, vì thuật ngữ này bao gồm cả chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm toàn bộ Việc hiểu rõ sự khác biệt giữa hai loại chủ nợ này là rất quan trọng trong lĩnh vực tài chính.

Theo Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 và Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012, chủ nợ có bảo đảm một phần cũng được xem là chủ nợ có bảo đảm Do đó, việc xác định tên gọi của chủ nợ cần phải rõ ràng hơn, thay vì gọi là chủ nợ có bảo đảm, nên sử dụng thuật ngữ chủ nợ có bảo đảm toàn bộ để đảm bảo tính đầy đủ và rõ nghĩa.

Chủ nợ có bảo đảm một phần là những người cho vay có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc của bên thứ ba Tuy nhiên, giá trị tài sản bảo đảm này lại thấp hơn so với tổng giá trị khoản nợ.

- Chủ nợ không có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc người thứ ba

Liên quan đến vấn đề này, Bộ luật Dân sự 2005 và Nghị định 163/2006/NĐ-

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:29

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w